Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Công tác quản lý của nhà nước về hoạt động tôn giáo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.84 KB, 80 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

TRẦN THỊ HƢỚNG

CÔNG TÁC QUẢN LÝ
CỦA NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TÓM TẮT KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI, 2012

1


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô trong Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy, cô Khoa Giáo dục chính trị đã giảng dạy
em trong suốt thời gian qua.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới Ths. Lê Thị Minh Thảo người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình, cũng như bạn bè đã tạo
điều kiện và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân,
nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu xót, kính mong sự chỉ bảo của các
thầy (cô), cũng như của các bạn sinh viên để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Hướng


2


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của Ths.
Lê Thị Minh Thảo. Tôi xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Hướng

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO .............................................. 6
1.1. Một số vấn đề lý luận ................................................................................. 6
1.2. Chủ thể, khách thể, nội dung và phương pháp quản lý của nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo .................................................................................... 19
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO ......................................................... 31
2.1. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 31
2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ................................................................................................... 60

KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72
4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã hội ra đời từ hàng nghìn năm nay và
sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó đoán định. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính
trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của
nhiều dân tộc, nhiều quốc gia.
Hiện nay tôn giáo ngày càng can thiệp sâu hơn vào đời sống con người
bằng nhiều hình thức khác nhau. Là một trong những vấn đề nhạy cảm không
chỉ riêng ở Việt Nam mà cả trên thế giới, tôn giáo và dân tộc là một trong
những nhân tố tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định ở nhiều quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Bởi vậy, không một quốc gia nào không đặt ra vấn đề cần phải có
sự quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, số lượng người theo tôn giáo khá
đông (chỉ tính riêng 6 tôn giáo lớn, số tín đồ đã chiếm khoảng ¼ dân số). Do
đó, việc đề ra chính sách tôn giáo đúng đắn và thực hiện có hiệu quả chính
5


sách đó là một vấn đề hệ trọng, không những ảnh hưởng đến quyền lợi hợp
pháp và nhu cầu của một bộ phận nhân dân, mà còn tác động không nhỏ đến
tình hình kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Nhận thức rõ điều này,
Đảng và Nhà nước ta luôn đưa ra và thực hiện được chính sách đúng đắn về
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ

chính trị ngày 16/10/1990 là một dấu mốc quan trọng về đổi mới nhận thức
của Đảng về vấn đề tôn giáo. Ngày 18/06/2004 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ
ngày 15/11/2004; tiếp theo, ngày 01/03/2005 Chính phủ ban hành Nghị định
số 22 nhằm cụ thể hóa tư tưởng - tinh thần Pháp lệnh, hướng dẫn các ngành,
các cấp thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo trong tình hình
hiện nay. Những văn bản trên đã thể hiện những bước tiến rất quan trọng
trong việc đổi mới chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động
tôn giáo; thể hiện sự tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, đáp
ứng yêu cầu của công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo ngày càng
chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Trong xu thế đổi mới chung của đất nước, trong những năm gần đây, sự
đồng hành của các tôn giáo cùng dân tộc trên con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội đã tăng lên. Hầu hết mọi hoạt động tôn giáo đều diễn ra trong khuôn khổ
chính sách, pháp luật và tuân thủ việc quản lý của chính quyền. Nhờ vậy, khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố. Tuy nhiên, hiện nay cũng đã xuất hiện
các hoạt động tôn giáo không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền, vi
phạm một số quy định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo như: một số chức
sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung cấp thông tin sai lệch
về tình hình tôn giáo ở trong nước; một số tôn giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai
cơ sở thờ tự để có những hoạt động chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất
phức tạp; có giáo phái đòi tách khỏi giáo hội và sự quản lý của nhà nước; nhiều
6


tổ chức đội lốt tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng chống lại chính quyền, tạo cớ
để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta xác định phải tăng cường công tác
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín

ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng
tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài: “Công tác quản lý của
nhà nước về hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” làm chủ đề nghiên
cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, có nhiều công trình, nhiều bài viết về tôn giáo và ảnh hưởng
của tôn giáo đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Điều này
được thể hiện ở nhiều công trình nghiên cứu như: “Lý luận về tôn giáo và tình
hình tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003, Nxb Chính trị
quốc gia); “Một số hiểu biết về tôn giáo. Tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn
Văn Trung (1993, Nxb Quân đội nhân dân). Đây là những công trình đã đi
sâu nghiên cứu sự ra đời, phát triển của tôn giáo nói chung, tôn giáo ở Việt
Nam nói riêng và vai trò của tôn giáo đối với đời sống Việt Nam qua các thời
kỳ kịch sử.
Vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo có các đề tài như: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện
nay” của TS Nguyễn Hữu Khiển (2001, Nxb Công an nhân dân), tác giả chủ
yếu nghiên cứu những nội dung về công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo
ở nước ta hiện nay; “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một yêu
cầu khách quan” của TS Trần Minh Thư (2005, Tạp chí công tác tôn giáo số
3), nghiên cứu về tính tất yếu khách quan của việc quản lý nhà nước đối với

7


hoạt động tôn giáo; “Quản lý hoạt động tôn giáo - cơ sở lý luận và thực tiễn”
của Bùi Đức Luận (2005, Nxb Tôn giáo), tác giả đã lý giải những vấn đề có
tính lý luận và thực tiễn đang diễn ra sôi động hiện nay trong hoạt động tín

ngưỡng tôn giáo,…
Các công trình trên đã đề cập nhiều khía cạnh khác nhau của tôn giáo,
đặt vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở từng lĩnh vực, từng
địa phương khác nhau và có nhiều ý kiến phong phú có thể tham khảo, học
tập. Tuy nhiên, những đề tài này chưa đi sâu tìm hiểu vấn đề quản lý nhà
nước đối với các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Nên đề tài tôi đưa
ra là một đề tài mới mẻ, mang tính khái quát và có hệ thống. Trên cơ sở kế
thừa, phát huy những kết quả đã thu được của các công trình nghiên cứu đi
trước, tôi mong muốn tìm hiểu rõ hơn công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo, từ đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay, những thành tựu và hạn chế trên vấn
đề này. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, khóa luận phải thực hiện nhiệm vụ cụ thể,
đó là:
- Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo.
- Hai là, làm rõ tình hình thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

8


- Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở Việt Nam trong tình hình mới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo bao gồm
việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý, tổ chức tôn giáo.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi có Nghị
quyết 24 NQ/TW của Bộ chính trị về tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới (Từ năm 1990 đến nay).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đổi mới của Đảng,
Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo; đồng thời
kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học liên quan đến đề tài.
Các phương pháp được sử dụng khi nghiên cứu đề tài là: phương pháp
logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu, khảo sát thực tế
và liên hệ thực tế để đạt được mục đích và nhiệm vụ đề ra.
6. Đóng góp của đề tài
Thông qua việc tìm hiểu đề tài một cách hệ thống, cùng với việc sưu
tầm khối lượng liến thức liên quan giúp bản thân có thêm những hiểu biết về
tôn giáo, làm giàu thêm những kiến thức về tôn giáo học, củng cố lập trường
duy vật và phương pháp luận biện chứng, đồng thời góp phần làm sáng tỏ
phần nào nội dung và phương pháp quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo.

9


Khóa luận góp phần làm tài liệu tham khảo cho những người làm công
tác giảng dạy và học tập chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học, những

người hoạt động thực tiễn về lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, nhất là cho sự
nghiên cứu của cán bộ quản lý công tác tôn giáo ở cơ sở.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của khóa luận bao gồm 2 chương và 4 tiết.

Chƣơng 1
NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1. Một số vấn đề lý luận
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
* Khái niệm quản lý
Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu, nhưng thuật ngữ quản lý cho
đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu. Tùy từng mục tiêu nghiên cứu khác nhau,
dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đưa ra các quan niệm khác
nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là tiến trình bao gồm các khâu lập
kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong
tổ chức và sử dụng các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt mục tiêu đã
định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng
bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển
phù hợp với những quy luật nhất định. Mặc dù có nhiều quan niệm, song
10


thuật ngữ quản lý đều được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà quản lý
thống nhất ở hai nội dung:
Thứ nhất, Quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý.
Thứ hai, Mục tiêu quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt
động (vận hành) phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước.

Nói đến quản lý trước hết đó là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của
chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không phải mang tính
đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà
chủ thể quản lý đặt ra là hướng tới đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý
chí của mình.
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên
đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra từ trước.
* Khái niệm quản lý nhà nước
Hoạt động quản lý xuất hiện từ rất lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó
quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội xuất hiện từ khi
lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác
động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành
vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của nhà quản lý và quy luật
khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành. Khi nhà nước xuất
hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do nhà nước đảm nhiệm
- quản lý nhà nước xuất hiện. Hiện nay khái niệm quản lý nhà nước được hiểu
theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, được sử dụng quyền
lực nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con
người do tất cả các cơ quan nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến
hành để thực hiện các chức năng của nhà nước đối với xã hội.

11


Nghĩa hẹp: Là dạng quản lý xã hội mang tính quyền lực nhà nước với
chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của cơ quan
trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp).
* Khái niệm tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội đã xuất hiện từ lâu (Phật

giáo khoảng thế kỷ thứ VI TCN, Công giáo thế kỷ I TCN,…).
Khái niệm về tôn giáo là vấn đề gây nhiều tranh cãi đối với các nhà
khoa học xã hội. Vấn đề được đặt ra, định nghĩa tôn giáo làm thế nào để có
thể bao hàm tất cả những thay đổi của các hiện tượng tôn giáo, thậm chí kể cả
những hình thái mới của hành động tín ngưỡng.
Các nhà nghiên cứu tôn giáo đều ít nhiều đồng ý tôn giáo có liên quan
đến cái linh thiêng, cái siêu tự nhiên, cái siêu nghiệm trong thế giới đối lập
với cái trần tục, cái duy nghiệm. Nhưng cái linh thiêng, cái siêu tự nhiên, siêu
nghiệm có thực sự là như vậy không khi là đối tượng của sự mổ xẻ khoa học.
Tôn giáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học xã hội (triết
học, tâm lý học, lịch sử, dân tộc học, xã hội học,…) nhiều bộ môn đặt ra vấn
đề phải định nghĩa tôn giáo và trong lịch sử bộ môn xã hội học tôn giáo, đại
bộ phận những nhà xã hội học đều đã cố gắng đưa ra định nghĩa về tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội duy
tâm thần bí nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin cũng thừa nhận tính chất, vai trò
của tôn giáo, thừa nhận tôn giáo còn tồn tại lâu dài đồng thời chỉ rõ nguồn gốc
của tôn giáo chính là xã hội, là tồn tại xã hội, là cuộc sống của con người lại
được phản ánh một cách hoang đường kỳ dị.
Theo Mác, tôn giáo là một sản phẩm xã hội, nó được quy định và quyết
định bởi lịch sử vì cơ sở của quá trình lịch sử là sự phát triển của các điều
kiện vật chất của đời sống xã hội nên nguồn phát sinh của biểu tượng tôn giáo
cũng ở ngay trong điều kiện sinh sống của con người. Những lực lượng trần
tục thống trị con người, đè nặng lên ý thức của họ một cách hoang đường đã
12


sinh ra những biểu tượng siêu nhiên. Những hình ảnh và biểu tượng tôn giáo
trong ý thức của con người chính là tồn tại được phản ánh.
Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã viết: “Tất cả mọi tôn
giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là

sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những
lực lượng siêu trần thế” [12, tr.437].
Ở Việt Nam hiện nay, vẫn phổ biến một quan điểm về tôn giáo theo
loại hình tôn giáo của giáo hội, vẫn phân biệt tôn giáo và tín ngưỡng dân gian
như là hai cấp độ phát triển, như nhận xét của một tác giả nghiên cứu tôn
giáo: “Hiện nay, ở nước ta và một số nước dường như chỉ coi các hình thức
tôn giáo nảy sinh ra từ xã hội có giai cấp, hay đúng hơn nữa là phải có tổ
chức, giáo lí, giáo luật, mới được coi là tôn giáo” [22, tr.29]. Thêm vào đó là
những khó khăn về khoảng cách giữa những định nghĩa về tôn giáo có tính
cách học thuật và thực tiễn thi hành chính sách tôn giáo. Trong thời gian gần
đây, những nhà nghiên cứu tôn giáo ở Việt Nam cũng bàn luận về định nghĩa
tôn giáo bằng cách phê phán hay tán đồng định nghĩa của các tác giả nước
ngoài, như định nghĩa của Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn: “… đối tượng chung
nhất của tôn giáo, Tây cũng như Đông, là thế giới siêu nhiên vô hình được
chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo giữa con
người và thế giới đó nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế, cũng như thế
giới bên kia trong những hoàn cảnh lịch sử, địa lý khác nhau của từng cộng
đồng tôn giáo hay xã hội khác nhau” [22, tr.23]. Hay trong sách: “Lý luận về
tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” có nêu: Tôn giáo là niềm tin vào
các lực lượng siêu tự nhiên cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu
hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý, văn
hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng
những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt:
13


“Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm, dựa trên cơ sở tin
và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên, cho rằng có những lực lượng siêu
tự nhiên định đoạt tất cả, con người phải phục tùng và tôn thờ” [24, tr.1011].
Như vậy, hiện nay ở Việt Nam, khái niệm tôn giáo chưa được giải thích

cụ thể, tuy nhiên tùy cách tiếp cận mà đưa ra cách hiểu khác nhau về tôn giáo.
Về phương diện quản lý nhà nước, tôn giáo được hiểu là một cộng đồng
người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí, có hệ thống giáo lý
hay một giáo chủ, có một kết cấu là tổ chức giáo hội.
* Khái niệm hoạt động tôn giáo
Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo. Truyền bá giáo lý, giáo luật (còn gọi là
truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn
giáo. Thông qua hoạt động truyền đạo, niềm tin tôn giáo của tín đồ được củng
cố, luật lệ trong tôn giáo được tín đồ thực hiện. Đối với những người chưa
phải là tín đồ, hoạt động truyền đạo giúp họ hiểu, tin và theo tôn giáo. Thông
qua hoạt động truyền đạo để phát triển lực lượng tín đồ. Thực hành giáo luật,
lễ nghi (còn gọi là hành đạo) là hoạt động của tín đồ, nhà tu hành, chức sắc
tôn giáo thể hiện sự tuân thủ giáo luật, thỏa mãn đức tin tôn giáo của cá nhân
tôn giáo hay của cộng đồng tín đồ. Còn hoạt động quản lý tổ chức của tôn
giáo nhằm thực hiện quy định của giáo luật, thực hiện hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
Trong các hoạt động này, việc phân định ranh giới giữa hoạt động truyền đạo
với hoạt động hành đạo cũng chỉ tương đối, có không ít hoạt động hành đạo
có hoạt động truyền đạo.
* Khái niệm quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
Từ các khái niệm quản lý, quản lý nhà nước, tôn giáo, hoạt động tôn
giáo, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo theo hai nghĩa sau:
14


Nghĩa rộng: Là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp,
Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật
để tác động điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động

tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được
mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.
Nghĩa hẹp: Là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy
ban nhân dân các cấp) để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi
hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của
pháp luật.
1.1.2. Yêu cầu khách quan của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở nước ta hiện nay
Trong quá trình quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo có
một số quan điểm cho rằng hoạt động tôn giáo là hoạt động mang tính chất
nội bộ của tôn giáo, nhà nước không cần phải quản lý, điều chỉnh, nếu nhà
nước quản lý, điều chỉnh sẽ không còn tự do tôn giáo.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, nhà nước nào, ở
đâu có hoạt động tôn giáo thì đều có sự can thiệp, điều chỉnh của nhà nước.
Tuy nhiên, sự điều chỉnh của nhà nước ở mức độ nào có sự khác nhau, tùy
thuộc vào nhà nước, nếu thấy là cần thiết để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi
ích của xã hội, giữ gìn được trật tự xã hội : Yêu cầu quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo trong lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển, ảnh
hưởng của tôn giáo không chỉ xuất phát từ ý chí của nhà nước mà còn xuất
phát từ thực tế khách quan về lịch sử, hiện tại và tương lai. Tôn giáo là thực
thể của xã hội, tồn tại khách quan, lâu dài cùng với sự phát triển của xã hội.
Tôn giáo ra đời từ những tiền đề về kinh tế - xã hội, từ các nguồn gốc tâm lý,
nhận thức, trong đó nguồn gốc về kinh tế - xã hội giữ vai trò quyết định. Khi

15


những nguồn gốc làm phát sinh tôn giáo chưa giải quyết được, tôn giáo vẫn
còn tồn tại. Thừa nhận thực tế khách quan này, nhà nước cần tôn trọng và

đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo còn rất sâu sắc trong quần chúng
nhân dân. Tuy nhiên, trong lịch sử cũng như thực tiễn cho thấy, quá trình tồn
tại và phát triển tôn giáo có ảnh hưởng khá sâu sắc đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Tôn giáo tham gia thực hiện nhiều
chức năng đối với xã hội như chức năng thế giới quan (chức năng nhận thức
thế giới), chức năng liên kết cộng đồng, chức năng điều chỉnh hành vi của con
người,… Thực hiện các chức năng này, tôn giáo vừa mang những ưu điểm:
đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, đoàn kết những con người bị áp bức
trong cuộc đấu tranh chống lại những bất công của xã hội, khuyên răn con
người hướng thiện, làm việc tốt, bỏ điều ác,…; nhưng đồng thời cũng mang
nhiều hạn chế, tiêu cực: hạn chế trong việc nhận thức thế giới khách quan, bị
lợi dụng vì mục đích chính trị đen tối,… Để đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân, phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực,
Nhà nước cần thiết phải quản lý các hoạt động này, đảm bảo cho các hoạt
động tôn giáo diễn ra phù hợp với sự phát triển chung của xã hội.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo không những là cần thiết mà còn cần phải
tăng cường. Yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo xuất phát từ những lý do sau:
Thứ nhất, quá trình đổi mới ở nước ta đang diễn ra sâu rộng trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tôn giáo.
Trong lĩnh vực tôn giáo, từ khi thành lập nước ta đến nay mặc dù quan
điểm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán, song
những năm gần đây, quan điểm đó ngày càng mang tính minh bạch rõ ràng và
chứa đựng nội dung mới. Các Nghị quyết của Đảng về công tác tôn giáo đều

16


nhìn nhận “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân

dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết các dân tộc”
và “Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc; đoàn
kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo”. Quán triệt những
quan điểm của Đảng, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cần
có những đổi mới, có sự tăng cường để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Thứ hai, trước yêu cầu của cải cách hành chính nhà nước nói chung và
quản lý hành chính nhà nước đối với hoạt động tôn giáo nói riêng đặt ra nhiều
vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Về hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động tôn giáo trước khi có Pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao
nhất điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mới dừng ở hình thức
Nghị định của Chính phủ, giá trị pháp lý thấp, nhiều nội dung thiếu rõ ràng,
còn mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện. Sau khi
Pháp lệnh được ban hành, để đưa Pháp lệnh vào cuộc sống cần phải tiếp tục
có những văn bản hướng dẫn chi tiết.
Các quy định về trình tự, thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo rất thiếu, còn rườm rà; nhiều nội dung quản lý thiếu
các quy định cụ thể gây khó khăn cho cả người quản lý và đối tượng thực
hiện, không đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính hiện nay.
Về tổ chức, bộ máy làm công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
tôn giáo trước khi Nghị định số 91/2003/NĐ-CP ngày 13/08/2003 của Chính
phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo
Chính phủ, Nghị định số 22/2004/NĐ-CP ngày 12/01/2004 của Chính phủ về
kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo thuộc Ủy ban nhân dân các
cấp được ban hành còn rất nhiều bất cập. Bộ máy thiếu thống nhất; chức

17



năng, nhiệm vụ thiếu rõ ràng; đội ngũ cán bộ vừa thiếu vừa yếu. Sau khi Nghị
định số 91/2003/NĐ-CP và Nghị định số 22/2004/NĐ-CP của Chính phủ
được ban hành, hệ thống tổ chức này được củng cố một bước; tuy nhiên quá
trình triển khai các Nghị định trên còn gặp không ít khó khăn. Thực tiễn này
đòi hỏi cần tiếp tục củng cố, tăng cường hệ thống tổ chức, bộ máy làm công
tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước đối với tôn giáo. Phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà nước trong hệ thống chính
trị làm công tác tôn giáo trong đó có bộ máy làm công tác quản lý nhà nước
về tôn giáo.
Thứ ba, cần phải có sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
để phá tan âm mưu phá hoại của kẻ thù.
Quá trình hội nhập, mở cửa ở nước ta, bên cạnh những thành quả tích
cực, cũng gặp không ít những hạn chế, tiêu cực. Lợi dụng mở cửa, hội nhập,
các thế lực thù địch, phản động tiếp tục chống phá sự nghiệp đổi mới của
Đảng, Nhà nước và của nhân dân ta. Tôn giáo tiếp tục là một trong những con
bài quan trọng được chúng lợi dụng chống phá cách mạng, chia rẽ Đảng, Nhà
nước và nhân dân, giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người
không có tín ngưỡng, tôn giáo, thực hiện âm mưu “Diễn biễn hòa bình”. Các
sự kiện tại Tây Nguyên năm 2001 và tháng 4/2004 là minh chứng hùng hồn
về thủ đoạn lợi dụng tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch để chia rẽ dân
tộc, chống phá chế độ. Vì vậy cần phải cảnh giác cách mạng, phải tăng cường
sự quản lý nhà nước để phá tan âm mưu của kẻ thù.
Tất nhiên, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo
không đồng nhất với việc hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công
dân. Thông qua tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, hoạt
động tôn giáo chính đáng, hợp pháp sẽ được nhà nước bảo hộ; những hoạt

18



động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để thực hiện những hành vi trái pháp luật
sẽ bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Mục tiêu và nguyên tắc của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo ở nước ta hiện nay
* Mục tiêu quản lý
Mục tiêu là cái hướng tới và cần đạt được. Đối với công tác quản lý nhà
nước về hoạt động tôn giáo, cần hướng tới và đạt được mục tiêu chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, đảm bảo cho các
hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường theo quy định của pháp luật.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền con người
cơ bản được công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp
quốc ghi nhận. Nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo còn tồn tại lâu dài cùng với sự
phát triển của xã hội loài người chừng nào những nguồn gốc làm phát sinh ra
nó chưa giải quyết được. Suốt quá trình đấu tranh cách mạng giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, coi đó là quyền cơ bản của công dân. Cùng
với việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, phải bảo
đảm cho tổ chức, cá nhân tôn giáo được thực hiện các hoạt động hành đạo,
truyền đạo và quản lý tổ chức một cách thuận lợi.
Quản lý nhà nước cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo thuần túy
với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để có những biện pháp quản lý phù
hợp, tránh can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo. Trong hoạt động tôn
giáo, chúng ta cũng yêu cầu các tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành
tuân thủ quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm đều phải bị phê phán,
nghiêm cấm và xử lý theo quy định của pháp luật.

19



Thứ hai, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy
được những mặt tích cực, khắc phục được những hạn chế, tiêu cực của tôn
giáo đối với sự phát triển của xã hội.
Vai trò tích cực, những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo trong công cuộc
đổi mới ở nước ta là rất rõ, bởi vậy quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo phải phát huy những yếu tố tích cực thể hiện trong giáo lý, giáo luật của
tôn giáo. Tính hướng thiện, từ bi, bác ái, vì con người của tôn giáo phải được
khơi dậy trong ứng xử giữa con người với con người trong xã hội: “Học
thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn
giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu
điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm của nó là lòng yêu nước, chính sách của nó thích hợp với điều kiện
nước ta… Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu hạnh
phúc cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họ họp lại một
chỗ tôi tin rằng họ sẽ chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn
thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị đó” [25, tr.91]. Tạo
điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng nhà nước và xã hội giải
quyết những vấn đề của xã hội như vấn đề xã hội hóa hoạt động giáo dục, y
tế, cứu trợ thiên tai, từ thiện nhân đạo,… Thông qua quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo, phải giúp cho quần chúng từng bước xóa bỏ được những
nhận thức lệch lạc về thế giới và con người, những luật lệ khắt khe trong tôn
giáo. Đặc biệt phải chống được âm mưu lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo chống
lại Đảng, Nhà nước, xâm hại đến các quan hệ xã hội được Nhà nước bảo hộ.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo phải thực hiện
được mục tiêu đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

20



Mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo luôn là bài học quan
trọng trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, là
truyền thống quý báu tạo nên sức mạnh của dân tộc. Trong công tác tôn giáo,
mục tiêu đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo càng quan trọng khi tôn giáo
luôn là một trong những công cụ, phương tiện được các thế lực thù địch, phản
động trong và ngoài nước chia rẽ người theo đạo và người không theo đạo,
thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình.
Thứ tư, quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo sự
tăng cường vai trò của nhà nước trong việc điều chỉnh hoạt động tôn giáo.
Tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà nước
thừa nhận, phải đặt dưới sự quản lý của nhà nước. Hoạt động tôn giáo phải
tuân thủ những quy định của Nhà nước. Mọi hành vi nhằm biến tôn giáo
thành một lực lượng đối trọng với nhà nước, thoát ly khỏi sự quản lý của nhà
nước đều là bất hợp pháp. Hoạt động tôn giáo nằm ngoài khuôn khổ pháp luật
mà nhà nước đã đặt ra đều phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Khi vai
trò của nhà nước trong điều chỉnh các hoạt động tôn giáo được tăng cường,
hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này sẽ được nâng
cao, các quy định quản lý nhà nước được các tổ chức, cá nhân tôn giáo thực
hiện nghiêm chỉnh, triệt để, pháp chế trong công tác tôn giáo được giữ vững.
* Nguyên tắc quản lý
Hoạt động quản lý nhà nước, trước hết, theo các nguyên tắc cơ bản của
quản lý nhà nước (nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước quản lý, nguyên tắc
tập trung dân chủ,…). Tuy nhiên, mỗi lĩnh vực của quản lý những hoạt động
đặc thù, do đó cần thiết phải tuân theo một số các nguyên tắc có tính riêng
biệt liên quan đến đối tượng, khách thể quản lý.
Trong lĩnh vực các hoạt động tôn giáo, có một số nguyên tắc chính sau:
- Nguyên tắc mọi công dân bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật

21



Đây là nguyên tắc của thể chế dân chủ, có tính phổ quát ở Nhà nước ta
đã quy định trong Hiến pháp (Điều 52). Tuy nhiên, trong quản lý các hoạt động
tôn giáo có những hạn chế nhất định giữa công dân có đạo và công dân không
có đạo. Điều 70, Hiến pháp 1992; Điều 1, Nghị định 26/CP quy định: Nhà
nước đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng; công dân
theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, được
hưởng những quyền lợi, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
- Nguyên tắc tự do tín ngưỡng
Nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý đối với nhu cầu theo hay không theo
một tôn giáo, một tín ngưỡng.
Tín ngưỡng là một nhu cầu tinh thần của con người, đã xuất hiện từ rất
sớm. Tín ngưỡng gắn liền với đời sống sản xuất vật chất và văn hóa. Tín
ngưỡng là niềm tin của con người về một đấng tối cao, về thần linh có sức
mạnh siêu thực và có năng lực giải thoát.
Tuy nhiên, tín ngưỡng, lòng tin nơi con người không giống nhau giữa
các cộng đồng người khác nhau. Vì vậy, sự tự do cũng có nghĩa là con người
tự nguyện trong tinh thần hướng tới một đấng tối cao, không ai có thể áp đặt
hoặc tước bỏ. Tự do tín ngưỡng không chấp nhận sự thôn tính, sự độc tôn của
tôn giáo này với tôn giáo khác. Cũng không thể áp đặt hoặc gạt bỏ thông qua
chính trị.
Nhà nước Việt Nam từ khi có Hiến pháp dân chủ, vấn đề tự do tín
ngưỡng, tự do lựa chọn tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng và ghi nhận ở
văn bản pháp lý cao nhất là Hiến pháp. Tự do tín ngưỡng được thể hiện qua
các yếu tố: mỗi người được tự do theo hoặc không theo một tôn giáo nào đó,
mọi tôn giáo đều bình đẳng, hoạt động hành đạo tách khỏi hoạt động Nhà
nước và trường học.


22


- Nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá
trị văn hóa
Tín ngưỡng bao giờ cũng thể hiện thông qua vật chất của con người.
Tín ngưỡng, lòng tin tôn giáo được vật chất hóa trong đời sống xã hội thể hiện
qua các kinh sách, luật lệ, lễ nghi,… Các công trình kiến trúc tôn giáo bao giờ
cũng vừa là nơi thờ phụng của các tôn giáo, đồng thời cũng là những kiệt tác
về kiến trúc, về văn hóa, nó gắn liền hoặc trở thành những trường phái hội
họa, kiến trúc qua các thời kỳ khác nhau.
Vì vậy, sự tồn tại của tôn giáo, của đời sống tinh thần trong tín ngưỡng
của con người là những động lực cho sự phát triển và bảo tồn văn hóa. Những
sự bịa đặt, những hủ tục mê tín, lợi dụng trong sinh hoạt tôn giáo thể hiện ra
trong một vài sinh hoạt thường nhật lẫn vào sinh hoạt tôn giáo trở thành hạt
sạn, trở thành vật cản không những trái với lòng tin tôn giáo, mà còn là những
sản phẩm ít có giá trị văn hóa.
- Nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất, hài hòa giữa lợi ích cá nhân, cộng
đồng và lợi ích quốc gia, xã hội
Nhận thức cơ bản của nguyên tắc này là mỗi người có đạo thường có
nhiều nhu cầu, trong đó nhu cầu tâm linh thể hiện trong sinh hoạt tôn giáo và
trách nhiệm của công dân.
Đối với một tín đồ, nhu cầu tâm linh được thỏa mãn ngay trong sinh
hoạt tôn giáo như hành lễ, cầu nguyện. Nhưng với người tín đồ đó, với tư
cách công dân thì lợi ích xã hội nào đó có thể thực hiện được thông qua việc
thực hiện một nghĩa vụ của người đó.
Nguyên tắc này thực ra là yêu cầu ứng xử được đặt ra khi cùng một
thời điểm xuất hiện hai hoạt động khác nhau: một là sinh hoạt tôn giáo; hai là
hoạt động xã hội. Ví dụ, thời điểm để đi hành hương, hành đạo ở một nơi nào
đó trùng vào đúng thời điểm xảy ra thiên tai ở một địa phương cần có sự huy

động sức người, sức của mới có thể khắc phục được…
23


Nguyên tắc này đòi hỏi trước những mâu thuẫn như vậy thì mọi công
dân cần xác định lợi ích xã hội cộng đồng phải được đặt lên trên hết. Ngay
trong các giáo lý tôn giáo cũng có những điều răn dạy về đức hóa sinh của tín
đồ, phật tử với đồng loại, với xã hội.
1.2. Chủ thể, khách thể, nội dung và phƣơng pháp quản lý của nhà nƣớc
đối với hoạt động tôn giáo
1.2.1. Chủ thể và khách thể trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo
* Chủ thể quản lý
Chủ thể quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo được hiểu
theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Chủ thể quản lý đối với hoạt động tôn giáo đó là các cơ
quan nhà nước thuộc hệ thống lập pháp (Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp), các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban
nhân dân các cấp), các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống tư pháp (Viện kiểm
sát nhân dân và Tòa án nhân dân).
Nghĩa hẹp: Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo chỉ
gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp (Chính phủ và Ủy ban
nhân dân các cấp).
Trước đây, trong quản lý cũng như trong hoạt động thực tiễn, khi xác
định chủ thể quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo người ta thường
hiểu theo nghĩa hẹp, coi nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo chỉ là quá
trình chấp hành và điều hành theo Hiến pháp và pháp luật của hệ thống cơ
quan hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi trong
hoạt động tôn giáo cho chúng diễn ra trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. Với quan niệm như vậy sẽ không thấy và phát huy được vai trò của hệ

thống cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp trong quản lý nhà nước đối với hoạt

24


động tôn giáo. Trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, cần phải phát huy, đề cao vị trí, vai trò của các cơ
quan này trong quản lý hoạt động tôn giáo.
* Khách thể quản lý
Khách thể quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo chính là hoạt
động tôn giáo của tổ chức tôn giáo, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành.
- Về tín đồ, chức sắc, nhà tu hành
Là những công dân Việt Nam, tín đồ, chức sắc, nhà tu hành vừa mang
bản sắc vừa mang bản chất, đặc trưng chung của người Việt Nam nhưng đồng
thời cũng có những nét đặc trưng riêng của những người có đạo.
Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa
nhận. Số lượng tín đồ tôn giáo ở Việt Nam hiện nay khá đông đảo (khoảng
20% dân số cả nước). Đại đa số đồng bào tín đồ các tôn giáo là nông dân và
nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ
quốc. Nhìn chung đồng bào tín đồ theo các tôn giáo khác nhau và đồng bào
không theo tôn giáo đang đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng
hướng tới mục tiêu chung xây dựng Việt Nam ngày một phát triển. Trong
quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những điểm
tích cực ấy, phải coi đó là một yếu tố quan trọng góp phần phát huy nội lực để
xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, còn có một số tín đồ bị các thế lực thù địch
lợi dụng, nghe theo kẻ xấu tham gia vào các vụ gây rối trật tự công cộng, đòi
hỏi công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo cần hết sức lưu ý.
Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng
theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo.
Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo. Là những

người được tổ chức tôn giáo lựa chọn, đào tạo cơ bản nên trình độ, năng lực
của họ khá cao. Hiện nay, số lượng nhà tu hành, chức sắc các tôn giáo ở nước

25


×