Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
1
Khóa luận tốt nghiệp
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
PHẠM THỊ THU PHƢƠNG
QUAN NIỆM CỦA THUYẾT “TAM TÒNG”,
“TỨ ĐỨC” TRONG NHO GIÁO VÀ
SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM NGÀY NAY
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Hµ néi - 2012
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
2
Khóa luận tốt nghiệp
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
PHẠM THỊ THU PHƢƠNG
QUAN NIỆM CỦA THUYẾT “TAM TÒNG”,
“TỨ ĐỨC” TRONG NHO GIÁO VÀ
SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI
NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM NGÀY NAY
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Hµ néi - 2012
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
3
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn quý thầy cụ giáo đã giảng dạy các
chuyên đề trong thời gian học tập tại trường, ban chủ nhiệm khoa Giáo dục chính trị
đã đóng góp ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo - TS. Vi Thái Lang,
người đó tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên
để em có thêm nghị lực trong học tập cũng như trong cuộc sống.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Thu Phương
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
4
Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Vi Thái
Lang. Tôi xin cam đoan rằng:
- Khóa luận này là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Những tư liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả nghiên cứu này không hề trùng khít với bất cứ công trình nghiên
cứu của tác giả nào đã được công bố trước đó.
- Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 06 tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Thu Phương
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
5
Khóa luận tốt nghiệp
BẢNG KÍ KIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chú thích tài liệu trích dẫn để trong ngoặc [], chữ số đầu chỉ số thứ
tự của tài liệu, chữ số thứ hai chỉ số trang. Nếu chỉ có một chữ số là số thứ tự
của tài liệu.
Các chữ viết tắt
- Nxb : Nhà xuất bản
- GD – ĐT : Giáo dục – đào tạo
-
SCN: Sau công nguyên
-
TCN: Trước công nguyên
-
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
6
Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................8
3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...........................................................................................9
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................9
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................10
7. Cấu trúc của khóa luận ......................................................................................10
Chương 1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO ......................................11
1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của Nho giáo .............................................11
1.2. Một số nội dung chính của Nho giáo ..............................................................12
1.3. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo ...............................................15
1.4. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam ....................................................19
Chương 2. SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC” ĐỐI
VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM NGÀY NAY .....................................................22
2.1. Thực trạng ảnh hưởng của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ
nữ Việt Nam ngày nay ...........................................................................................22
2.2. Phương hướng xây dựng người phụ nữ Việt Nam trong thời đại hiện nay ...43
2.3. Một số giải pháp cơ bản ...................................................................................49
KẾT LUẬN ...............................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................62
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
7
Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất
trên thế giới với nhiều phát minh vĩ đại trong lịch sử trên nhiều lĩnh vực khoa học.
Có thể nói, văn minh Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại.
Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học, đây còn là nơi sản sinh ra nhiều
học thuyết triết học lớn có ảnh hưởng đến nền văn minh Châu Á cũng như toàn thế
giới. Trong số các học thuyết lớn đó phải kể đến trường phái triết học Nho giáo. Khi
mới xuất hiện, nó chỉ là những tư tưởng hay tri thức bàn về văn chương, lục nghệ
góp phần trị nước. Đến thời Khổng Tử, ông đã hệ thống những tư tưởng và tri thức
rời rạc trước đây thành một học thuyết hoàn chỉnh gọi là Nho học hay “Khổng học”.
Nho học là một bộ phận cấu thành triết học Trung Quốc cổ trung đại. Kể từ
lúc xuất hiện từ vài thế kỷ trước công nguyên (TCN) cho đến thời HánVũ Đế, Nho
giáo đã chính thức trở thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ vị trí đó cho đến ngày
cuối cùng của chế độ phong kiến. Nho giáo rất phát triển ở các nước Trung Quốc,
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Nét đặc thù của triết học Trung Quốc là có xu
hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội với nội
dung bao trùm là vấn đề con người, xây dựng con người, xã hội lý tưởng và con
đường trị nước. Ngay từ khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã thích nghi và phát
triển mạnh mẽ. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội đời sống Việt Nam, trong đó
không thể không kể tới thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” và những ảnh hưởng của nó
đối với người phụ nữ Việt Nam.
Trong hệ thống tư tưởng triết học Nho giáo, người phụ nữ không được coi
trọng, họ không có quyền lợi đối với bản thân cũng như xã hội. Nhưng những tư
tưởng tiến bộ của thời đại đã giải phóng người phụ nữ và đem lại cho họ quyền tự
do, bình đẳng đối với nam giới. Ở Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định vai trò của người phụ nữ trong công cuộc đổi mới và xây
dựng đất nước: Con người là yếu tố quan trọng hàng đầu, trong đó người phụ nữ là
lực lượng đông đảo, nắm vai trò to lớn trong gia đình và ngoài xã hội.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
8
Khóa luận tốt nghiệp
Bước sang thời kỳ đổi mới, Việt Nam với nhiều thay đổi lớn lao trên mọi lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội,... đã đặt ra yêu cầu, đòi hỏi là cần phải thay
đổi những tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ ngày nay
phải là người giỏi việc nước, đảm việc nhà, tích cực tham gia các công tác xã hội,…
Cùng với những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ vẫn cần phải chú ý gìn giữ những
nét đẹp truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”
trong Nho giáo, loại trừ những ảnh hưởng tiêu cực, đã góp phần làm nên nét đẹp
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
Trong giai đoạn đổi mới đất nước, việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan
niệm “Tam tòng”, “Tứ đức” là một vấn đề có ý nghĩa hết sức thiết thực. Vì vậy, em
chọn đề tài: “Quan niệm của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và sự
ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay” là đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề ảnh hưởng của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo đối với
người phụ nữ Việt Nam ngày nay đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của đông đảo
của các Nho gia, triết gia, các nhà bình luận… Cho đến nay đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Điển hình như:
- Tác phẩm "Nho giáo" của Trần Trọng Kim với hai tập: Quyển Thượng và
Quyển Hạ xuất bản trước năm 1930 và đã được tái bản nhiều lần, gần đây nhất là
năm 1992.
- Tác phẩm "Khổng học đăng" của Phan Bội Châu được soạn thảo vào những
năm đầu thập kỷ 30 của thế kỷ XX, xuất bản năm 1957 và được tái bản năm 1992.
- "Nho giáo xưa và nay" do giáo sư Vũ Khiêu chủ biên và xuất bản năm 1990.
- "Nho giáo xưa và nay" của nhà nghiên cứu Quang Đạm xuất bản năm 1994.
- "Nho giáo và phát triển ở Việt Nam" của giáo sư Vũ Khiêu xuất bản năm
1997.
Ngoài ra, trong nhiều sách báo, tạp chí như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình,
Báo Tiền phong… phạm trù “Công - Dung - Ngôn - Hạnh” và thuyết “Tam tòng”
cũng được bàn đến nhưng nghiên cứu dưới góc độ hẹp và từng khía cạnh nhỏ.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
9
Khóa luận tốt nghiệp
Trên đây là một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về Nho giáo trên các
phương diện: giới thiệu tác giả, tác phẩm; đánh giá vai trò của một số nhà Nho tiêu
biểu, phân tích những nguyên lý cơ bản của Nho giáo; ảnh hưởng của Nho giáo đối
với Việt Nam. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về đề tài này đã nêu lên
những nội dung cơ bản của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nhưng mới chỉ dùng lại ở
mức đại cương, khái quát, xung quanh nó vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn. Vì vậy,
thuyết này rất cần được nghiên cứu sâu hơn, mang tính hệ thống hơn, nhất là sự ảnh
hưởng tích cực, tiêu cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay.
3. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nhận thức đầy đủ hơn những tư tưởng của Nho giáo và ảnh hưởng
của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá ảnh hưởng tích cực, tiêu cực của thuyết này đối với người phụ nữ
Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và
tiếp thu, vận dụng sáng tạo giá trị tích cực của học thuyết, góp phần xây dựng và
phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam trong thời kì đổi mới.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đi sâu phân tích làm rõ các phạm trù của “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Trung
Quốc cũng như ở Việt Nam.
- Phân tích sự ảnh hưởng của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với người phụ
nữ Việt Nam xưa và nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tốt đẹp và khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết này trong quá trình xây dựng người phụ nữ
Việt Nam hiện đại.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với
người phụ nữ Việt Nam ngày nay.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
10
Khóa luận tốt nghiệp
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài không đi sâu nghiên cứu toàn bộ triết học Nho giáo mà chỉ tập trung ở
phạm vi thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” của Nho giáo, những hạn chế và giá trị tích
cực của nó đối với người phụ nữ Việt Nam ngày nay.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được triển khai dựa trên cơ sở các phương pháp sau:
- Phương pháp luận: dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin. Đây là phương pháp xuyên suốt của đề tài. Phương pháp này giúp cho việc
nhìn nhận, đánh giá khách quan đúng đắn để giải quyết các vấn đề của đề tài đặt ra.
- Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như phân tích tổng hợp,
khái quát hóa, logic – lịch sử, so sánh, điều tra…
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
còn có phần nội dung gồm 2 chương 7 tiết.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
11
Khóa luận tốt nghiệp
Chƣơng 1
TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NHO GIÁO
1.1. Vài nét về sự ra đời và phát triển của Nho giáo
Trung Hoa cổ đại có lịch sử phát triển lâu đời (từ cuối thế kỷ III TCN đến thế
kỷ II TCN). Đây là một trong những trung tâm văn hóa, khoa học và triết học cổ
xưa phong phú và rực rỡ nhất không chỉ của nền văn minh phương Đông mà còn là
của cả nhân loại. Trong khoảng 2000 năm ấy, lịch sử Trung Hoa được chia thành 2
thời kỳ lớn: thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu) và thời Xuân Thu - Chiến Quốc
Thời Xuân Thu, tình hình kinh tế, xã hội có nhiều biến động mạnh mẽ dẫn đến
sự đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Chiến tranh giành quyền lợi giữa các
chư hầu xảy ra liên miên, xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn, tầng lớp dân tự do xuất
hiện. Lịch sử gọi là thời kì “bách gia chư tử”, “bách gia tranh minh”. Về các lĩnh vực
khác, thời kì này, khoa học tự nhiên ở Trung Quốc đã phát triển mạnh mẽ và đạt
được nhiều thành tựu to lớn, có nhiều cống hiến cho nhân loại như toán học, y học,
thiên văn học, sử học... Các khoa học này đều được hình thành trên cơ sở hoạt động
thực tiễn lâu dài của nhân dân lao động. Thời đại lịch sử có nhiều biến đổi mạnh mẽ
ấy đã đặt ra những vấn đề về xã hội, về nhà nước, pháp luật... thu hút sự quan tâm lí
giải của những bậc nhân tài và rồi làm xuất hiện một loạt tên tuổi của các nhà tư
tưởng và các trường phái triết học. Chính trong thời kì này, Nho giáo đã ra đời và
dần trở thành một trong những trường phái triết học cơ bản của Trung Quốc.
Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu (khoảng thế kỷ VI TCN đến thế kỷ
thứ V TCN) với sự đóng góp của Chu Công. Sau này, Khổng Tử đã phát triển tư
tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá nó. Do đó, người đời sau
coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.
Khổng Tử (551 TCN - 479 TCN), tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ở Khúc
Phụ, nước Lỗ, trong một gia đình quý tộc nhỏ. Ông sống ở thời đại nhà Chu suy
nhược, chư hầu lấn át, trật tự Lễ, Pháp bị đảo lộn, thế cục biến loạn, dân tình khổ
sở. Đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc Chu, Khổng
Tử đem sách thánh hiền đời trước ra lập thành một học thuyết có hệ thống, lấy
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
12
Khóa luận tốt nghiệp
“Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí – Tín” mà dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân
dục để giữ trật tự trong xã hội cho bền vững.
của
TCN,
tư tưởng Nho giáo của ông mới trở thành tư tưởng chính thống.
, văn hoá... mà còn ăn sâu trong hành vi và phương thức
.
Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ “Lục kinh”
gồm có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc.
Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh gọi là “Ngũ kinh”. Sau khi
Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn “Luận ngữ”.
Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là Tăng Tử đã dựa vào lời thầy mà soạn ra sách
“Đại học”. Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra
cuốn “Trung Dung”. Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau
này được ghi chép thành sách “Mạnh Tử”. Hệ thống những tư tưởng, học thuyết của
Khổng Tử được lưu truyền rộng và gây ảnh hưởng tới nhiều dân tộc trong khu vực
Châu Á, trong đó có Việt Nam.
1.2. Một số nội dung chính của Nho giáo
Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu. Người lý tưởng này gọi là “quân tử”. Quân tử là chỉ những
người cao thượng, có phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với tiểu nhân là những người
thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Để trở thành người quân tử, con người
ta trước hết phải “tự đào tạo”, phải “tu thân” và sau cùng phải “hành đạo”. Về cơ
bản, Nho học bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.2.1. Tu thân
Để lập lại kỉ cương của nhà Chu, Khổng Tử đặt ra “Tam Cương”, “Ngũ
Thường”, “Tam Tòng”, “Tứ Đức” làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an
sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam
Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Người trong xã hội giữ được
Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
13
Khóa luận tốt nghiệp
* Tam Cương: “ tam” là ba, “cương” là giềng mối. Tam cương là ba mối
quan hệ quân thần (vua tôi), phu phụ (vợ chồng), phụ tử (cha con).
- Trong quan hệ vua tôi, vua thưởng phạt công minh, tôi trung thành một dạ.
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” (vua bảo thần chết thần phải tuân lệnh, nếu
không tuân lệnh thì xem như không trung với vua).
- Trong quan hệ cha con, người làm cha có nghĩa vụ nuôi dạy con cái, con
phải hiếu lễ và nuôi dưỡng cha khi cha về già. “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu” (cha bảo con chết, con không chết thì con không có hiếu).
- Trong quan hệ vợ chồng, chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với
vợ, vợ phải chung thủy tuyệt đối với chồng. “Phu xướng phụ tùy” (chồng nói ra thì
vợ phải nghe theo).
* Ngũ thường: “ngũ” là năm, “thường” là hằng có. Ngũ Thường là năm điều
phải có trong khi ở đời, gồm: Nhân (lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật) Nghĩa (cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải) - Lễ (sự tôn trọng, hòa nhã
trong khi cư xử với mọi người) - Trí (sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng
sai) - Tín (giữ đúng lời, đáng tin cậy).
* Tam Tòng: “tam” là ba, “tòng” là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ
phải theo, gồm: tại gia tòng phụ (người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha), xuất
giá tòng phu (phụ nữ khi lấy chồng phải theo chồng), phu tử tòng tử (chồng qua đời
phải theo con).
* Tứ Đức: “tứ” là bốn; “đức” là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ
nữ phải có, gồm: Công (khéo léo trong việc làm) - Dung (hòa nhã trong sắc diện) Ngôn (mềm mại trong lời nói) - Hạnh (nhu mì trong tính nết).
Người quân tử phải đạt ba điều trong quá trình tu thân:
* Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là con đường, hay phương cách ứng xử mà người
quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. “Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè” (sách Trung Dung),
tương đương với “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu”. Đó chính là
Ngũ thường, hay Ngũ luân. Trong xã hội cách cư xử tốt nhất là “trung dung”. Tuy
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
14
Khóa luận tốt nghiệp
nhiên, đến Hán Nho Ngũ Luân được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng
nhất được gọi là “Tam thường”.
* Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân - trí - dũng”. Khổng Tử nói:
“Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được: Người nhân không lo buồn,
người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi” (sách Luận ngữ). Về sau,
Mạnh Tử thay “dũng” bằng “lễ, nghĩa” nên ba đức trở thành bốn đức: “nhân, nghĩa,
lễ, trí”. Hán Nho thêm một đức là “tín” nên có tất cả năm đức là: “nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín”. Năm đức này còn gọi là “Ngũ thường”.
* Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về “đạo” và “đức”, người quân tử
còn phải biết “Thi, Thư, Lễ, Nhạc”. Tức là người quân tử còn phải có một vốn văn
hóa toàn diện.
1.2.2. Hành đạo
Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là phải làm quan, làm chính
trị “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Họ phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình,
cho đến lớn - quốc gia, và đạt đến mức cuối cùng là thống nhất thiên hạ. Phương
châm hành động của người quân tử trong việc cai trị là:
* Nhân trị: Tức là cai trị bằng tình người, là yêu người và coi người như bản
thân mình. Nhân được coi là điều cao nhất của luân lý, đạo đức. Khổng Tử nói:
“Người không có nhân thì lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?”
(sách Luận ngữ).
* Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi
người phải làm đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì ngôn không
thuận, ngôn không thuận tất việc không thành” (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho giáo.
Chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích cai trị mà thôi.
Suy đến cùng, đạo làm người bao gồm hai chữ “nhân nghĩa”. Hệ thống hóa lại
một cách tóm tắt hai chữ ấy ở một số thời điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta
có thể kết luận hai chữ “nhân nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
15
Khóa luận tốt nghiệp
lý, nội dung từng thời kỳ có thêm bớt nhưng căn bản vẫn là những lễ giáo phong
kiến không ngoài mục đích duy nhất là ràng buộc con người vào khuôn khổ pháp lý.
Nho giáo phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển, nó
ngày càng bị trừu tượng hóa trên quan điểm siêu hình. Tuy nhiên, quan điểm đạo
đức của Nho giáo cũng có rất nhiều điểm tích cực. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một
tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội.
1.3. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
Con người trong Nho giáo được bàn đến dưới nhiều góc độ, tuy nhiên thường
được chú trọng vào khía cạnh luân lí, đạo đức. Người phụ nữ trong Nho giáo ít
được bàn đến, nhưng không phải là không có, điều này thể hiện trong thuyết “Tam
tòng”, “Tứ đức”.
Nho giáo thường đề cập tới người phụ nữ ở những vấn đề về đạo làm vợ, đạo
làm con; các quan hệ với mọi người trong gia tộc, ngoài xã hội; quan niệm về phạm
vi, lĩnh vực, công việc mà họ được phép tham gia. Theo đó, người phụ nữ phải tuân
theo các quy tắc của “Tam tòng”, “Tứ đức”: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu,
phu tử tòng tử (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con) và Công
– Dung – Ngôn - Hạnh (Giỏi nữ công gia chánh nghĩa là Công; giữ gìn dung nhan
đẹp đẽ cho chồng nghĩa là Dung; ngôn từ dịu dàng, biết lựa lời nói, không nói lời
xấu, biết khi nào được nói, khi nào không được nói, như thế gọi là Ngôn; giữ gìn
trinh tiết cho chồng cả lúc chồng sống lẫn sau khi chồng chết, tuân thủ tam tòng,
mắt nhìn thẳng, không được có thái độ “đầu mày cuối mắt” với người ngoài gọi là
Hạnh).
1.3.1. “Tam tòng”
Khổng Tử đã xây dựng đạo đức gia đình cho người phụ nữ bằng thuyết “Tam
tòng”, “Tứ đức”. Nói riêng về “Tam tòng”, theo Khổng Tử, người phụ nữ phải “tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Điều đó nghĩa là khi người con gái
còn trong gia đình thì phải nghe theo bất cứ điều gì người cha răn dạy hay mong
muốn. Sau đó đến lúc trưởng thành và lấy chồng, cuộc đời người nữ hoàn toàn phụ
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
16
Khóa luận tốt nghiệp
thuộc vào đấng phu quân. Và nếu lỡ người chồng có mất đi, người quả phụ nay lại
phải nghe theo lời người con trai.
Có quan niệm cho rằng Khổng Tử đã quá đề cao vị trí người đàn ông mà “xử
ép” phận nữ nhi bởi vì lối sống này khiến người phụ nữ phải chịu nhiều áp lực, tù
túng ở cả hai phương diện gia đình và xã hội. Theo đức Khổng Tử, một xã hội được
coi là hoàn thiện, nhất thiết phải có được nề nếp trật tự trong gia đình: con phải biết
vâng lời cha mẹ, vợ chồng đối xử tình nghĩa với nhau, nhỏ biết kính già và già thì
tôn trọng người nhỏ tuổi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một số người vì hiểu lầm đức
tính “đại trượng phu” để từ đó dẫn đến sự không tôn trọng phái nữ, bức hiếp vợ
mình, gây ra cảnh “chồng chúa vợ tôi” và chà đạp nhân quyền phụ nữ. Quan niệm
“Tam tòng” khiến người phụ nữ khi xuất giá thì dù hoàn cảnh tốt hay xấu thế nào
cũng đã trở thành người nhà chồng, chứ không nương nhờ ai được nữa.
1.3.2. “Tứ đức”
Với người phụ nữ, “Tứ đức” bao gồm bốn đức là “Công – Dung – Ngôn –
Hạnh”.
- “Công” chỉ sự khéo léo, đảm đang trong công việc gia đình, là nữ công gia
chánh, tề gia nội trợ. Tuy nhiên, mọi công việc với người phụ nữ xưa chủ yếu chỉ là
may vá, thêu dệt, bếp núc, buôn bán, với người phụ nữ giỏi thì có thêm “cầm – kỳ thi – họa”. Giới hạn về nội dung, về phạm vi công việc mà người phụ nữ được
quyền tham gia chỉ bó hẹp trong gia đình. Một người phụ nữ mẫu mực là người phụ
nữ chăm chỉ, hiền thục, lo toan thu vén việc nhà, là người nâng khăn, sửa túi cho
chồng. Công việc ngoài xã hội không thuộc về trách nhiệm của họ.
- “Dung” là vẻ đẹp hình thức, thể hiện dáng vẻ tự nhiên kết hợp với trang
phục, tạo nên sự đoan trang, thùy mị nói chung. Ngoại hình người đàn bà phải hòa
nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân. Chuẩn mực vẻ đẹp xưa của người
phụ nữ là sự thùy mị, kín đáo, duyên dáng. Quan niệm về hình thức cũng thể hiện vị
trí khiêm nhường của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Cái đẹp của người phụ
nữ theo quan niệm cổ truyền cũng phải là cái đẹp đem lại điều tốt lành, có ích lợi
cho chồng, cho con “vượng phu ích tử”.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
17
Khóa luận tốt nghiệp
- “Ngôn” chỉ lời ăn tiếng nói, chỉ sự lựa chọn tế nhị, kín đáo, nữ tính. Lời ăn
tiếng nói của người phụ nữ phải khoan thai, dịu dàng, mềm mỏng.
- “Hạnh” chỉ tính nết hiền thảo, trong nhà nết na, kính trên nhường dưới,
chiều chồng thương con, ăn ở tốt với anh em, họ hàng nhà chồng; ra ngoài thì nhu
mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt. Đó là đức hạnh, là lòng nhân ái, là sự
tuân theo lễ nghĩa và hiếu đễ với cha mẹ, anh em.
Trong bốn đức trên, Khổng Tử nhấn mạnh đức “Hạnh” bởi theo ông, người
phụ nữ đạt đến đức “Hạnh” điều căn bản là phải có tấm lòng “Hiếu” nhưng phải
dựa trên cơ sở “Ái” và “Kính”. Con đối với cha phải lấy chữ “Hiếu” làm đầu. Người
có hiếu trước hết phải nuôi cha mẹ, nuôi cha mẹ cốt ở sự thành kính, không kính là
bất hiếu. Luận Ngữ chép, khi Tử Du hỏi về đạo hiếu, Khổng Tử đáp: “Ngày nay
người ta cho nuôi cha mẹ là hiếu, nhưng đến chó ngựa kia, người ta cũng nuôi, nếu
nuôi mà không kính hiếu cha mẹ thì có khác chi?”. Dẫu phải uống nước lã, ăn gạo
xấu mà làm cho cha mẹ vui, trong cảnh biến không thay đổi cái đạo với cha mẹ, đó
là hiếu. Bởi vậy, không nên đi đâu xa, mà có đi xa thì phải nói cho cha mẹ biết chỗ
đi để cha mẹ khỏi lo và nhỡ có việc gì có thể tìm gọi được (phụ mẫu tại, bất viễn du,
du tất hữu phương). Sự “Hiếu” có hai điều rất nên chú ý, là “vô vi” và “vô cãi”. “Vô
vi” là xử cảnh thường, thì thờ cha mẹ không trái Lễ, “Vô cãi” là xử cảnh biến, thì
không phải đổi ngay cái đạo của cha mẹ. [8, tr.132]
Song, bên cạnh đó, ông lại có quan niệm rất tiến bộ khi cho rằng con cái lấy lễ
nghĩa mà thờ cha mẹ nhưng không phải cha mẹ làm điều gì trái đạo cũng theo,
không phải chỉ phục tùng cha mẹ một cách thụ động mà phải biết phân biệt phải
trái, đúng sai, cư xử đúng mực: “Thờ cha mẹ, nên nhỏ nhẹ khuyên can; nếu thấy cha
mẹ không theo ý mình thì vẫn cung kính mà không xúc phạm cha mẹ; tuy khó nhọc,
lo buồn nhưng không được oán hận”[9, tr.140]. Đạo “Tòng cha” là phải biết rõ điều
phải trái, cái đáng làm và cái không đáng làm, nếu không thì dẫu đức hạnh có tốt
đến thế nào thì cũng thành ra dở.
Tuân Tử cũng đã cho rằng người con hiếu sở dĩ có ba điều không theo mệnh
cha: Một là, theo mệnh thì cha mẹ nguy, không theo mệnh thì cha mẹ yên, người
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
18
Khóa luận tốt nghiệp
hiếu tử không theo mệnh là hợp với đạo trung. Hai là, theo mệnh thì cha mẹ nhục,
không theo mệnh thì cha mẹ vinh, người hiếu tử không theo mệnh là hợp với điều
nghĩa. Ba là, theo mệnh là cầm thú, không theo mệnh làm cho cha mẹ được vẻ
vang, người hiếu tử không theo mệnh là kính cha mẹ. Cho nên, điều đáng theo mà
không theo là không phải đạo làm con, chưa nên theo mà đã theo là không hợp đạo
trung. Biết rõ cái đáng theo và không đáng theo mà lại hết sức cung kính, trung tín,
đoan xác, rồi cứ cẩn thận mà làm, thế gọi là đạo hiếu.
Đến thời nhà Hán, tư tưởng chính trị và triết học của Đổng Trọng Thư cũng có
đề cập đến phạm trù “Tam tòng”, “Tứ đức” nhưng đã tước đi những yếu tố nhân văn
của Khổng Tử mà thay vào đó là một quy tắc đạo đức phi nghĩa lý: Vua bảo bề tôi
chết, bề tôi phải chết, nếu không mắc tội bất trung. Cha bảo con chết, con phải chết,
nếu không mắc tội bất hiếu. Chồng nói, vợ tuyệt đối phải nghe theo, người phụ nữ
trong gia đình không có quyền tham gia hay phản kháng. Như vậy, đạo lý làm
người đã trở nên khắt khe hơn bao giờ hết.
1.3.3. Mối quan hệ giữa “Tam tòng”, “Tứ đức”
“Tam tòng” và “Tứ đức” là hai chuẩn mực đạo đức cơ bản để xây dựng mẫu
người phụ nữ phong kiến của Nho giáo. Chúng có mối quan hệ chặt chẽ, không thể
tách rời. Đó là những quy tắc, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ và đều
được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng như một công cụ để giáo hóa người phụ
nữ.
Tuy nhiên, giữa “Tam tòng” và “Tứ đức” cũng vẫn có những sự khác biệt
nhất định. “Tam tòng” đề cập tới sự phục tùng một chiều người phụ nữ đối với
người đàn ông, đó là cha, là chồng, là con trai. “Tứ đức” chỉ sự tự tu dưỡng của
chính bản thân phụ nữ. “Tứ đức” là nội dung, là điều kiện để thực hiện tốt đạo tòng
cha, tòng chồng, tòng con. Người phụ nữ phải tu dưỡng Công – Dung – Ngôn –
Hạnh để đạt được “Tam tòng”. Còn “Tam tòng” là hình thức, là sự thể hiện của “Tứ
đức”, chứng minh cho phẩm hạnh của người phụ nữ.
Giữa các yếu tố trong phạm trù “Tứ đức” cũng có mối quan hệ về nội dung và
hình thức với nhau. “Hạnh” là nội dung, “Công – Dung – Ngôn” là hình thức,
chúng đan xen, gắn kết và bổ sung cho nhau.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
19
Khóa luận tốt nghiệp
Như vậy, theo quan niệm của Nho giáo, người phụ nữ phải có vẻ đẹp toàn diện
theo một khuôn mẫu nhất định, phải toàn tâm, toàn ý và hy sinh hết mình đối với
nam giới. Khi hiểu về mối quan hệ giữa các phạm trù, chúng ta tránh hiểu chúng
một cách rời rạc hay tuyệt đối hóa một phạm trù nào mà phải có một thái độ khách
quan, biện chứng khi xem xét sự ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam.
1.4. Thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam
1.4.1. Khái quát về quá trình du nhập của Nho học vào Việt Nam
Việt Nam là một nước từ lâu đời chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa.
Nho giáo từ trên một ngàn năm được giai cấp thống trị ở Việt Nam sử dụng như tư
tưởng chủ đạo trong kiến trúc thượng tầng của xã hội. Trong suốt thời kỳ phong
kiến ở Việt Nam, toàn thể giới tri thức, dù khác nhau về quan điểm chính trị và văn
hóa nhưng đều tự coi mình là những “đệ tử” của Nho giáo, lấy tiêu chuẩn đạo đức
của Nho giáo làm phương châm cho suy nghĩa và hành động.
Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền với sự xâm lược của các
thế lực phong kiến phương Bắc (vào thế kỷ thứ II SCN, tức vào thời Tây Hán) bằng
việc thực hiện chính sách đồng hóa và được chính quyền đô hộ nâng đỡ. Do đó, lúc
đầu Nho giáo không được thiện cảm và bắt rễ chậm chạp hơn so với Phật giáo. Trải
qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, Nho giáo vẫn chưa xác lập được vị trí độc tôn
trong đời sống.
Chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt hơn một ngàn năm
Bắc thuộc, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của Việt Nam. Vào thời điểm này,
Phật giáo có vị trí đặc biệt quan trọng. Các triều đại đầu tiên của nền độc lập như
Ngô, Đinh, Lê không theo đạo Nho mà theo đạo Phật. Đến thế kỷ XI, với sự xác lập
của vương triều Lý, nhà nước phong kiến tập quyền được xây dựng một cách quy
mô bề thế với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Từ khi ra đời, do nhu cầu
quản lý nhà nước, nhà Lý đã bắt đầu quan tâm đến Nho giáo. Sự đóng góp của các
nhà sư vào sự ổn định đất nước ở thời điểm này là chủ yếu, nhưng xu hướng Nho
giáo cũng đang dần thay thế Phật giáo. Việc Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu thờ
Chu Công, Khổng Tử (1070) như là mốc ghi nhận sự tiếp nhận chính thức Nho giáo
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
20
Khóa luận tốt nghiệp
trên bình diện cả nước. Đến thời nhà Lê, đạo trị nước yên dân của Nho giáo có tính
xuyên suốt, chi phối mọi hoạt động chính trị xã hội và người đời đặc biệt quan tâm
đến các khái niệm “trung, hiếu”, “lễ, nghĩa”... Thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497)
đạo Nho đạt đến điểm cực thịnh.
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX,
suốt hai triều đại Lê, Nguyễn. Trong thời kì này, xã hội Việt Nam có nhiều diễn biến
phức tạp, có nhiều biến động về chính trị tư tưởng. Nhà Nguyễn lật đổ chính quyền
Tây Sơn giành quyền thống trị, lập ra triều Nguyễn. Để duy trì bộ máy thống trị
phong kiến, nhà Nguyễn đã sử dụng Nho giáo như một công cụ đắc lực và chủ
trương độc tôn Nho giáo nhưng lại gặp trở ngại. Nho học thời kỳ này là phương tiện
thể hiện lòng yêu nước, hướng nội của các nhà Nho. Nho học đã đi hết một chặng
đường dài lịch sử nước ta, đã được Việt Nam hóa và gây ảnh hưởng sâu đậm đến tư
tưởng dân tộc Việt Nam. Cho đến đầu thế kỷ XX, năm 1919 khoa cử Nho học bị bãi
bỏ, nhưng nền giáo dục Nho học ở làng quê xứ Bắc và Trung vẫn còn kéo dài đến
đầu thập kỷ 40.
Về cơ bản, Nho giáo Việt Nam là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng
không còn giữ nguyên trạng thái của nó nữa mà có những biến đổi nhất định. Quá
trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí của Nho giáo trong đời sống xã hội Việt Nam
cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo nên tính đa dạng nhưng thống
nhất và độc đáo của nền văn hóa Việt Nam.
1.4.2. Nội dung của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam
Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định chính
quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm đô hộ. Để xây dựng
nhà nước tập quyền và giữ vững vị trí thống trị của mình, giai cấp phong kiến Việt
Nam đã tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước phong
kiến tập quyền phương Bắc, lấy Nho giáo là cơ sở lý luận, là hệ tư tưởng thống trị
xã hội, lấy thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” làm chuẩn mực để người phụ nữ noi theo.
Nho giáo khi du nhập vào Việt Nam đã tinh giản Nho giáo Trung Quốc thành
một loại hình ý thức mang màu sắc đặc thù riêng của dân tộc. Nho Việt chủ yếu đi
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
21
Khóa luận tốt nghiệp
vào những vấn đề cấp bách, thiết thực do đời sống xã hội đặt ra và chỉ sử dụng một
phần có giá trị thực dụng để bảo vệ tổ quốc khỏi ách ngoại xâm hoặc gắn kết với
quyền lực của kẻ thống trị. Các sĩ phu Việt Nam thường tiếp nhận những luân lí đạo
đức cơ bản của Nho giáo để áp dụng vào công cuộc xây dựng gia đình và cộng
đồng. Khuynh hướng này đã loại bỏ những phần rối rắm, phức tạp chính vì thế nó
cũng lược bỏ những chỗ thâm sâu, làm mất tính hệ thống, tính lôgic, thiếu cơ sở lý
luận, thiếu sự chặt chẽ.
Việt Nam là một nước có truyền thống tôn trọng phụ nữ. Trong suốt thời kì
mẫu hệ, trải qua thời kì phong kiến và mãi về sau này, xã hội Việt Nam đã thừa
hưởng và bảo lưu truyền thống tốt đẹp ấy. Mỗi người dân Việt Nam luôn ghi nhớ về
công ơn sinh thành của mẹ Âu Cơ với bọc trăm trứng. Bộ luật Hồng Đức của nhà
Lê năm 1843 có quy định người con gái được thừa hưởng quyền chia tài sản sở hữu
của gia đình bình đẳng như con trai; khi lấy chồng phần tài sản này là của riêng
không bị nhập vào tài sản nhà chồng... Như vậy, truyền thống tôn trọng phụ nữ của
dân tộc Việt Nam không chỉ là đạo lý mà còn được nhà nước phong kiến hợp pháp
hóa. Điều này khiến cho nội dung của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” không còn quá
khắt khe hay ép buộc mà khiến cho người phụ nữ tự nguyện hành động theo “Tam
tòng”, “Tứ đức”.
Tuy nhiên, trong thời kì phong kiến, đồng hành với truyền thống tốt đẹp trên
là những quan niệm cổ hủ, lạc hậu gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự tồn tại của thuyết
“Tam tòng”, “Tứ đức” trong xã hội Việt Nam.
Tất cả những điều trên là điều kiện khiến cho thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức”
mang những nội dung mới và ngày càng ăn sâu bén rễ vào đời sống, tư tưởng người
Việt Nam.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
22
Khóa luận tốt nghiệp
Chƣơng 2
SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA THUYẾT “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
ĐỐI VỚI NGƢỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM NGÀY NAY
2.1. Thực trạng ảnh hƣởng của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với
ngƣời phụ nữ Việt Nam ngày nay
Nho giáo đã trải qua những bước thăng trầm trong lịch sử tư tưởng Việt Nam
và thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” không nằm ngoài bước thăng trầm đó. Nó có lúc
chi phối vận mệnh người phụ nữ Việt Nam, có lúc lại mờ nhạt, có mặt tích cực lại
có những điều hạn chế. Nó đi vào đời sống tư tưởng của nhân dân Việt Nam, ăn sâu
bén rễ từ rất lâu và có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Việt Nam. Qua mỗi thời đại
khác nhau, Nho giáo nói chung và thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói riêng lại có
những biến đổi khác nhau về nội dung và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng, hành
động của người phụ nữ.
Khác với Nho giáo Trung Hoa, thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam
mang một sắc thái đặc trưng riêng. Dưới góc độ gia đình, trong quan hệ giữa cha mẹ
với con cái thì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Con cái trong gia đình phải luôn
nghe theo sự dạy bảo, sai khiến của cha mẹ.
Trong quan hệ vợ chồng, người chồng có quyền quyết định mọi công việc.
Người con gái đã có chồng thời một mực chính chuyên, rủi khi chồng chết trước
cũng phải thủ tiết cho vẹn tình vẹn nghĩa:
“Thủa tại gia phải tòng phụ giáo,
Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên”
(“Gia Huấn Ca” – Nguyễn Trãi)
Trong quan hệ giữa con cái với nhau, người con trai luôn có quyền lợi nhiều
hơn con gái. Điều này được thể hiện rõ nét trong tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
của tổ tiên ta xưa kia. Tất cả những điều này đều phục vụ đắc lực cho mục đích của
giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến nhằm đảm bảo tôn ti trật tự thuận theo
một chiều từ trên xuống dưới, từ trong gia đình ra ngoài xã hội.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
23
Khóa luận tốt nghiệp
2.1.1. Sự ảnh hưởng của “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam
Lịch sử gia đình Việt Nam khoảng 40 - 50 năm trở về trước, quan hệ vợ chồng được thiết lập trên một cái nền quan niệm về đức hạnh của người phụ nữ.
Người phụ nữ phải là người giữ vẹn đạo “Tam tòng”: khi còn ở với cha mẹ thì phải
phục tùng cha, khi đi lấy chồng phải phục tùng chồng và nếu chồng chết thì phải
theo ý kiến của con trai. Họ bị xếp ở nhóm xã hội làm “tôi”, làm “con”, làm “vợ”, là
nhóm phải chịu sự giáo dục, sự thống trị tuyệt đối của nam giới. Nho giáo còn coi
phụ nữ ngang hàng với tiểu nhân, bị khinh miệt, không đáng đếm xỉa. Quan niệm
này cho đến ngày nay vẫn còn được “vận dụng”. Trong khi không chỉ ở các vùng
thôn quê mà ngay cả ở những nơi đô thị đang hàng ngày hàng giờ tiếp thu văn hóa,
văn minh hiện đại thì đâu đó vẫn còn rất nhiều người phụ nữ cả đời không dám trái
ý chồng cho dù bị áp đặt trong mọi mặt cuộc sống.
Nhìn chung, người phụ nữ trong Nho giáo được đánh giá là một lực lượng cơ
bản để xây dựng xã hội nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới và chỉ tồn tại
với tư cách là một yếu tố “cần”, “đủ” cho trật tự gia đình và xã hội. Họ là nạn nhân
đau khổ nhất của trật tự ấy.
Với quan niệm “Tại gia tòng phụ”, người con gái khi chưa đi lấy chồng thì
phải nghe theo cha mẹ. Nếu như Nho giáo nguyên thủy của Trung Hoa chỉ đề cập
đến mối quan hệ giữa cha và con thì ở Việt Nam lại được đề cập dưới góc độ cha
mẹ và con cái. Từ mối quan hệ “chồng chúa vợ tôi” dẫn đến việc “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy”, không chỉ ở chuyện hôn nhân mà ngay cả việc lựa chọn tương lai
của con cái cũng đều phải theo sự sắp đặt của cha mẹ. Cha mẹ dù đúng hay sai, khi
sai bảo, người con gái cũng phải nghe vậy không được cãi lại, thấy cha mẹ sai cũng
không được góp ý mà phải tuyệt đối thuận theo. Người con gái cãi lời cha mẹ bị
xem là bất hiếu. Chuyện hôn nhân là do cha mẹ, người con hoàn toàn không có
quyền tự do tìm hiểu, tự do đi tìm hạnh phúc của mình. Có thể thấy, quan niệm “Tại
gia tòng phụ” là cơ sở đảm bảo cho quyền lực tối cao của người cha, mà thực chất
là đảm bảo quyền lực tập trung trong tay vua chúa, thần dân là phải tòng vua: vua
bảo thần chết thần không thể không chết, từ đó hình thành thói gia trưởng của người
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
24
Khóa luận tốt nghiệp
đàn ông trong gia đình, còn người phụ nữ thì phải cam chịu, nhẫn nhịn cho tròn bổn
phận của mình. Tóm lại, người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vừa phải chịu sự áp
bức của giặc ngoại xâm, vừa phải chịu cả sự áp bức về giai cấp, về giới. Họ là nô lệ,
là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, của lễ giáo phong kiến.
Với quan niệm “Xuất giá tòng phu”, xã hội phong kiến quy định người phụ nữ
khi đi lấy chồng là phải theo chồng, phục tùng chồng một cách vô điều kiện. Theo
đó, người chồng dù tốt đẹp hay xấu xa, dù hay dù dở thì người vợ vẫn phải nghe
theo. Cuộc sống phụ thuộc vào người khác đã biến người phụ nữ thành kẻ cam chịu,
buông xuôi với số phận. Họ không có quyền và cũng không dám tự quyết định hôn
nhân, hạnh phúc của mình mà phó thác cuộc đời cho sự may rủi, cho số phận. Bởi
thế, ca dao Việt Nam đã có câu:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Đạo “Tam tòng” thực sự là sợi dây oan nghiệt trói chặt cuộc đời người phụ nữ.
Trước thực trạng đó, nhiều người phụ nữ đã ý thức được tài năng, phẩm giá của
mình đồng thời nhận ra thế lực kìm hãm cuộc đời mình. Theo như nữ thi sĩ Hồ
Xuân Hương thì thân phận người phụ nữ “tròn” hay “méo”, “lành” hay “vỡ” là do
tay “người nhào nặn”, là do số phận an bài. Người phụ nữ trong gia đình dường như
là một thứ công cụ để sai bảo. Họ không có tiếng nói trong gia đình mà chỉ biết
nghe theo, phải hi sinh bản thân cho người khác vì họ không có địa vị, không có
chút quyền lợi nào trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực tế trên cho thấy,
thuyết “Tam tòng” đã thực sự trói chặt người phụ nữ vào những lễ nghi phong kiến.
“Phu tử tòng tử” theo quan niệm của đạo Nho nghĩa là khi chồng chết, người
phụ nữ phải ở vậy “tòng” con, theo con. Nuôi dạy con nên người, đó là ước nguyện
của những bậc làm cha làm mẹ. Tình mẫu tử là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý
nhưng Nho giáo đã biến điều thiêng liêng ấy trở thành công cụ trói buộc người phụ
nữ để giữ gìn trật tự xã hội, củng cố địa vị và quyền lợi của giai cấp thống trị. Có
thể nói, phụ nữ luôn là nạn nhân đau khổ của những trật tự tôn ti mà giai cấp phong
kiến đặt ra.
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
25
Khóa luận tốt nghiệp
Trong quá trình chuyển từ hình thái công xã nguyên thủy sang hình thái chế độ
chiếm hữu nô lệ đã diễn ra cuộc chuyển biến lớn từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ
hệ. Người phụ nữ bị tước đoạt hết thảy quyền con người. Cả cuộc đời họ chỉ có ba
chữ “tòng” nghĩa là theo: ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con
trai. Về chức phận của người phụ nữ, Nho giáo cho rằng phục vụ vô điều kiện cho
nam giới là thiên chức, là nhiệm vụ của họ. Những quan niệm và nguyên tắc này đã
cột chặt cuộc đời người phụ nữ vào cái xiềng của gia đình ngay cả sau khi chồng
của họ đã chết. Bởi thế, người phụ nữ luôn phải cam chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với
số phận của mình. Họ không có quyền lực cũng như không có tiếng nói trong cả gia
đình và ngoài xã hội. Nếu có thể có cương vị bề trên một cách có hiệu lực cụ thể thì
chủ yếu là do người đàn ông “ban” cho họ cái thứ bậc trong cùng giới nữ với nhau
như vợ cả với vợ hai... Đó là số phận con người mà như Khổng Tử nói thì con
người có “mệnh”, và không thể cưỡng lại “mệnh”. Xét cho cùng, đạo đức, lễ nghĩa
và trật tự xã hội Nho giáo gần như không thực sự dành quyền con người cho người
phụ nữ. Quan niệm “Phụ nhân nan hóa” chính là hậu quả và cũng là nguyên nhân
của những thành kiến xã hội quá nặng nề nhưng có mấy ai hiểu được sự hy sinh,
những đắng cay và nỗi lòng của người phụ nữ.
Sau thành công của Cách mạng tháng Tám, chế độ phong kiến sụp đổ, chúng
ta bắt tay vào xây dựng chế độ mới. Do đó, xã hội không còn cơ sở để phục hồi
những khuôn phép của chế độ cũ mà trong đó Nho học làm nền tảng tư tưởng. Tuy
nhiên, sự ảnh hưởng Nho giáo nói chung và của thuyết “Tam tòng”, “Tứ đức” nói
riêng vẫn còn tồn tại và có thể phát huy tác dụng trong việc giáo hóa người phụ nữ
thời kì mới.
Sau đổi mới, người phụ nữ thực sự có quyền bình đẳng, thực sự được giải
phóng do đó thuyết “Tam tòng” đã mang nội dung mới với phạm vi rộng hơn, cao
cả hơn. Quyền bình đẳng ấy không chỉ được ghi trong hiến pháp, pháp luật mà nó
còn đi vào cuộc sống, cách suy nghĩ và nhận thức của mỗi người. Người phụ nữ
trong thời đại mới đã khẳng định được bản thân mình trong nhiều lĩnh vực cuộc
sống gia đình và xã hội, tạo điều kiện để họ thực hiện, phát huy tài năng, khát vọng,
Phạm Thị Thu Phương
K34 GDCD - GDQP