Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đến gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.47 KB, 70 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
**************

PHÙNG THỊ THỦY NGÂN

NHO GIÁO VÀ SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ
ĐẾN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học Mác – Lênin

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Th.sĩ: Nguyễn Thị Giang

HÀ NỘI – 2012

1


LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo – Thạc sĩ Nguyễn Thị
Giang đã trực tiếp hƣớng dẫn, chỉ bảo và truyền đạt kinh nghiệm trong suốt quá
trình nghiên cứu đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục chính
trị, trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đặc biệt là các thầy cô cô giáo trong tổ
bộ môn Triết học Mác – Lênin đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành đề tài
nghiên cứu của mình.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình và các bạn
sinh viên đã tạo điều kiện giúp đỡ động viên em trong suốt quá trình nghiên
cứu.


Lần đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học, đề tài của em không
tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất mong sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của
các thầy cô giáo và các bạn sinh viên để đề tài của em ngày càng hoàn thiện
hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 05 năm 2012

Sinh viên
Phùng Thị Thủy Ngân

2


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu tìm tòi của em
dƣới sự hƣớng dẫn trực tiếp của cô giáo: Thạc sĩ Nguyễn Thị Giang.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, tháng 5 năm 2012

Sinh viên
Phùng Thị Thủy Ngân

3


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………………1
1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………….…...1
2. Tình hình ngiên cứu đề tài……………………………………………2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………………….3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………...4
6. Ý nghĩa khóa luận…………………………………………………….4
7. Kết cấu khóa luận…………………………………………………….4
NỘI DUNG………………………………………………………………….5
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG………………………………………….5
1.1 Nho giáo…………………………………………………………………5
1.2 Gia đình………………………………………………………………..18
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY…………………………………….25
2.1 Tình hình kinh tế chính trị ở Việt Nam hiện nay…………………….25
2.2 Ảnh hƣởng của Nho giáo đến gia đình Việt Nam hiện nay…………..30
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG
ẢNH HƢỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƢỞNG TIÊU
CỰC CỦA NHO GIÁO TRONG GIA ĐÌNH
VIỆT NAM HIỆN NAY……………………………………46
3.1 Phát huy ảnh hƣởng tích cực và hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực
của Nho giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay…………………..47
3.2 Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế
ảnh hƣởng tiêu cực của Nho giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay…….57
KẾT LUẬN………………………………………………………………64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………65

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm

nhất trên thế giới với hơn 4000 năm phát triển liên tục, với nhiều phát minh vĩ
đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học. Có thể nói, văn minh Trung Hoa
là một trong những cái nôi văn minh nhân loại. Bên cạnh những phát minh,
phát kiến về khoa học văn minh Trung Hoa còn là nơi sản sinh ra nhiều học
thuyết triết học lớn có ảnh hƣởng đến nền văn minh Châu Á cũng nhƣ toàn thế
giới trong đó có Việt Nam.
Ngay từ khi Nho giáo vào Việt Nam, nó đã thích nghi và phát triển mạnh
mẽ, nó có ảnh hƣởng sâu sắc đến con ngƣời và xã hội, chính trị và văn hóa,
cuộc sống, hệ tƣ tƣởng và phong tục tập quán Việt Nam.
Trong những năm qua công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đã đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế thị trƣờng đã đẩy
nhanh sự tăng trƣởng kinh tế, đem lại bộ mặt mới cho xã hội. Tuy nhiên, mặt
trái của cơ chế thị trƣờng cũng đang tạo ra những xáo trộn trong quan hệ xã hội,
trong gia đình và phẩm chất cá nhân: lối sống thực dụng tôn thờ đồng tiền, coi
thƣờng đạo đức gia đình đang có chiều hƣớng gia tăng. Gia đình bị xáo trộn,
thành tạm bợ, các thành viên trong gia đình không tìm đƣợc ở đó một tổ ấm để
nghỉ ngơi, để có sự thƣ thái, sự phấn chấn. Với mục tiêu xây dựng gia đình ấm
no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm cho gia đình thực sự là tế bào của xã
hội, là tổ ấm của mỗi ngƣời. Để đạt đƣợc mục tiêu đó thì không thể không tìm
hiểu về đạo đức của Nho giáo và khắc phục những ảnh hƣởng tiêu cực của Nho
giáo trong gia đình sau đó khai thác những nhân tố tích cực để trở thành gia
đình Việt Nam vừa truyền thống vừa hiện đại. Bởi vậy, tôi đã chọn đề tài “Nho
giáo và ảnh hưởng của nó đến gia đình Việt Nam hiện nay” làm đề tài khóa
luận của mình.

5


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nho giáo là đề tài đƣợc nhiều nhà khoa học trong nƣớc và ngoài nƣớc

nghiên cứu, cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có sự đi sâu
tìm hiểu và khám phá.
Ở Việt Nam trong mấy thập kỷ nay, không kể các bài in trên tập chí, chỉ
nói riêng các công trình nghiên cứu về Nho giáo thì đã có một số lƣợng đáng kể
nhƣ:
- Tác giả Trần Trọng Kim, với tác phẩm “Nho giáo” (2 tập), xuất bản
năm 1930 đƣợc tái bản nhiều lần, gần đây nhất là năm 1992. Đây là bộ sách lớn
giới thiệu về lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc từ Khổng Tử cho đến đời Thanh,
trong đó có một số trang phụ lục, tóm tắt về sự du nhập và phát triển đạo Nho ở
Việt Nam; là tác phẩm tiếng Việt đầu tiên trình bày về sự phát triển của đạo
Nho một cách có hệ thống.
- Tác giả Phan Bội Châu, với tác phẩm “Khổng học đăng”, xuất bản năm
1957 và đƣợc tái bản năm 1998, bàn luận và diễn giải về một số tác phẩm tiêu
biểu của nhà Nho cũng nhƣ sự nghiệp của họ thuộc các thời ở Trung Quốc.
- Giáo sƣ Vũ Khiêu chủ biên cùng một số tác giả, với tác phẩm “Nho
giáo xưa và nay”, xuất bản năm 1990 gồm một số bài viết của một số tác giả
đề cập tới nhiều vấn đề của Nho giáo từ phƣơng hƣớng, phƣơng pháp tiếp cận,
đến quan hệ của Nho giáo với kinh tế, lịch sử, văn hóa.
- Nhà nghiên cứu Quang Đạm, với tác phẩm “Nho giáo xưa và nay”,
xuất bản năm 1994, phân tích sâu sắc những nội dung cơ bản của Nho giáo và
ảnh hƣởng của nó đối với Việt Nam.
- Cố giáo sƣ Trần Đình Hƣợu, với tác phẩm “Đến hiện đại từ truyền
thống”, xuất bản năm 1994, gồm những bài viết về tam giáo đặc biệt là ảnh
hƣởng của Nho giáo đến truyền thống văn hóa Việt Nam.
- PGS.TS Nguyễn Tài Thƣ, với tác phẩm “Nho học và Nho học ở Việt
Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, xuất bản năm 1997, dƣới góc độ

6



triết học đã trình bày nội dung của Nho học và vai trò của nó trong lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam.
Trên đây là một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về Nho giáo trên các
phƣơng diện: giới thiệu tác giả, tác phẩm; đánh giá vai trò của một số nhà Nho
tiêu biểu, phân tích nhƣng nguyên lý cơ bản của Nho giáo; ảnh hƣởng của Nho
giáo đến truyền thống văn hóa Việt Nam; vai trò của Nho giáo trong lịch sử tƣ
tƣởng Việt Nam. Tuy nhiên, rất ít công trình nào nghiên cứu sâu về ảnh hƣởng
của Nho giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Khóa luận làm rõ tƣ tƣởng của Nho giáo và làm rõ ảnh hƣởng của Nho
giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay, từ đó tìm giải pháp nhằm phát huy
những ảnh hƣởng tích cực và loại bỏ những ảnh hƣởng tiêu cực của Nho giáo
trong gia đình Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc các mục đích trên khóa luận phải thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Tìm hiểu về Nho giáo và gia đình.
- Ảnh hƣởng của Nho giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay trên
một số lĩnh vực.
- Đƣa ra một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực và
hạn chế ảnh hƣởng tiêu cực của Nho giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu vấn đề: Ảnh hƣởng của Nho giáo trong gia đình
Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu

7



Nghiên cứu ảnh hƣởng của Nho giáo trong gia đình Việt Nam hiện nay
trên một số mặt: các mối quan hệ trong gia đình, ảnh hƣởng về đạo đức, giáo
dục trong gia đình, từ năm 1945 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích và nhiệm vụ trên, khóa luận đã dựa vào một
số cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
đó là phƣơng pháp: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp, hệ thống hóa - khái
quát hóa, phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch.
6. Ý nghĩa của khóa luận
- Khóa luận làm rõ hơn cơ sở và lý luận thực tiễn của đề tài: “Nho giáo
và ảnh hƣởng của nó đến gia đình Việt Nam hiện nay”.
- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên trong
việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề ảnh hƣởng của Nho giáo trong gia đình Việt
Nam hiện nay.
7. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung khóa
luận gồm 3 chƣơng, 6 tiết.

8


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG

1.1 Nho giáo
1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo
* Tác giả, tác phẩm
Nói đến Nho giáo thì việc đầu tiên không thể không nhắc tới đó là Khổng
Tử. Ngƣời ta bình luận khen tặng Khổng Tử ra sao đều không thể gọi là quá lời.
Trƣớc đây hơn 2000 năm, đại sử học Tƣ Mã Thiên khi đi thăm Khúc Phụ quê

hƣơng của Khổng Tử từng cảm khái viết: “Khổng Tử áo vải truyền hơn mƣời
đời, đƣợc các học trò coi là tổng sƣ, từ thiên tử, vƣơng hầu đến thứ dân đều coi
ông là bậc trí thánh”.
Năm 1982 một học giả Mỹ viết “Hành vi cao quý và tƣ tƣởng lý luận đạo
đức của Khổng Tử không chỉ ảnh hƣởng tới Trung Quốc mà còn ảnh hƣởng tới
nhân loại”. Khổng Tử là ngƣời nƣớc Lỗ thời Xuân Thu tên là Khâu, tự là Trọng
Ni. Từ thiếu niên đến 30 tuổi, Khổng Tử chuyên cần học tập và tập luyện nắm
vững các tri thức về lễ nghi, âm nhạc, xạ tiễn, ngự xạ, thƣ, số là sau nghành tri
thức căn bản thời ấy. Sau đó ông đi giảng dạy bốn phƣơng, nghiên cứu học vấn
trong vài chục năm rồi san định, biên soạn các sách đƣợc đời sau gọi là Lục
Kinh nhƣ: Thi, Thƣ, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu.
Khổng Tử sống trong thời kỳ thay đổi lớn, biến động lớn. Từ lâu, thiên
tử nhà Chu đã mất hết uy quyền, quyền lực rơi vào tay các chƣ hầu, cục thể xã
hội biến chuyển thay đổi nhanh chóng. Đây là thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc
là giai đoạn chuyển biến từ chiếm hữu nô lệ (với các sứ quan cát cứ khắp nơi)
sang giai đoạn hình thành quốc gia phong kiến tập quyền. Nhà Chu bị phân dã
làm 7 quốc gia khác nhau: Tần, Sở, Tề, Ngụy, Hàn, Triệu, Yên. Tần Thủy
Hoàng – vua nƣớc Tần đã tiêu diệt 6 nƣớc thống nhất giang sơn hình thành nhà
nƣớc phong kiến tập quyền đầu tiên. Dƣới thời thịnh vƣợng của nhà Chu, đất
đai thuộc về nhà vua thì nay quyền sở hữu tối cao về đất đai ấy bị một tầng lớp
mới, tầng lớp địa chủ chiếm làm tƣ hữu. Một sự phân hóa sang hèn dựa trên cơ
9


sở tài sản xuất hiện. Xã hội lúc này ở vào tình trạng hết sức đảo lộn. Sự tranh
giành địa vị xã hội của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội Trung Hoa cổ đại vào
tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. Trong tình hình đó, một loạt học
thuyết chính trị - xã hội và triết học đã xuất hiện và hầu hết đều có xu hƣớng
giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Điều đó trở
thành nét đặc trƣng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ đại. Chính trong thời kỳ

loạn lạc này đã xuất hiện những nhà tƣ tƣởng vĩ đại, hình thành nên những hệ
thống triết học khá hoàn chỉnh, đƣợc tồn tại và phát triển theo suốt bề dày lịch
sử phát triển của đất nƣớc Trung Hoa.
Tuy nhiên, nền triết học Trung Hoa không chỉ quan tâm giải quyết những
vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức mà nó còn đặt ra và giải quyết những vấn đề
của triết học nhƣ vấn đề bản nguyên thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn
đề con ngƣời; đặc biệt là vấn đề tính ngƣời, vấn đề sự biến dịch của vạn vật và
một số vần đề thuộc lý luận nhận thức. Đó chính là triết học Nho giáo nổi tiếng
thời bấy giờ và cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Cơ sở của Nho giáo đƣợc hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự
đóng góp của Chu Công Đán, còn gọi là Chu Công Đến thời Xuân Thu, xã hội
loạn lạc, Khổng Tử (551 – 479 trƣớc Công Nguyên) phát triển tƣ tƣởng của
Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tƣ tƣởng đó. Chính vì thế mà
ngƣời đời sau coi ông là ngƣời sáng lập ra Nho giáo.
Cũng giống nhƣ nhiều nhà tƣ tƣởng khác trên thế giới nhƣ Thích Ca
Mầu Ni, Giê xu…ngƣời đời sau không thể nắm bắt các tƣ tƣởng của Khổng Tử
một cách trực tiếp mà chỉ đƣợc biết các tƣ tƣởng của ông bằng các ghi chép do
các học trò của ông để lại. Khó khăn nữa là thời kỳ “đốt sách, chôn Nho” của
nhà Tần, hai trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời khiến việc tìm hiểu tƣ tƣởng
gốc của Khổng Tử càng khó khăn. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu đời sau vẫn
cố gắng tìm hiểu và hệ thống các tƣ tƣởng và cuộc đời của ông.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục
Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thƣ, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và
10


Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ Kinh thƣờng
đƣợc gọi là Ngũ kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp lại các
lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là cháu
nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tƣ viết ra cuốn Trung Dung.

Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đƣa ra các tƣ tƣởng mà sau này học trò của ông
chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành nên Nho
giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo Tiền Tần (trƣớc đời Tần) Khổng giáo
hay “tƣ tƣởng Khổng Mạnh”. Từ đây mới hình thành hai khái niệm: Nho giáo
và Nho gia.Trong đó Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn đƣợc
gọi là Nho học. Còn Nho giáo mang tính tôn giáo. Ở Việt Nam, với Nho giáo
thì Văn Miếu trở thành thánh đƣờng và Khổng Tử trở thành giáo chủ, giáo lý
chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
Các tác phẩm của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo nguyên
thủy. Sách kinh điển gồm hai bộ: “Ngũ Kinh và Tứ Thƣ”. Hệ thống kinh điển
đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự
nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hƣớng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo
đức là những tƣ tƣởng cốt lõi của Nho gia.
- Ngũ kinh:
Kinh Thi: Sƣu tập các bài thơ dân gian có từ trƣớc Khổng Tử nói nhiều
về tình yêu nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
ngƣời tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong
sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai “học Kinh Thi chƣa?”, ngƣời con trai trả
lời “chƣa”. Khổng Tử nói “không học Kinh Thi thì không biết nói năng ra sao”
(sách Luận Ngữ).
Kinh Thư: Ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trƣớc
Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gƣơng các
minh quân nhƣ Nghiêu, Thuấn, chứ đừng tàn bạo nhƣ Kiệt, Trụ.

11


Kinh Lễ: Ghi chép các lễ nghi thời trƣớc, Khổng Tử hiệu đính lại mong
dùng làm phƣơng tiện để duy trì và trật tự ổn định Khổng Tử nói: “Không học
Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời”. (sách Luận Ngữ).

Kinh Dịch: Nói về các tƣ tƣởng triết học của ngƣời Trung Hoa cổ đại dựa
trên các khái niệm âm dƣơng, bát quái…Đời Chu, Chu Văn Vƣơng đặt tên và
giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Công Đán giải thích chi tiết
từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời Chu gọi là Chu Dịch.
Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán Từ và Hào Từ cho dễ hiểu hơn và gọi là
Thoán truyện và Hào truyện.
Kinh Xuân Thu: Ghi lại các biến cố xảy ra ở nƣớc Lỗ, quê của Khổng Tử.
Khổng Tử không chỉ ghi chép nhƣ một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nƣớc
nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để
giáo dục các bậc vua chúa. Ông nói “Thiên hạ biết đến ta bởi kinh Xuân Thu,
thiên hạ trách ta cũng sẽ ở Kinh Xuân thu này”. Đây là cuốn kinh Khổng Tử
tâm đắc nhất. (Xuân Thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói những sự việc
xảy ra).
Kinh Nhạc: Do Khổng Tử hiệu đính nhƣng về sau bị thất lạc, chỉ còn lại
một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Nhƣ vậy Lục Kinh
chỉ còn lại Ngũ Kinh.
- Tứ Thƣ
Luận Ngữ: Ghi lại lời dạy của Khổng Tử do học trò của ông ghi chép lại
sau khi ông mất. (Luận Ngữ = các lời bình luận).
Đại học: Dạy phép làm ngƣời để trở thành bậc quân tử. Sách này do
Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử, dựa trên
lời dạy của ông soạn ra. (Đại học = sự học lớn).
Trung Dung: Dạy ngƣời ta cách sống dung hòa, không thiên lệch. Sách
này do ngƣời cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, học trò của Tăng Tử, còn
gọi là Tử Tƣ soạn ra. (Trung = ý muốn nói cái Tâm không lệch bên này hay bên
kia, Dung = có nghĩa dung dƣỡng, giữ mãi ở mức nhƣ vậy).
12


Mạnh Tử: Ghi lại lời dạy của Mạnh Tử. Mạnh Tử tên thật là Mạnh Kha,

là ngƣời tiêu biểu nhất sau Khổng Tử, thuộc dòng Tử Tƣ, phát triển tƣ tƣởng
của Khổng Tử ở thời Chiến Quốc (390 - 305 trƣớc Công nguyên).
* Nho giáo qua các thời kỳ
Nho giáo nổi bật trong hai thời kỳ là Hán Nho và Tống Nho:
- Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học và Trung Dung đƣợc gộp vào
Lễ Ký. Hán Vũ Đế đƣa Nho giáo lên hàng quốc giáo và dùng nó làm công cụ
thống nhất đất nƣớc về tƣ tƣởng. Và từ đây Nho giáo trở thành hệ tƣ tƣởng
chính thống bảo vệ chế độ phong kiến Trung Hao trong suốt hai ngàn năm. Nho
giáo thời kỳ này đƣợc gọi là Hán Nho. Điểm khác biệt so với Nho giáo nguyên
thủy là Hán Nho đề cao quyền lực của giai cấp thống trị, Thiên tử là con trời,
dùng “Lễ trị” để che đậy “Pháp trị”.
- Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung đƣợc tách ra
khỏi Lễ Ký và cùng với Luận Ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thƣ. Lúc đó, Tứ
Thƣ và Ngũ Kinh là sách gối đầu giƣờng của các nhà Nho. Nho giáo thời kỳ
này đƣợc gọi là Tống Nho, với các tên tuổi nhƣ Chu Hy (thƣờng gọi là Chu
Tử), Trình Hạo, Trình Di. (Ở Việt Nam, thế kỷ thứ 16, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất
giỏi Nho học nên đƣợc gọi là “Trạng Trình”). Phƣơng Tây gọi Tống Nho là
“Tân Khổng giáo” Điểm khác biệt của Tống Nho với Nho giáo trƣớc đó là việc
bổ sung các yếu tố “tâm linh” (lấy từ Phật giáo) và các yếu tố “siêu hình” (lấy
từ Đạo giáo) phục vụ cho việc đào tạo quan lại và cai trị.
* Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Nho giáo của Khổng Tử đƣợc du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc
và ảnh hƣởng của nó vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay .
Về quá trình du nhập của nó trong thời kỳ Bắc thuộc, sự phát triển của nó
trong thời kỳ độc lập, nói tới sự những ảnh hƣởng của nó đối với các mặt của
đời sống xã hội Việt Nam.
Nho học là một học thuyết triết học và chính trị - xã hội của Trung Quốc,
ra đời ở thế kỷ VI trƣớc Công nguyên và lần lƣợt đƣợc truyền vào các nƣớc Á 13



Đông khác. Nho giáo vào Việt Nam vào khoảng trƣớc sau Công nguyên. Nhƣ
vậy Nho học đƣợc truyền vào Việt Nam là tƣơng đối sớm.
Hoàn cảnh du nhập của Nho học ở Việt Nam có khác với nƣớc khác. Nếu
nhƣ ở Nhật Bản sự du nhập là gián tiếp từ Triều Tiên sang và sau đó là trực
tiếp: Các lƣu học sinh Nhật Bản sang Trung Quốc học Nho học và truyền bá,
lúc đầu mang tính áp đặt. Ngƣời Hán xâm lƣợc Việt Nam, đƣa Nho học vào để
tăng cƣờng sự thống trị. Vì vậy thái độ đầu tiên của ngƣời Việt là phản ứng
chống lại. Thái độ trên có sự chuyển biến là mãi về sau, khi nền kinh tế xã hội
Việt Nam có nét giống với nền kinh tế xã hội phong kiến Trung Quốc, khi
ngƣời Việt Nam có sự quen thuộc ít nhiều với Nho học.
Thái độ đối với Nho học của ngƣời Việt Nam là khi ngƣời Việt Nam
giành đƣợc độc lập dân tộc từ tay ngƣời Hán ở thế kỷ X, ngƣời ta thấy ở học
thuyết này là một lý luận và một nghệ thuật của đạo trị nƣớc, cần thiết phải nắm
lấy để xây dựng đất nƣớc mình. Các triều đại phong kiến Việt Nam tự mình
thấy cần phải du nhập và phát triển Nho học. Các vua của triều Lý ở Việt Nam
ở thế kỷ XI đã xây dựng Văn Miếu để tế lễ Khổng Tử và các tiên hiền nhà Nho,
đã mở trƣờng Quốc Tử Dám cho con hoàng tộc và con cái các nhà quyền quý
vào học Nho học, đã tổ chức ra các kỳ thi Nho học để chọn ra các nhân tài kiểu
nhà Nho.
Khi nói đến vấn đề du nhập Nho học vào Việt Nam, nhiều ngƣời chỉ thấy
hoạt động đó ở giai đoạn đầu Bắc thuộc. Thực ra sự du nhập đó diễn ra nhiều
lần và ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau. Ngoài sự diễn ra ở đầu Công
nguyên, Nho học còn đƣợc tiếp tục truyền vào Việt Nam ở các giai đoạn sau.
Có thể nói, thời nào cũng có hiện tƣợng du nhập, giai đoạn nào của Nho học
Trung Quốc cũng muốn truyền sang Việt Nam. Thời Bắc thuộc là Hán Nho,
thời Đinh, Lê, Lý, Trần là Đƣờng Nho, thời Lê sơ là Tống Nho, thời Lê Mạc là
Nguyễn và Thanh Nho. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia gần nhau, việc
giao lƣu không gì cản trở, hơn nữa tƣ tƣởng và học thuật thì không có biên giới
ngăn cách.
14



Nhƣng không phải cái gì của Nho học Trung Quốc cũng đều đƣợc bén rễ,
sinh sôi nảy nở ở Việt Nam. Huyền học ở thời Ngụy Tấn, Nam Bắc triều, Tâm
học ở thời kỳ nhà Minh, Thực học ở cuối thời Minh và sang thời Thanh không
có dấu ấn ở Việt Nam. Nho học ở đất nƣớc này cũng chỉ mang những nét của
Hán Nho và Tống Nho. Ngay nhƣ Tống Nho cũng không phát triển đến mức
phải phân ngành tách phái. Nếu nhƣ ở Triều Tiên xuất hiện các phái Tống Nho
khác nhau, nhƣ có quan niệm “khí bất diệt luận”, có phái chủ trƣơng “tứ đoan”.
“Thất tình lý khí chi tranh” cho “tứ đoan” (nhân, nghĩa, lễ, trí) là do “lý” sinh ra
“thất tình” (yêu, ghét, mừng, giận dữ, vui, buồn, dục vọng) là do “khí” sinh ra.
Nếu nhƣ ở Nhật Bản có các phái chịu chủ trƣơng lý khí hợp nhất, có phái cho
rằng lý có trƣớc khí, có phái cho rằng lý nguyên. Ở Việt Nam không có các
hiện tƣợng đó, có lẽ trong tƣ duy của ngƣời Việt Nam không có thói quen đi
sâu vào các vấn đề trừu tƣợng.
Nói về Tống Nho thì có các nhân vật tiêu biểu nhƣ: Châu Đôn Di (thế kỷ
X - XI) là ngƣời khởi xƣớng ra Lý học, Nhị Trình (Trình Hạo và Trình Di) là
ngƣời đặt cơ sở cho Lý học và Chu Hy là ngƣời tập đại thành Lý học. Trong hệ
thống Tống Nho của Trung Quốc thì Chu Hy là ngƣời quan trọng hơn cả. Ở
Triều Tiên và Nhật Bản Chu Hy cũng ở vị trí hàng đầu, ở hai nƣớc này đều có
phái “Chu Tử Học”. Còn ở Việt Nam thì vai trò của Nhị Trình lớn hơn vai trò
của Chu Hy. Ngƣời Việt Nam quen nói đạo Nho là là đạo “cửa Khổng sân
Trình”, gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà Nho lớn nhất Việt Nam là “Trạng Trình”
(có nghĩa là gốc từ học thuật của hai anh em họ Trình). Ngay một sử gia Trung
Quốc cũng nói: “An Nam Lý học hữu tuyền” (tiêu biểu cho Lý học ở Việt Nam
là từ suối Trình mà ra), cách nhận định này là lý do của nó. Ngƣời Việt Nam
nói nhiều tới “lý”, “thiên lý” là những khái niệm do Nhị Trình đặt cơ sở đặt cơ
sở ít nói đến mối quan hệ “lý - khí”, mối quan hệ mà Chu Hy thƣờng đề cập
đến.
Nho chỉ là một học thuyết, bản thân nó không thể hiện lập trƣờng Triết

học nào. Trong các giai đoạn phát triển của Nho học Trung Quốc, thời kỳ nào
15


cũng có các nhà duy vật và duy tâm khác nhau, đối lập nhau trên vấn đề cơ bản
của Triết học. Thời trƣớc Tần bên cạnh Mạnh Tử là nhà duy tâm có Tuân Tử là
nhà duy vật, thời Tống bên cạnh Nhị Trình, Chu Hy là nhà duy tâm thì có các
nhà duy vật, bên cạnh đó có các nhà duy vật là Trƣơng Tải, Vƣơng Đình
Tƣớng. Ở Việt Nam hiện tƣợng đó không rõ, thƣờng chỉ là tiếp thu tƣ tƣởng
của các nhà Nho duy tâm có vai trò rất lớn trong lịch sử Nho học Việt Nam.
Nho học là từ Trung Quốc truyền vào Việt Nam, vì vậy có ngƣời cho
rằng Nho học không phải là của ngƣời Việt Nam, Nho học là cái “ngoại sinh”.
Nho học không thể đƣợc đối xử nhƣ các học thuyết vốn có của Việt Nam,
những cái đƣợc gọi là “nội sinh”. Thực ra, Nho học đƣợc truyền vào Việt Nam
đã trải qua một quá trình, đã có sự chuyển hóa từ “ngoại sinh” trở thành “nội
sinh”, từ cái của ngƣời trở thành cái của mình.
* Quá trình phát triển của Nho giáo
Nét đặc sắc của Nho học Việt Nam không chỉ thể hiện trong quá trình du
nhập mà còn thể hiện trong quá trình phát triển. Điều này có thể thấy đƣợc khi
đặt Nho học Việt Nam bên cạnh các nền Nho học khác, khi quan sát đối tƣợng
mà nó chú ý, chiều hƣớng mà nó vận động, bộ phận mà nó hợp thành.
Trong quá trình phát triển, Nho học Việt Nam chú trọng đến những vấn
đề thực dụng hơn là những vấn đề lý thuyết. Các vấn đề có mối quan hệ giữa
“hữu” và “vô”, giữa “tâm” và “vật”, giữa “lý” và “khí” là những vấn đề gắn với
Nho học Trung Quốc trong các thời kỳ và luôn có sự giải thích khác nhau,
nhƣng không đƣợc Nho học Việt Nam nhiệt tâm bàn bạc, không đƣợc xem xét
để giải quyết cái nào có trƣớc cái nào có sau. Trong các mối quan hệ giữa “lý”
và “khí” thì mãi đến thế kỷ XVIII mới đƣợc Lê Quý Đôn để tâm sƣu tầm và
biên chép vào mục “lý khí” trong “Vân Đài Loài Ngữ”, còn bàn bạc về nó thì
mãi đến Phan Bội Châu ở đầu thế kỷ XX mới đƣợc phát triển rõ ràng. Ở đây

không phải là do ngƣời Việt Nam không có khả năng tƣ duy trừu tƣợng mà là
do hoàn cảnh lịch sử địa lý tạo nên.

16


Nho học ở quê hƣơng của nó vốn bao gồm cả nhân sinh quan, xã hội
quan và vũ trụ quan, nhƣng Nho học ở Việt Nam thì chú ý nhiều đến nhân sinh
quan và xã hội quan. Nó chú ý đến nhiều tác phẩm kinh điển nào của nhà Nho
nói nhiều về nhân sinh quan đạo đức. Nó chú ý tới những tác phẩm trong “Tứ
Thƣ” (Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Học, Trung Dung), “trung kính”, “hiếu kính”
hơn là tác phẩm “Kinh Dịch”, “Kinh Xuân Thu”, những tác phẩm bàn nhiều
đến sự vận động của thế giới, xã hội và con ngƣời. Sự chú ý cũng sớm muộn
khác nhau. “Tứ Thƣ” thì ngay thế kỷ XIX đã đƣợc giảng giải, còn về “Kinh
Dịch”, “Kinh Xuân Thu” thì mãi đến thế kỷ XVIII mới đƣợc bàn tới.
Nho học không phải là một học thuyết toàn diện, nó không đáp ứng đƣợc
mọi mặt yêu cầu của con ngƣời xã hội phong kiến phƣơng Đông. Mặt thiếu của
nó thƣờng đƣợc Phật, Lão bổ sung. Từ đó tạo nên lý thuyết “Tam giáo nhất
nguyên”. Hiện tƣợng này ở Nho học Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản đều có.
Nhƣng ở các nƣớc trên để xác lập nên cục diện “nhất nguyên” đã phải trải qua
một quá trình đấu tranh rồi mới tiến tới dung hợp. Còn ở Việt Nam thì từ đầu
đã xuất hiện sự dung hợp. Ngay từ thời kỳ Bắc thuộc, ở cuối thế kỷ II từ đầu
thế kỷ III, Mâu Bác đã nêu sự cần thiết phải dung hợp ba đạo trong tác phẩm
“Lý và Luận”. Đến thời kỳ độc lập thì hầu nhƣ triều đại nào cũng nói đến nhu
cầu dung hợp. Đặc biệt ở các triều Lý, Trần (thế kỷ XI, XIII) và triều Lê - Trịnh
(thế kỷ XVIII), lý thuyết về dung hợp trình bày rất rõ. Tuy rằng ở Việt Nam có
lúc Nho giáo phê phán Phật giáo nhƣ ở thế kỷ XIV và cuối thế kỷ XVIII, đầu
thế kỷ XIX, nhƣng đó chỉ là phê phán vai trò xã hội của Phật giáo, chứ không
phải là vạch ra những hạn chế về mặt lý thuyết của nó, và đó cũng là hiện tƣợng
tạm thời. Không lâu thì vai trò thống trị của Nho học đƣợc xác lập thì hiện

tƣợng phê phán trên cũng theo đó mà mất đi. Một điều đáng chú ý là Nho học ở
Việt Nam không xuất hiện các trƣờng phái, không làm nảy sinh các nhà học
thuật lớn, không có những tác phẩm đồ sộ về lý thuyết. Tác phẩm mang tính
học thuật của các nhà Nho học Việt Nam thƣờng chỉ thể hiện dƣới dạng tóm tắt,
đơn giản, dạng ƣớc lƣợng, tất yếu nhƣ “Tứ thƣ tuyết ƣớc của Chu Văn An”,
17


“Dịch Kinh phi thuyết” của Lê Quý Đôn. Các tác phẩm này là cần thiết có thể
giúp ngƣời đọc nhanh chóng nắm đƣợc nội dung cơ bản của học thuyết. Nhƣng
chỉ dừng lại ở đấy mà không có tác phẩm đi sâu hơn, thể hiện quan điểm của
mình rõ rệt hơn thì đó là một hạn chế của tƣ duy. Thực tế đã sảy ra nhƣ vậy,
ngƣời Việt Nam vốn thông minh có khả năng khám phá các đối tƣợng hữu hình
và vô hình, quá khứ và hiện tại đều chứng tỏ nhƣ vậy.
Trên cơ sở tìm hiểu quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam chúng
ta có thể rút ra một vài nhận xét sau:
Một là, du nhập vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, song phải trải qua,
một thời gian dài Nho giáo mới bén rễ đƣợc vào đời sống chính trị và tinh thần
của xã hội.
Hai là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam không còn là Nho giáo nguyên
thủy mà là Hán Nho và Tống Nho. Song cũng đã đƣợc cải biên cho phù hợp với
truyền thống của dân tộc và nhu cầu của đất nƣớc để trở thành nhân tố của
chính nền văn hóa và hệ tƣ tƣởng thống trị ở Việt Nam.
Ba là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam trong sự phát triển đồng hành, tác
động qua lại với Phật giáo và Đạo giáo.
Tóm lại, khảo sát tình hình, quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam,
chúng ta thấy rằng nếu tính từ thời Bắc thuộc thì Nho giáo đã có mặt trên đất
nƣớc ta trên hai ngàn năm, trong đó năm trăm năm đƣợc coi là hệ tƣ tƣởng
thống trị trong kiến trúc thƣợng tầng của xã hội phong kiến. Vì lẽ đó, Nho giáo
đã có đủ thời gian và điều kiện để thấm sâu bén rễ và ảnh hƣởng sâu sắc đời

sống tinh thần của dân tộc ta. Năm tháng đi qua, chế độ phong kiến Việt Nam
không còn nữa, nhƣng tƣ tƣởng Nho giáo vẫn còn lƣu lại trong con ngƣời và lối
sống ngày nay.
1.1.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội.
Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho đƣợc
ngƣời cai trị kiểu mẫu ngƣời lý tƣởng này gọi là quân tử (quân = kẻ làm vua,
18


quân tử = chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những ngƣời
thấp kém về địa vị xã hội, sau “quân tử” còn chỉ cả phẩm chất đạo đức, những
ngƣời cao thƣợng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những ngƣời
thiếu đạo đức hoặc đạo đức chƣa hoàn thiện. Điều này có thể lý giải bởi đối
tƣợng mà Nho giáo hƣớng đến trƣớc tiên là những ngƣời cầm quyền). Để trở
thành ngƣời quân tử, con ngƣời ta trƣớc hết phải “tự đào tạo” phải “Tu thân”.
Sau khi “tu thân” xong, ngƣời quân tử phải có bổn phận phải “hành đạo” (Đạo
không đơn giản chỉ là đạo lý). Nho gia hình dung cả vũ trụ đƣợc cấu thành từ
các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao chứa cả nguyên lý vận hành chung của
vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên lí đạo đức do Nho gia đề xƣớng
(hoặc nhƣ họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh
làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm đƣợc đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo
vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con ngƣời sẽ đƣợc gọi là mệnh). Cần phải
hiểu cơ sở triết lý của Nho giáo mới nắm đƣợc logic phát triển và tồn tại của
nó.
* Tu Thân
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam cƣơng, Ngũ thƣờng, Tam tòng, Tứ
đức…để làm chuẩn mức cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
Tam cƣơng và Ngũ thƣờng là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam
tòng và Tứ đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo Khổng Tử cho rằng ngƣời

trong xã hội giữ đƣợc Tam cƣơng Ngũ thƣờng, Tam Tòng Tứ Đức thì xã hội
đƣợc an bình.
a. Tam cương
Tam là ba, cƣơng là giềng mối. Tam cƣơng là ba mối quan hệ quân thần
(vua tôi), phụ tử (cha con), phu phụ (vợ chồng).
- Quân thần: Trong quan hệ vua tôi vua thƣởng phạt công minh, tôi
trung thành một dạ.
- Phụ tử: Cha hiền, con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy con cái,
con phải hiếu đễ và nuôi dƣỡng cha khi cha về già.
19


- Phu phụ: Chồng phải yêu thƣơng và đối xử công bằng với vợ, vợ
chung thủy tuyệt đối với chồng.
b. Ngũ thường
Ngũ là năm, thƣờng là hằng có Ngũ thƣờng là năm điều phải hằng có
trong khi ở đời gồm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”
- Nhân: Lòng yêu thƣơng đối với muôn loài vạn vật.
- Nghĩa: Cƣ xử với mọi ngƣời công bình theo lẽ phải.
- Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cƣ xử với mọi ngƣời.
- Trí: Sự thông biết lý lẽ phân biệt thiện ác, đúng sai.
- Tín: Giữ đúng lời đáng tin cậy.
c. Tam tòng
Tam là ba, tòng là theo. Tam tòng là ba điều ngƣời phụ nữ phải theo gồm
“tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
- Tại gia tòng phụ: ngƣời phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha.
- Xuất giá tòng phu: Lúc lấy chồng phải theo chồng.
- Phụ tử tòng tử: Nếu chồng qua đời phải theo con.
d. Tứ đức
Tứ là bốn, đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt ngƣời phụ nữ phải

có, là công - dung - ngôn - hạnh.
- Công: Khéo léo trong việc làm
- Dung: Hòa nhã trong sắc diện.
- Ngôn: Mềm mại trong lời nói.
- Hạnh: Nhu mì trong tính nết.
Ngƣời quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
- Đạt đạo: “Đạo” có nghĩa là “con đƣờng” hay “phƣơng cách” ứng xử mà
ngƣời quân tử phải thực hiện trong cuộc sống “Đạt đạo trong thiên hạ có năm
điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách
Trung Dung). Tƣơng đƣơng với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng
hữu” đó chính là Ngũ thƣờng, hay Ngũ luận. Trong xã hội cách cƣ xử tốt nhất
20


là “Trung dung”.Tuy nhiên đến Hán Nho Ngũ luận đƣợc tập trung lại chỉ còn
ba mối quan hệ quan trọng nhất đƣợc gọi là Tam thƣờng hay còn gọi là Tam
tòng.
- Đạt đức: Ngƣời quân tử phải đạt đƣợc ba đức “nhân - trí - dũng”.
Khổng Tử nói: “Đức của ngƣời quân tử có ba mà ta chƣa làm đƣợc Ngƣời nhân
không lo buồn, Ngƣời trí không nghi ngại, Ngƣời dũng không sợ hãi” (sách
Luận Ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay “dũng” bằng “lễ”, “nghĩa” nên ba đức trở
thành bốn đức “nhân, nghĩa, lễ, trí”. Hán Nho thêm một đức là “tín”, nên có tất
cả năm đức “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Năm đức này gọi là Ngũ thƣờng.
Biết thi, thƣ, lễ, nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức” ngƣời
quân tử còn phải biết “thi, thƣ, lễ, nhac”. Tức là ngƣời quân tử còn phải có một
vốn văn hóa toàn diện.
* Hành đạo
Sau khi tu thân, ngƣời quân tử phải hành đạo tức là phải làm quan, làm
chính trị. Nội dung của công việc này đƣợc công thức hóa “thành tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”. Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình, cho đến

lớn trị quốc và đạt đến mức cuối cùng là bình thiên hạ (thống nhất thiên hạ).
Kim chỉ nam cho mọi hành động của ngƣời quân tử trong việc cai trị là hai
phƣơng châm:
- Nhân trị: Nhân là tình ngƣời, nhân trị là cai trị bằng tình ngƣời, là
yêu thƣơng và coi ngƣời nhƣ bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là
“Nhân” thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ƣ nhân” nghĩa là điều gì mình
không muốn thì đừng làm cho ngƣời khác. (sách Luận Ngữ).
- Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải đƣợc gọi đứng tên
của nó, mỗi ngƣời phải làm đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì
lời không thuận, lời không thuận tất yếu việc không thành”. (sách Luận Ngữ).
Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Công: “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”
nghĩa là vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con. (sách Luận Ngữ).

21


Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho
giáo, chúng đƣợc tóm gọn lại trong chín chữ: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”. Và đến lƣợt mình, chín chữ đó chỉ nhằm mục đích cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là ngƣời cai trị, ngƣời có đạo đức và biết thi,
thƣ, lễ nhạc. Tuy nhiên sau này từ đó có thể chỉ những ngƣời có đạo đức mà
không cần phải có quyền. Ngƣợc lại, những ngƣời có quyền mà không có đạo
đức thì đƣợc gọi là tiểu nhân (nhƣ dân thƣờng).
1.2 Gia đình
1.2.1 Vấn đề chung về gia đình
* Khái niệm gia đình
Khái niệm gia đình đã đƣợc nhiều nhà tƣ tƣởng, nhà hoạt động thực tiễn
nghiên cứu, quan tâm nhƣ: Trong tác phẩm kinh điển “Hệ tƣ tƣởng Đức”
(1845) Các Mác và Ăngghen cho rằng: “Hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con ngƣời còn tạo ra những ngƣời khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan

hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”. [15, tr.41].
Quan điểm của Các Mác và Ăngghen là: Gia đình ra đời và tồn tại cùng
với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài ngƣời, trong quá trình tái tạo ra chính
bản thân mình thì đồng thời cùng tạo ra gia đình. Và gia đình đƣợc tạo bởi hai
mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (vợ - chồng), quan hệ huyết thống (cha
mẹ - con cái).
Tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc đã lấy năm 1994 là năm quốc tế
gia đình và khẳng định: Gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản, một đơn vị kinh
tế của xã hội. Gia đình coi nhƣ một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại cần
đƣợc giữ gìn và phát huy. UNESCO đã đƣa ra định nghĩa về gia đình: “Gia
đình là một nhóm ngƣời có quan hệ họ hàng, cùng sống chung có ngân sách
chung” [22, tr.12].
Gần giống với quan niệm của UNESCO có một số quan niệm khác nữa.
Trong cuốn “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con ngƣời
Việt Nam” giáo sƣ Lê Thi đã nêu ra quan niệm của Levytrauss về gia đình là
22


một nhóm xã hội đƣợc quy định bởi ba đặc điểm trong quan sát thƣờng thấy
nhiều nhất:
- “Nó bắt nguồn từ hôn nhân
- Nó bao gồm vợ - chồng - con cái đã phát sinh từ sự hôn phối của đôi
nam nữ, tuy rằng có thể có mặt trong gia đình những họ hàng bà con, con nuôi,
ngƣời giúp việc, bạn bè.
- Các thành viên của gia đình đƣợc gắn kết với nhau bởi các ràng buộc
pháp lý, bởi các nhiệm vụ và quyền lợi có tính chất kinh tế, tôn giáo hay cái
khác, bởi các quan hệ nhất định về quyền và sự cấm đoán tình dục giữa các
thành viên, bởi một tổng hợp có tính chất thay đổi về tình cảm, tâm lý nhƣ: tình
yêu, tình thƣơng, sự kính trọng, sự sợ hãi”. [20, tr.269].
Quan niệm trên khá hợp lý, tuy nhiên vẫn chƣa phản ánh hết thực tế sinh

động. Vì vẫn có những ngƣời không cƣới nhƣng ở với nhau, vẫn có con nhƣ
ngƣời phụ nữ, đàn ông góa ở nuôi con.
Gia đình hôn phối (gia đình hạt nhân) gồm: bố, mẹ, con cái sống chung
một nhà. Là hình thức chiếm số đông hiện nay ở nƣớc ta. Gia đình hôn phối
đƣợc lập nên bằng hôn nhân và đƣợc giải tán cùng với sự giải thể của hôn nhân
(ly hôn).
Theo giáo sƣ Lê Thi: “Khái niệm gia đình đƣợc sử dụng để chỉ một
nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống
nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó là cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà,
họ hàng). Đồng thời trong gia đình cũng có thể có bao gồm một số ngƣời đƣợc
gia đình nuôi dƣỡng tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành viên gia đình
gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế - văn hóa - tình cảm),
giữa họ có những điều ràng buộc có tính chất pháp lý đƣợc Nhà nƣớc thừa nhận
và bảo vệ (đƣợc ghi rõ trong Luật hôn nhân và gia đình ở nƣớc ta). Đồng thời,
gia đình cũng có những quy định rõ ràng về quyền đƣợc phép và những cấm
đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên”. [20, tr.268-269]

23


Định nghĩa trên của giáo sƣ Lê Thi là đúng, khoa học, là hợp với truyền
thống đạo lý của ngƣời Việt Nam. Nhƣng chƣa thực sự đầy đủ vì chƣa giải
thích đƣợc sự xuất hiện loại gia đình cũ tồn tại ở Việt Nam, gia đình không có
trách nhiệm pháp lý.
Theo Từ điển văn hóa gia đình của nhóm tác giả Phạm Thị Dung,
Nguyễn Thu Hà, Phạm Minh Thảo, Từ Thu Hằng, Phạm Thị Hảo biên soạn
khái niệm gia đình đƣợc định nghĩa: “Gia đình là thiết chế xã hội dựa trên cơ sở
sự kết hợp của những thành viên khác giới, thông qua hôn nhân để thực hiện
đƣợc các thực hiện đƣợc các chức năng sinh học (sinh đẻ, kinh tế, văn hóa, xã
hội). Khi gia đình đã có con các thành viên đƣợc liên kết với nhau vừa bằng

quan hệ hôn nhân, vừa bằng quan hệ huyết thống. Gia đình là một phạm trù lịch
sử thay đổi cùng với sự thay đổi của xã hội [6, tr. 27-28].
Giáo sƣ Trần Đình Hƣợu cho rằng: “Gia đình là một tổ chức rất xa xƣa,
bắt nguồn từ quan hệ nam nữ, từ việc sinh con đẻ cái rất tự nhiên, về sau trong
lịch sử mới thay đổi thích ứng với phƣơng thức sản xuất, với cơ chế chính trị xã hội, với nền văn hóa [11, tr.25].
Những khái niệm trên về gia đình của các nhà nghiên cứu đều cố gắng
đƣa ra một khái niệm bao quát nhất nhằm phản ánh đƣợc đầy đủ và khoa học.
Nhƣng trong cuộc sống khi nói đến gia đình thì điều đầu tiên là nói đến một tập
hợp ngƣời cùng chung sống dƣới một mái nhà và giữa họ có mối liên hệ với
nhau bởi quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng, quan hệ huyết thống giữa cha mẹ và
con cái, giữa anh chị em ruột, giữa ông bà và con cháu; một số ngƣời đƣợc gia
đình nuôi dƣỡng gắn bó với nhau về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi đƣợc
họ hàng, làng xóm ủng hộ, đƣợc pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Từ những khái niệm về gia đình của các nhà nghiên cứu chúng ta thấy
rằng:
Thứ nhất, gia đình là một thiết chế xã hội đƣợc hình thành trƣớc hết trên
cơ sở quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự kết hợp giữa hai cá nhân (nam
- nữ) theo quy định của pháp luật hay nhà thờ nhằm chung sống và xây dựng
24


gia đình hạnh phúc. Quan hệ này là biểu hiện quan hệ vợ - chồng mà thực chất
là để kết hợp với nhau để sinh sản và nuôi dạy con cái.
Thứ hai, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Quan hệ
huyết thống là sự tiếp tục hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân. Nó chỉ phát
triển tốt đẹp trên cơ sở quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp.
Thứ ba, quan hệ nuôi dƣỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể với
đối tƣợng đƣợc nuôi dƣỡng, họ gắn bó với nhau bởi những quyền lợi, nhiệm vụ
và đƣợc dƣ luận ủng hộ.
Tóm lại, không có một định nghĩa nào là duy nhất về gia đình cho mọi

nền văn hóa mà có thể thống nhất cơ bản là: Gia đình là một cộng đồng ngƣời
trên cơ sở hai mối quan hệ cơ bản hôn nhân, huyết thống đƣợc xã hội thừa
nhận.
* Đặc trƣng của gia đình
Theo nhà tâm lý học Ngô Công Hoàn, gia đình có 6 đặc trƣng cơ bản:
- Là một nhóm xã hội phải có từ hai ngƣời trở lên.
- Trong gia đình phải có giới tính (nam, nữ).
- Quan hệ trong gia đình phải phải là quan hệ ruột thịt huyết thống nghĩa
là có quan hệ tái sản xuất con ngƣời.
- Các thành viên trong gia đình phải gắn bó với nhau về đặc điểm tâm
sinh lý.
- Gia đình phải có ngân sách chung.
- Gia đình phải sống chung một nhà.
* Vị trí, vai trò của gia đình
- Gia đình là tế bào của xã hội.
- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyết định quy mô, kết cấu, hình
thức tổ chức và tính chất gia đình.
- Gia đình là một thiết chế cơ sở, đặc thù của xã hội là cầu nối giữa các
cá nhân với xã hội.

25


×