Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Quan niệm của khổng tử về giáo dục và sự vận dụng quan niệm này vào sự nghiệp giáo dục ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.67 KB, 70 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==

BÙI THỊ THANH XUÂN

QUAN NIỆM CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO
DỤC VÀ SỰ VẬN DỤNG QUAN NIỆM NÀY
VÀO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
GV: NGUYỄN THỊ THÙY LINH

HÀ NỘI - 2012

1


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian thực hiện khóa luận cũng như học tập tại trường,
em đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của các thầy cô giáo


trong khoa Giáo dục Chính trị, nhất là của các thầy cô giáo trong tổ Triết học,
cùng với sự động viên khích lệ của gia đình và bạn bè. Em xin chân thành
cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến cô giáo Nguyễn
Thị Thùy Linh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt thời gian qua để
em có thể hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, do điều kiện hạn hẹp về thời
gian và do sự hạn chế về kiến thức của bản thân nên em không tránh khỏi
những thiếu sót khi hoàn thành bài khóa luận này. Vì vậy, em rất mong được
sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và của các bạn sinh viên để đề tài của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực tập
Bùi Thị Thanh Xuân

2


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan rằng, bài khóa luận này là kết quả nghiên cứu của
riêng em dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Thùy Linh và
những tài liệu sử dụng để thực hiện đề tài được trích dẫn cụ thể, có xuất xứ rõ
ràng.

Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm

Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Bùi Thị Thanh Xuân

3


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

MỤC LỤC
trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………
Chƣơng 1: Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục
1.1. Cơ sở hình thành quan niệm của Khổng Tử về giáo dục ……………..
1.1.1.Hoàn cảnh kinh tế, chính trị xã hội Trung Quốc thời cổ đại với việc hình
thành quan niệm của Khổng Tử về giáo dục
1.1.2. Giới thiệu về Khổng Tử
1.2. Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục ……………………………......
1.2.1. Khái niệm về giáo dục …………………………………………………
1.2.2. Nội dung quan niệm của Khổng Tử về giáo dục………………………
Chƣơng 2: Sự vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục vào sự
nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay
2.1. Thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện nay……………………
2.1.1. Bối cảnh trong nước và ngoài nước tác động đến nền giáo dục Việt
Nam hiện nay
2.1.2. Những thành tựu và hạn chế của nền giáo dục Việt Nam hiện nay

2.2. Sự vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục vào sự nghiệp
giáo dục ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
phương châm giáo dục………………………………………………………

4


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

2.2.2. Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xây dựng xã
hội học tập và thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục………………………
2.2.3. Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định nội
dung giáo dục.....................................................................................................
2.2.4. Quan miệm của Khổng Tử về giáo dục đối với việc xác định
phương pháp giáo dục…………………………………………………………
2.2.5. Một số kiến nghị nhằm phát huy vai trò của quan niệm của Khổng
Tử về giáo dục đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN………………………………………………………………..
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………….

5


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó thế hệ đi trước
truyền đạt lại những kinh nghiệm xã hội cho thế hệ đi sau và thế hệ đi sau lĩnh
hội những kinh nghiệm xã hội đó, để tham gia vào đời sống xã hội, tham gia
lao động sản xuất, và các hoạt động xã hội khác. Giáo dục xuất hiện cùng với
sự xuất hiện của loài người và chỉ có trong đời sống xã hội loài người. Trải
qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử, cùng sự phát triển mạnh mẽ của xã
hội, giáo dục đã khẳng định vai trò ưu việt của mình trong việc hoàn thiện
nhân cách con người.
Trong thời đại ngày nay, thời đại của hội nhập kinh tế quốc tế, thời đại
của công nghệ thông tin, thì giáo dục càng giữ vai trò quan trọng đối với việc
thúc đẩy tiến trình phát triển của mỗi quốc gia và hội nhập kinh tế quốc tế. Đó
là phương tiện hữu hiệu phát triển nguồn nhân lực, vì mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội. Đối với Việt Nam, chúng ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để tạo nên cơ sở vật chất, kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội, thì việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực càng có ý nghĩa quyết định. Vấn
đề đào tạo và sử dụng con người luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã xác định: “Giáo dục và đào tạo
được xem là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực
trực tiếp của sự phát triển xã hội”. Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại
tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện
phát huy nguồn nhân lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [5, tr.108 - 109].
Như vậy, phát triển giáo dục - đào tạo là một trong những nhiệm vụ cấp
thiết của toàn Đảng, toàn dân, có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp đổi mới

6



Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

đất nước trong giai đoạn hiện nay. Quán triệt tư tưởng trên của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta cần phải tập trung huy động toàn lực lượng xã hội tham
gia vào công tác giáo dục. Trong đó, việc phát huy truyền thống hiếu học của
dân tộc và việc học tập, nghiên cứu những tiền đề lý luận giáo dục của nhân
loại là hết sức cần thiết, nhằm vận dụng những yếu tố tích cực để xây dựng và
hoàn thiện nền giáo dục nước nhà, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Một trong những tư tưởng quý báu trong kho tàng kinh nghiệm giáo dục của
nhân loại, thấm đẫm truyền thống phương Đông, có ảnh hưởng sâu sắc đến
việc hình thành nền giáo dục Việt Nam thời kỳ phong kiến chính là quan
niệm về giáo dục của Khổng Tử nói riêng và của Nho giáo nói chung.
Với lịch sử hình thành và phát triển hơn 2.500 năm, Nho giáo đã có
nhiều ảnh hưởng đến các quốc gia lân cận, đặc biệt là ở Việt Nam. Trải qua
gần 1.000 năm Bắc thuộc, Nho giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và
cuộc sống của người Việt Nam. Một thời gian dài, Việt Nam đã lấy Nho giáo
làm nền tảng cho giáo dục, lấy Kinh Thư của Khổng Tử làm nội dung giáo
dục chủ yếu và đào tạo ra đông đảo các nhà Nho, có đóng góp lớn lao vào sự
nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì vậy, không ai có thể phủ nhận những ảnh
hưởng mạnh mẽ của Nho giáo đến con người Việt Nam, nền giáo dục Việt
Nam mà trực tiếp nhất là quan niệm của Khổng Tử về giáo dục.
Nền giáo dục ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu to lớn đã
đạt được, còn bộc lộ nhiều hạn chế về cả quy mô, tổ chức, quản lý, nội dung,
phương pháp… Những hạn chế này là một trong những nguyên nhân làm cho
nền giáo dục chưa đáp ứng kịp thời và có hiệu quả những đòi hỏi của công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những hạn chế còn tồn tại một
phần là do chúng ta chưa cập nhật đầy đủ những nội dung, phương pháp giáo

dục hiện đại. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là trong
nhiều năm gần đây, do quá coi trọng và hướng theo những thành tựu của nền

7


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

giáo dục hiện đại mà dường như chúng ta đã lãng quên, chưa có sự khai thác
một cách triệt để, có hiệu quả những nhân tố, những giá trị tích cực trong tư
tưởng giáo dục của Khổng Tử. Nếu gạt bỏ những hạn chế do điều kiện lịch sử
chi phối, biết kế thừa một cách có chọn lọc những nhân tố và giá trị hợp lý
trong quan niệm của Khổng Tử về giáo dục. Vì vậy, việc nghiên cứu quan
niệm của Khổng Tử về giáo dục cho phép chúng ta nhìn lại quá khứ để đánh
giá những thành tựu, ưu điểm đạt được từ quan niệm của ông về giáo dục.
Là một sinh viên sư phạm, sau này sẽ trở thành một người giáo viên
trong tương lai, kế tục sự nghiệp giáo dục của đất nước. Em nhận thấy việc
nghiên cứu những nội dung trong quan niệm của Khổng Tử về giáo dục là rất
cần thiết nhằm vận dụng quan niệm này vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam
hiện nay, góp phần xây dựng và hoàn thiện nền giáo dục nước nhà. Chính vì
vậy, em đã lựa chọn vấn đề “Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục và sự
vận dụng quan niệm này vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay” làm
đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Như chúng ta đã biết, Nho giáo là một trường phái triết học lớn, lại
được ra đời từ thời cổ đại tại một quốc gia có nền văn minh rực rỡ nên Nho
giáo nói chung và hệ thống tư tưởng của Khổng Tử nói riêng, trong đó có
quan niệm của Khổng Tử về giáo dục là một đề tài thu hút được nhiều học giả

quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau,
tiêu biểu với các công trình nghiên cứu sau:
Cuốn sách “Khổng Tử” của Nguyễn Hiến Lê, cuốn “Đại cương triết
học Trung Quốc” của Doãn Chính (chủ biên), “Nho giáo” của tác giả Trần
Trọng Kim…là những công trình giới thiệu chung về những tư tưởng triết học
của Khổng Tử, trong đó có quan niệm về giáo dục của ông. Ngoài các công
trình này, còn phải kể đến nhiều bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí

8


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

như: “Đôi điều suy nghĩ về đối tượng và nội dung giáo dục giáo hóa của Nho
giáo” đăng trên tạp chí Giáo dục lý luận, (số 10), năm 2001 của tác giả
Nguyễn Thanh Bình, bài viết bàn tới nội dung cũng như đối tượng giáo dục
trong tư tưởng của Khổng Tử nói riêng và nho giáo nói chung; Doãn Chính
với bài viết “Quan điểm của Khổng Tử về giáo dục - đào tạo con người”, (tạp
chí Triết học số 3, Hà Nội, 1999), Lê Ngọc Anh với bài viết “Về ảnh hưởng
của Nho giáo tại Việt Nam”, (tạp chí Triết học số 3, Hà Nội, 1999); Nguyễn
Thanh Bình với bài viết “Nho giáo với vấn đề phát triển kinh tế về hoàn thiện
con người”, (tạp chí Giáo dục lí luận số 5, Hà Nội, năm 2000)… là những bài
viết nghiên cứu những ảnh hưởng của Nho giáo, trong đó có quan niệm về
giáo dục của Khổng Tử. Ngoài các sách, tạp chí trên còn có cả các công trình
như luận văn, luận án nghiên cứu về tư tưởng của Nho giáo: Hoàng Thu
Trang (2008), Tư tưởng Nho giáo về giáo dục và ý nghĩa của nó đến sự phát
triển giáo dục Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ Triết học, Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn (ĐHQG Hà Nội), Hà Nội.

Nhìn chung, các công trình trên nghiên cứu một cách khái quát về tư
tưởng giáo dục của Nho giáo, trong đó có quan niệm về giáo dục của Khổng
Tử, cũng như nghiên cứu ảnh hưởng của Nho giáo nói chung đến Việt Nam,
mà chưa có đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu từng nội dung cụ thể trong quan
niệm về giáo dục của Khổng Tử để từ đó làm rõ những mặt tích cực và hạn
chế trong quan niệm của ông về giáo dục và vận dụng quan niệm đó vào sự
nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm hiểu quan niệm về giáo
dục của Khổng Tử, đánh giá những mặt hạn chế và tích cực trong quan niệm

9


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

về giáo dục của Khổng Tử và sự vận dụng quan niệm này vào sự nghiệp giáo
dục ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận hình thành quan niệm của Khổng Tử về giáo
dục.
- Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế trong quan niệm của Khổng
Tử về giáo dục.
- Tìm hiểu thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện nay và những
định hướng về phát triển giáo dục nước ta hiện nay.
- Làm rõ sự vận dụng quan niệm của Khổng Tử về giáo dục vào sự
nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu: Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục và sự vận
dụng quan niệm này vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số nội dung chủ yếu trong quan
niệm của Khổng Tử về giáo dục và sự vận dụng vào sự nghiệp giáo dục ở
Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Kết quả nghiên cứu của khóa luận dựa trên cơ sở vận dụng
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về giáo dục.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng chủ yếu phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu nghiên cứu khác như: phương pháp tổng hợp - phân tích; so sánh - đối
chiếu; lôgic - lịch sử…

10


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

6. Đóng góp mới của đề tài
Khóa luận góp phần làm rõ và hệ thống hóa những nội dung căn bản
trong quan niệm của Khổng Tử về giáo dục và sự vận dụng quan niệm này
vào sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, khóa luận có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu tư tưởng triết học
của Khổng Tử nói chung và quan niệm của ông về giáo dục nói riêng, đặc biệt
là ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay.

7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung gồm 2 chương và 4 tiết

11


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

Chƣơng 1
QUAN NIỆM CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC
1.1. Cơ sở hình thành quan niệm của Khổng Tử về giáo dục
1.1.1. Hoàn cảnh kinh tế, chính trị - xã hội Trung Quốc thời cổ đại với
việc hình thành quan niệm của Khổng Tử về giáo dục
Không có một học thuyết, tư tưởng nào lại ra đời trên một mảnh đất
trống không mà bao giờ sự ra đời của nó cũng có những điều kiện tiền đề
trước đó đem lại, trong đó có điều kiện khách quan như hoàn cảnh kinh tế,
chính trị - xã hội chi phối. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng giáo
dục của Khổng Tử cũng không phải là một ngoại lệ, nằm ngoài quy luật trên.
Do đó, muốn nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử không thể không đi vào
nghiên cứu, tìm hiểu điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa thời kỳ
Xuân Thu - Chiến Quốc (770 - 221 trước Công nguyên), thời đại mà tư tưởng
của Khổng Tử nói chung cũng như tư tưởng giáo dục của Khổng Tử nói riêng
nảy sinh, hình thành và phát triển.
Thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ xã hội Trung Quốc đang có
những chuyển biến hết sức căn bản. Chế độ chiếm hữu nô lệ theo kiểu
phương Đông mà đỉnh cao là chế độ “tông pháp” nhà Chu đang suy tàn, chế
độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành. Thời kỳ Xuân Thu đánh dấu bằng sự

kiện Chu Bình Vương dời đô về phía đông lạc Ấp (năm 770 trước Công
nguyên).
Thời kỳ này, đồ sắt xuất hiện phổ biến, công cụ bằng sắt đã thay thế
công cụ bằng đá trước đây đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất
nông nghiệp. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp.
Vào thế kỉ VI - V trước Công nguyên, xuất hiện những thành thị buôn bán
xuất nhập khẩu nhộn nhịp ở các nước Hàn, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có một

12


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

cơ sở tương đối ổn định, độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị của
quý tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên
(Hiển tộc). Để phá ánh hiện tượng đó kinh thi đã từng nói: “Hai đô thị sánh
nhau trong nước”. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đã tác động lớn đến
hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai cấp của xã hội. Nếu như vào đầu
thời Chu, “Đất đai ở khắp gầm trời này không đâu không phải là thần dân
của nhà vua”, thì nay cái quyền sở hữu tối cao ấy đã bị một lớp người mới lên
có tiền tấn công và chiếm làm tư hữu. Giai cấp quý tộc thị tộc Chu bị mất đất,
mất dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút và đương nhiên vai trò chính trị, ngôi
thiên tử của nhà Chu chỉ còn là hình thức. Sự phân biệt sang - hèn dựa trên
tiêu chuẩn huyết thống của chế độ thị tộc tỏ ra không còn phù hợp nữa mà đòi
hỏi phải dựa trên cơ sở tài sản. Các nước chư hầu của nhà Chu không chịu
phục tùng vương mệnh nữa, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn
nhau, tự xưng là Bá (“Vương đạo suy vi”); tầng lớp địa chủ mới lên ngày
càng giàu có, lấn át quý tộc thị tộc cũ (“trên yếu dưới mạnh”), thậm chí còn

chiếm chính quyền như họ Quý ở nước Lỗ, họ Trần ở nước Tề.
Như vậy, kết quả của những biến động về kinh tế đã dẫn đến sự đa
dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều giai tầng mới xuất hiện, mới cũ
đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt, trong xã hội Trung Quốc bấy giờ
nổi lên những mâu thuẫn cơ bản sau:
Mâu thuẫn giữa tầng lớp mới lên có tư liệu sản xuất, có địa vị kinh tế
trong xã hội (Hiển tộc) mà không được tham gia chính quyền với giai cấp quý
tộc thị tộc cũ của nhà Chu đang nắm chính quyền.
Mâu thuẫn giữa tầng lớp sản xuất nhỏ, thợ thủ công, thương nhân với
giai cấp quý tộc thị tộc Chu.
Trong bản thân giai cấp quý tộc thị tộc Chu có một bộ phận tách ra,
chuyển lên giai cấp mới; một mặt họ muốn bảo lưu nhà Chu, một mặt họ cũng

13


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

không hài lòng với trật tự cũ của nó. Họ muốn cải biến nó bằng con đường cải
lương, cải cách.
Tầng lớp tiểu quý tộc thị tộc, một mặt họ đang bị tầng lớp mới lên tấn
công về chính trị và kinh tế, mặt khác họ cũng có mâu thuẫn với tầng lớp đại
quý tộc thị tộc đang nắm chính quyền.
Mâu thuẫn nông dân công xã thuộc các thị tộc người Chu bị nô dịch với
nhà Chu và tầng lớp mới lên đang ra sức bóc lột, tận dụng sức lao động của
họ.
Đó là những mâu thuẫn của thời kỳ lịch sử đang đòi hỏi giải thể chế độ
thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ

gia trưởng (còn gọi là tông pháp), xây dựng nhà nước của của giai cấp quốc
dân, giải phóng cho lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Xã hội đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do
xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn thịnh và những
thành quả đạt được trên lĩnh vực khoa học tự nhiên là nguồn động lực quan
trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng thời kỳ này. Trong
nước, cũng xuất hiện các trung tâm (như Tắc Hạ của nước Tề), những tụ điểm
(như nhà Mạnh Thường Quân) mà ở đó “kẻ xử sĩ bàn ngang” hay “bàn việc
nước”. Nhìn chung họ đều đứng trên lập trường của giai cấp mình, tầng lớp
mình mà phê phán xã hội cũ, xây dựng xã hội tương lai và tranh luận phê
phán, đả kích lẫn nhau. Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia tranh
minh” (trăm nhà đua tiếng), “Bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy). Chính
trong quá trình tranh minh đó, đã làm xuất hiện nhiều nhà tư tưởng vĩ đại, góp
phần vào sự phát triển của nền Triết học Trung Quốc, trong đó có Khổng Tử
với luồng tư tưởng khá phổ biến và có ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội đương
đại và cả sau này. Đặc biệt là quan niệm của Khổng Tử về giáo dục nhằm

14


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

mục đích dạy con người cho đến bậc “Nhân”. Mục đích giáo dục của Khổng
Tử là giữ cho xã hội bình ổn, trở về thời đại “tông pháp” nhà Chu.
1.1.2. Giới thiệu về Khổng Tử
Khổng Tử là người sáng lập học thuyết Nho gia, tên là Khâu, tự Trọng
Ni, sinh ra ở ấp Trâu, làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ (tỉnh Sơn Đông
ngày nay). Ông sinh năm 551 t.CN, sinh ra và lớn lên trong thời đại “Vương

đạo suy vi”, “Bá đạo” nổi lên lấn át “Vương đạo” của nhà Chu nên tuổi thơ
ông trải qua nhiều biến có đau buồn.
Khổng Tử sinh ra trong một gia đình quý tộc nhưng nghèo, cha là Thúc
Lương Ngột, làm chức võ quan nhỏ ở nước Lỗ, can đảm, mạnh mẽ, có chút
chiến công, sinh Khổng Tử khi ông bước sang tuổi 60. Mẹ là Nhan Thị Trưng
Tại, một người phụ nữ hiểu biết về văn hóa truyền thống. Năm Khổng Tử lên
2 tuổi thì cha mất. Khổng Tử ngay từ nhỏ đã thích chơi trò lễ tế và ham học
hỏi. Ông không học riêng một thầy nào mà hồi nhỏ được theo học trường
công mở dạy con cháu quý tộc về lục nghệ: lễ, xạ, nhạc, ngự, thủ, số. Năm 15
tuổi, Khổng Tử đã học hết chương trình đó để trở thành một Nho sinh và ông
bắt đầu để tâm trí vào việc tự học, nghiên cứu về lễ.
Năm 19 tuổi, Khổng Tử thành gia thất, nhận một chức quan nhỏ ở nước
Lỗ. Năm 22 tuổi, ông bắt đầu dạy học. Khoảng 30 tuổi, ông về kinh đô nhà
Chu khảo về luật lệ, tế lễ của các triều trước, rồi trở về nước Lỗ. Học trò của
ông theo học ngày càng nhiều. Ông vừa dạy học vừa đọc sách, suy nghĩ về
đạo của vua Nghiêu, Thuấn và Chu Công.
Vào tuổi “ngũ thập”, Khổng Tử có cơ hội ra làm quan và giữ các chúc
vụ quan trọng trong triều đình như: Trung Đô Tể (quan cai trị thành trung đô);
Tiểu Tư Không (quan quản lý ruộng đất và dân sự toàn nước Lỗ); sau đó
được phong làm Đại Tư Khâu, quan cai quản hình pháp, sau 4 năm ông được
vua nước Lỗ phong chức nhiếp chính sự. Trong suốt thời gian làm quan,

15


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

Khổng Tử luôn luôn kiên trì tư tưởng trọng dân, lấy lễ giáo đặt trên pháp giáo.

Thời kỳ này, nước Lỗ phát triển rất hưng thịnh, nhân dân sống trong cảnh no
ấm. Nhưng sau đó,vua nước Lỗ ham mê tửu sắc, bị kẻ gian xúi giục đã không
nghe theo lời khuyên của Khổng Tử bỏ bê việc triều chính, thực hành không
đúng lễ. Khổng Tử đã treo mũ từ quan,cùng một số học trò của mình chu du
nhiều nước giảng đạo.
Sau 13 năm chu du thiên hạ (496 - 484 t.CN) để tìm một minh quân ở
Tống, Vệ, Trần… theo phương án cải cách và lý tưởng của ông, nhưng không
thành. Khổng Tử về nước Lỗ chuyên dạy học trò và tập trung sức lực chỉnh lí,
san định lại sách cổ như kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc, và soạn bộ Xuân Thu.
Người đời sau gọi bộ sách là lục kinh. Việc làm đó đã cống hiến lớn lao để
giữ gìn và truyền bá văn hóa cổ đại. Khổng Tử chủ trương: “thuật lại mà
không sáng tác, tín và hiếu với người xưa”.
Khổng Tử không có trước tác truyền lại cho hậu thế khi ông còn sống.
Sách Luận Ngữ chỉ là ghi chép lại lời Khổng tử do học trò nhớ lại và chỉnh lý.
Khổng Tử không những là một nhà chính trị tài ba mà còn là một nhà giáo
dục vĩ đại. Học trò của ông có hơn 3.000 người, trong đó có 72 người nổi
danh nhất.
Năm 479 trước Công nguyên, Khổng Tử lâm trọng bệnh và vài ngày
sau đó qua đời ở tuổi 73. Ông mất đi nhưng tư tưởng của ông còn ảnh hưởng
mạnh mẽ không chỉ ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng ở nhiều nước trên thế
giới, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt là tư tưởng của ông về giáo dục, văn
hóa… Những tư tưởng đó có ý nghĩa rất sâu sắc tới sự nghiệp giáo dục của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ông xứng đáng được mệnh danh là : “Vạn
thế sư biểu” - người thầy của muôn đời.

16


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa Giáo dục Chính trị

1.2. Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục
1.2.1. Khái niệm giáo dục
Giáo dục luôn là một trong những vấn đề quan trọng đối với sự phát
triển của mọi thời đại. Đồng thời, giáo dục cũng luôn thay đổi cùng với sự
vận động, phát triển của xã hội. Do đó, bàn tới giáo dục có rất nhiều quan
niệm khác nhau.
Theo quan niệm của nhà bác học Mendelev (người Nga) cho rằng: Giáo
dục là cái vốn có tự mình thu lượm được tương ứng tiêu phí thời gian và lao
động và với việc tích lũy trí tuệ và kinh nghiệm của con người.
Theo J.Dewey, cá nhân con người không bao giờ vượt qua quy luật của
sự chết, và cùng với sự chết thì là những kiến thức, kinh nghiệm mà cá nhân
mang theo cũng biến mất. Tuy nhiên, tồn tại xã hội lại đòi hỏi kiến thức, kinh
nghiệm của mỗi con người phải vượt qua được sự khống chế của sự chết để
duy trì tính liên tục của sự sống xã hội. Giáo dục là “khả năng” của loài người
để đảm bảo sự tồn tại của xã hội.
Trong bảng phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế, thuật ngữ giáo
dục được định nghĩa là: “Sự giao lưu có tổ chức và được duy trì nhằm vào
học tập”.
Về cơ bản, các giáo trình giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày: Giáo
dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh
hội những kinh nghiệm lịch sử - xã hội các thế hệ loài người.
Trong tiếng Anh, từ “Giáo dục” là “Education”. Đây là một từ gốc Latinh
ghép bởi hai từ “Ex” và “Ducere” có nghĩa là dẫn con người qua khỏi hiện tại
của nó mà vươn tới những gì tốt lành hơn, hạnh phúc hơn. Trong định nghĩa này,
mục tiêu sâu xa của giáo dục là sự hoàn thiện của mỗi cá nhân. Người giáo dục
(thế hệ đi trước) có nghĩa vụ phải hướng dẫn, truyền lại cho thế hệ sau tất cả
những gì có thể làm cho thế hệ sau phát triển hơn, hạnh phúc hơn.


17


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

Theo quan niệm sơ khai của phương Đông và phương Tây định nghĩa
rằng: “Giáo” nghĩa là dạy, là sự rèn luyện về đường tinh thần nhằm phát triển
tri thức và huấn luyện tình cảm đạo đức. “Dục” nghĩa là nuôi nấng, săn sóc về
mặt thể chất. Vậy giáo dục là một sự đào luyện con người về cả ba phương
diện, trí tuệ, tình cảm và thể chất.
Như vậy, giáo dục hay quá trình giáo dục chính là quá trình hình thành
nhân cách cho người học. Quá trình giáo dục bao gồm: mục đích giáo dục, đối
tượng giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục. Trong đó, mục
đích của giáo dục là hình thành nhân cách cho người học; đối tượng giáo dục
chính là các cá nhân người học; nội dung giáo dục là những vấn đề truyền đạt
cho người học; phương pháp giáo dục là cách thức mà nhà giáo dục truyền đạt
tri thức cho người học để người học tiếp thu được nội dung cần học một cách
hiệu quả nhất.
Thấy được vai trò to lớn của giáo dục trong việc hình thành nhân cách
con người, ngay trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện các nhà giáo dục với các hệ
thống quan niệm của mình về giáo dục. Trong đó, chúng ta không thể nào
không nhắc tới nhà giáo vĩ đại Khổng Tử. Ông là người đặt nền móng cho sự
nghiệp giáo dục ở Trung Quốc và đã đưa ra tư tưởng của mình về giáo dục
tương đối hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ.
1.2.2. Nội dung quan niệm của Khổng Tử về giáo dục
Khổng Tử rất coi trọng giáo dục, ông khẳng định ai cũng cần được giáo
dục: vua cũng cần học để làm vua, dân cũng cần học để làm dân. Nếu không
được giáo dục thì có giỏi mấy cũng dần thành ngu muội. Mặc dù còn nhiều

hạn chế, song có thể nói Khổng Tử là người đầu tiên trong lịch sử Trung
Quốc xây dựng được một hệ thống quan niệm về giáo dục khá hoàn chỉnh cả
về mục đích, đối tượng, nội dung, phương pháp giáo dục. Điều đó thể hiện

18


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

tầm nhìn chiến lược, sâu sắc của ông, để lại cho đời sau nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu về giáo dục.
1.2.2.1. Vai trò, mục đích và đối tượng giáo dục của Khổng Tử
Vai trò của giáo dục:
Khổng Tử cho rằng, giáo dục có vai trò, ý nghĩa tối quan trọng đối với
xã hội và từng cá nhân. Đối với xã hội, nếu giáo dục tốt cho mọi người thì sẽ
tác động trực tiếp vào việc thực hiện lẽ công bằng xã hội, đến tôn ti trật tự xã
hội, tác động đến cuộc sống sinh hoạt của người dân. Đối với cá nhân, giáo
dục có vai trò giáo hóa và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Vì vậy, nếu
mọi người được giáo dục tốt về nhân, lễ… thì sẽ làm cho xã hội ổn định, thần
dân trăm họ sống trong cảnh thanh bình.
Đối với mỗi con người, giáo dục là yếu tố cơ bản và quyết định việc
hình thành bản tính con người hay còn gọi là “tính người”. Theo Trung Dung
thì tính của con người là do trời phú cho. Sự phú tính ấy, về cơ bản là đồng
đều. Khổng Tử nói "bản tính con người ta đều gần giống nhau nhưng do chịu
ảnh hưởng khác nhau mà thành khác xa nhau”. Như vậy, trong tư tưởng
Khổng Tử đã sớm nhận thức được vai trò của giáo dục trong việc giáo dưỡng
con người, “tính người”, để tạo nên những bậc quân tử.
Đối với xã hội, theo Khổng Tử muốn xã hội bình yên và hưng thịnh thì

phải giáo dục con người. Bởi ông sống trong thời đại mà “Vương đạo suy vi”,
bá đạo nổi lên lấn át vương đạo, xã hội loạn lạc, chém giết lẫn nhau, tôi giết
vua, vợ giết chồng, con giết cha làm đảo lộn kỉ cương, trật tự tôn ti, cả xã hội
chìm đắm trong sự suy đồi, “đại nghịch vô đạo”. Tất cả đều do con người gây
nên. Vì vậy, ông chủ trương đẩy mạnh giáo dục để xã hội có luân thường đạo
lý.

19


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

Mục đích giáo dục:
Trên cơ sở nhận thức vai trò to lớn của giáo dục đối với cá nhân và xã
hội, Khổng Tử đã xây dựng sự nghiệp giáo dục, triệu tập học trò giảng giải,
đàm đạo, truyền thuật đạo lý văn hóa đời xưa nhằm đào tạo mẫu người lý
tưởng. Đó là những con người hoàn thiện, có trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng
xã hội lý tưởng của ông. Chính vì vậy, trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử,
mục đích giáo dục có sự lồng ghép, đan xen, nối tiếp nhau để đạt đến mục
đích cuối cùng là xây dựng một xã hội lý tưởng. Vì thế, sự nghiệp giáo dục
của ông nhằm những mục đích sau:
Thứ nhất, học để giúp đời. Theo Luận Ngữ thì mục đích giáo dục của
Khổng Tử là bồi dưỡng “nhân”, người quân tử để ra làm quan, tham gia gánh
vác công việc quốc gia, để giữ cho kỉ cương xã hội được ổn định, để điều hòa
mâu thuẫn giai cấp, khôi phục lễ, thực hành chủ nghĩa cải lương, tức là thực
hành chủ nghĩa chính trị của ông. Mặt khác, khi làm quan phải biết đem cái
đạo trượng phu để răn đe kẻ dưới, lấy cái trí, cái dũng của người quân tử mà
giúp dân,giúp nước. Muốn được như vậy người quân tử phải tu thân tích đức.

Khổng Tử nói : "kẻ sĩ để chí vào đạo lý” [12, tr.273], tức là kẻ sĩ phải lấy việc
tu thân và lý tưởng chính trị làm mục tiêu phấn đấu. Có như vậy trên dưới
mới được rõ ràng, muôn dân mới được thuân lòng; trên vua thuận long trời, ắt
thiên hạ sẽ được bình yên.
Thứ hai, học để hoàn thiện nhân cách: Theo Khổng Tử người hấp thụ
giáo dục phải tự hoàn thiện nhân cách của mình. Ông cho rằng : “Cổ chi học
giã vị kỉ, kim chi học giã vị nhân” [12, tr.544]. Tức là kẻ xưa đi học chỉ lo cho
mình, ngày nay kẻ đi học còn lo cho người. Cho nên, mục đích giáo dục của
Khổng Tử là làm cho các đệ tử tự động hoàn thiện nhân cách của mình, trên
tinh thần đó công việc giáo dục của ông luôn hướng học trò vươn tới nhân
cách lý tưởng, thể hiện tính cách và phẩm chất của bậc thánh nhân, của người

20


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

quân tử, kẻ sĩ. Đó bao gồm các đức tính: nhân, lễ, trung, hiếu,… Tóm lại,
nhân cách lý tưởng là hệ thống chuẩn mực đạo đức của một con người hoàn
thiện mà Khổng Tử nói riêng, Nho giáo nói chung luôn hướng đến và coi đây
là mục tiêu để đào tạo ra tầng lớp Nho sĩ của chế độ phong kiến.
Thứ ba, mục đích lớn lao nhất trong tư tưởng giáo dục của Khổng Tử
là xây dựng một xã hội lý tưởng. Trong xã hội đó, con người sống “chính
danh”, vua ra vua, tôi ra tôi, cha đúng nghĩa là cha, con đúng nghĩa là con, vợ
giữ đạo làm vợ, chồng đúng mực làm chồng… Mỗi người làm tròn bổn phận
của mình và thực hành đúng đạo lý xã hội, đâu cũng thấy nhân nghĩa, cương
thường được đặt lên đầu. Muốn đạt được mục đích này thì hai mục đích trên
phải được thực hiện và là tiền đề, cơ sở để xây dựng một xã hội lý tưởng, đối

lập hoàn toàn với xã hội mà Khổng Tử đang sống.
Trên đây là ba mục đích tương đối tiến bộ của Khổng Tử, trong đó,
mục đích giáo dục bao trùm là tạo ra lớp người quân tử có đủ đức, đủ tài gánh
vác công việc quốc gia, để trị dân, trị nước, bổ sung vào đội ngũ quan lại, kiến
tạo và duy trì trật tự, kỉ cương và sự ổn định của chế độ phong kiến. Nếu ba
mục đích giáo dục kể trên được thống nhất với nhau thì có thể nói đây là một
quan điểm Triết học về giáo dục có tính thực tiễn cao. Từ những mục đích
giáo dục này đã chi phối đến việc lựa chọn đối tượng giáo dục của Khổng Tử.
Đối tƣợng giáo dục:
Khổng Tử là người đầu tiên trong lịch sử nêu lên tư tưởng “hữu giáo vô
loại” trong giáo dục. Khổng Tử quan niệm đối tượng giáo dục là tất cả mọi
người, giáo dục không phân biệt kẻ sang, người hèn, người cao, kẻ thấp…
Điều này thể hiện tính chất tiến bộ trong điều kiện xã hội phân chia đẳng cấp
rõ rệt khi đó, tư tưởng này xuất phát từ học thuyết “nhân” của ông. Chính
Khổng Tử đã thực hiện tốt chủ trương của mình đề ra. Ông nói: “Đối với

21


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

những người đem lễ xin học từ một bó nem trở lên, ta chưa hề từ chối người
nào, mà không dạy bảo” [12, tr.347].
Trước thời Khổng Tử, giáo dục được coi là một thứ xa xỉ, giáo dục chỉ
là đặc quyền, đặc lợi của riêng con em quý tộc mà thôi. Đối với dân thường
thì việc học hành là hoàn toàn xa lạ và là ước mơ không thể thực hiện được,
nhưng đến Khổng Tử, trước thực tế trên dưới đảo lộn, ông đã mở rộng phạm
vi giáo dục cho tất cả mọi người. Có thể nói rằng, với luận điểm “hữu giáo vô

loại”, Khổng Tử đã bứt ra khỏi hệ tư tưởng thần quyền và thế quyền đang
thống trị xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ, tước bỏ đặc quyền học vấn, giáo dục
của quý tộc, đem nó phổ cập cho dân chúng, phá bỏ hàng rào ngăn cách giữa
quý tộc và bình dân, tạo điều kiện cho tầng lớp những người lao động có điều
kiện tu dưỡng, học tập. Như vậy, Khổng Tử là người mở đường trong việc tạo
lập sự công bằng xã hội trong giáo dục. Với Khổng Tử, bất kì ai muốn theo
học chỉ cần có lòng thành không cần lễ bạc, đặc biệt là biết giữ lễ, có lòng tín
thầy thì lúc nào ông cũng vui lòng truyền dạy. Đối với Khổng Tử, việc giảng
dạy cho học trò là vì nghĩa, vì trách nhiệm giúp đời, giúp người chứ không
phải vì danh lợi. Điều này được chứng minh bằng cuộc đời thanh bạch của
ông. Nhờ tư tưởng “hữu giáo vô loại” và tấm lòng bao dung, độ lượng mà
Khổng Tử đã thu nhận hơn 3.000 học trò.
Mặt khác, Khổng Tử lại cho rằng, có những hạng người khác nhau, có
những hạng người được chia theo địa vị xã hội và nhân cách con người (quân
tử, kẻ sĩ và tiểu nhân), có những hạng người được phân biệt bằng năng lực
nhận thức (thượng trí, trung nhân, hạ ngu). Tùy từng đối tượng mà dạy cho họ
biết ở những mức độ khác nhau. Ông phân biệt giữa “người thượng trí” và
“kẻ hạ ngu”. Ông còn phân biệt “tam phẩm”; đặc biệt là ông không tính đến
vai trò của giáo dục đối với phụ nữ. Khổng Tử coi phụ nữ là người khó dạy

22


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

“phụ nhân nan hóa”. Ở đây rõ ràng thể hiện tư tưởng “trọng nam, khinh nữ”
của Khổng Tử nói riêng và của Nho giáo nói chung.
Như vậy, có thể nói, đối tượng giáo dục của Khổng Tử, một mặt mang

tính chất bình đẳng, tiến bộ, nhưng mặt khác nó không vượt qua được hạn chế
bởi tầm nhìn lịch sử và bởi tính chất hết sức nghiệt ngã của chế độ đương
thời.
1.2.2.2. Nội dung và phương pháp giáo dục của Khổng Tử
Nội dung giáo dục:
Thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc lâm vào cảnh loạn
lạc, chiến tranh liên miên, các thế lực tranh giành quyền lực, người dân sống
trong cảnh lầm than, xã hội rối ren, luân lý bị đảo lộn. Căn cứ vào nhu cầu xã
hội đương thời mà Khổng Tử xác định nội dung giáo dục nhằm ổn định trật
xã hội. Luận ngữ có ghi “phu tử lấy bốn điều để dạy người: văn chương, đức
hạnh, lòng trung thực và lòng thánh tín” [12, tr.361]. Có thể thấy, Khổng Tử
lấy văn, hạnh, trung, tín làm nội dung giáo dục, song ông lấy đức hạnh làm
nội dung căn bản, làm trung tâm. Chính vì vậy, Khổng Tử coi lục kinh là tài
liệu giảng dạy chủ yếu cho học trò. Khổng Tử lấy lục kinh làm tài liệu giảng
dạy của mình vì theo ông lục kinh là sự khái quát, thuyết minh hay nhất của
văn hóa Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu.
Khổng Tử chú trọng dạy “đạo làm người” trước dạy văn, ông còn kết
hợp dạy lục nghệ cho học trò, nhưng trọng tâm giáo dục học trò của ông vẫn
là hành vi đạo đức và ý thức trách nhiệm đối với xã hội, đối với vua, đối với
cha mẹ và anh em, bạn bè. Ông còn nêu ra cả một hệ thống các chuẩn mực
đạo đức cần có của một người học đạo giúp đời.
Khi giảng dạy, Khổng Tử thường tùy vào năng khiếu của mỗi người mà
chia ra bốn loại phạm vi học thuật để đạt được mục tiêu giảng dạy đó là đức
hạnh, ngôn ngữ, chính sự, văn chương. Đức hạnh nhằm cho những người thực

23


Khóa luận tốt nghiệp


Khoa Giáo dục Chính trị

hành phẩm chất đạo đức, ngôn ngữ chủ yếu dành cho những người cần biện
luận lý thuyết, chính sự dành cho những người hoạt động chính trị, cai quản
quốc gia, văn học cho những người đi sâu nghiên cứu văn chương. Trên cơ sở
sự phân loại đó mà Khổng Tử có sự điều chỉnh nội dung và phương pháp
giảng dạy phù hợp, bồi dưỡng học trò thành nhân tài. Tuy nhiên, đối với tất cả
các loại học trò thì việc học “đạo làm người” vẫn là vấn đề quan trọng nhất,
chính vì vậy mà ông coi “đạo” và “đức” là nội dung quan trọng nhất trong
quá trình giáo dục.
Trong sự nghiệp giáo hóa con người, Khổng Tử luôn đề cao yếu tố
“đức”. Đức trong quan niệm của Khổng Tử là trí, dũng, nhân. Đó là nền tảng,
cơ sở, là cứu cánh đối với mỗi con người và xã hội, là cái gốc của đạo trị
quốc. Ông từng viết “làm chính trị bằng đức, thì tự mình sẽ giống như sao
Bắc Đẩu, ở nguyên một chỗ mà mọi vì sao khác chầu quanh mình” [12,
tr.244]. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh để
soi sáng đường lối. Đạo đức trong quan niệm của Khổng Tử không phải là có
sẵn trong mỗi người mà muốn đạt được đạo đức phải trải qua quá trình tu
dưỡng, rèn luyện và không ngừng học hỏi.
Đi liền với “đức” trong nội dung giáo dục, Khổng Tử cũng đề cao yếu
tố “đạo”, đó là ba mối quan hệ trong xã hội: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng.
“Đạo” của Khổng Tử ít nói đến “thiên đạo” mà chủ yếu nói về “nhân đạo”.
Trong các mối quan hệ trên, Khổng Tử đòi hỏi phải có tính chất hai chiều:
vua lễ - tôi trung, cha từ - con hiếu… Đạo không phải cái gì đó cao siêu, tách
rời con người mà đạo là đạo người, đạo vì con người “đạo hiếu”. Theo ông
“đạo hiếu” là cái gốc trọng yếu nhất của con người trong phạm vi gia đình, từ
đó mở rộng ra phạm vi thiên hạ. Khổng Tử nói: “Đệ tử vào thì hiếu, ra thì đễ,
cẩn thận và giữ tín, thương yêu dân, gần gũi với người thân, làm những điều
đó rồi còn dư sức thì để học văn” [12, tr.224]. Trong luận điểm này, Khổng


24


Khóa luận tốt nghiệp

Khoa Giáo dục Chính trị

Tử nêu ra sáu yêu cầu đối với lớp trẻ trong việc tu dưỡng, rèn luyện trở thành
người nhân đức. Trong đó, tiêu chí đầu tiên cũng là quan trọng nhất của người
học đạo là hiếu thuận với cha mẹ. Đây được xem là cái gốc, nguyên tắc để
duy trì trật tự và sự hòa thuận trong gia đình. Khổng Tử đã đem “đức dục” đặt
vào vị trí đầu tiên, nó là số một. Khi mà đạo đức đã học xong, thì học thêm
văn hóa, các tri thức để có thêm tài năng, đây chính là “hậu học văn”. Khổng
Tử chủ trương bồi dưỡng, giáo dục cả “đức” lẫn “tài” nhưng ông chú trọng
yếu tố đức hơn. Đó chính là giáo dục nhân cách, đạo đức cho con người.
Trong nội dung “đạo” của Khổng Tử, nếu trong gia đình ông đề cao
“đức hiếu” thì ngoài xã hội ông chủ trương giáo dục “đức trung” của bề tôi
đới với vua. Theo Khổng Tử trung với vua, hiếu với cha mẹ là một gốc vậy.
Theo Khổng Tử hạt nhân của đạo đức là “nhân”. Trong quan niệm của
ông, “nhân” là một khái niệm rất rộng và có nhiều ý nghĩa và nội dung khác
nhau. Hiểu theo nghĩa rộng nhất, đức nhân bao gồm các đức khác nhau và
mọi đức khác đều chứa đựng trong đức nhân. Người có "nhân" đồng nghĩa
với con người hoàn thiện nhất, đạo làm người có hàng ngàn, hàng vạn điều,
nhưng có thể hiểu đối với mình và đối với người nên có “nhân”. Khổng Tử
cho rằng nhân và thánh gần như một, đã thánh là nhân, đã nhân là thánh.
Đối với mình thì người có “nhân” luôn luôn yên tâm làm điều nhân, vì
nhân mà sẵn sàng hi sinh chứ không vì bản thân mà từ bỏ điều nhân. Trong
luận ngữ, Khổng Tử đã nói: “Người lập chí thực hành điều nhân thì chẳng thể
làm điều xấu”.
Đối với người, nhân là yêu người, yêu thương người khác như yêu

chính bản thân mình. Như khi Trọng Cung hỏi Khổng Tử về điều nhân ông
đáp: “Điều gì không muốn, chớ thi hành cho người khác” [12, tr.473]; còn khi
Tử Cống hỏi về nhân, Khổng Tử trả lời: “Người nhân là người muốn xây

25


×