TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
==***==
LÊ THỊ ĐẠT
SỰ VẬN DỤNG QUAN NIỆM VỀ BẢN CHẤT CON
NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC MAC – LÊNIN VÀO
VIỆC BỒI DƢỠNG ĐẠO ĐỨC CHO CON NGƢỜI
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
HÀ NỘI - 2012
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Nguyễn Thị Thùy
Linh - Người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận tốt
nghiệp này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn lời cảm ơn tới các thầy cô trong trường
Đại học sư phạm Hà Nội2, đặc biệt là các thầy cô trong khoa giáo dục chính
trị đã giúp đỡ em trong thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè đã tạo
điều kiện giúp em hoàn thành khóa luận này.
Trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp sẽ không tránh khỏi những
thiếu xót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các
bạn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Lê Thị Đạt
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng, bài khóa luận này là kết quả nghiên cứu của
riêng em dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Thùy Linh và
những tài liệu sử dụng để thực hiện đề tài nay được trích dẫn cụ thể, có xuất
xứ rõ ràng.
Nếu sai, em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2012
Sinh viên
Lê Thị Đạt
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về con người ...................................... 6
1.1 Quan niệm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người ..................... 6
1.2 Nội dung về đạo đức con người Việt Nam hiện nay ................................. 20
Chương 2 : Thực trạng của đạo đức con người Việt Nam hiện nay ................. 27
2.1 Mặt tiến bộ của đạo đức con người Việt Nam ........................................... 27
2.2 Mặt hạn chế của đạo đức con người Việt Nam.......................................... 35
2.3 Nguyên nhân của những mặt tiến bộ và hạn chế của đạo đức con người
Việt Nam hiện nay ........................................................................................... 43
Chương 3: Một số giải pháp nhằm bồi dưỡng đạo đức con người Việt Nam
hiện nay theo quan niệm về bản chất con người trong triết học Mác - Lênin .. 47
3.1 Một số giải pháp nhằm bồi dưỡng đạo đức trong gia đình ....................... 47
3.2 Một số giải pháp nhằm nâng cao đaọ đức trong nhà trường ..................... 52
3.3 Một số giải pháp nhằm bồi dưỡng đạo đức cho cán bộ, Đảng viên và
công chức ........................................................................................................ 56
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 64
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người với tất cả thể chất và tinh thần của mình là nguồn vốn của mọi
nguồn vốn, là nguồn lực quan trọng nhất của mọi nguồn lực và là giá trị cao nhất
của mọi giá trị. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng
sâu rộng hơn, do đó những vấn đề về con người đặt ra ngày càng đa dạng và phức
tạp hơn. Với ý nghĩa như vậy vấn đề con người đã trở thành một trong những lĩnh
vực thu hút sự quan tâm của nhiều khoa học trong đó có khoa học xã hội. Khoa
học xã hội nghiên cứu con người như một yếu tố của hệ thống vì con người vừa là
thực thể sinh vật vừa là thực thể xã hội, là lực lượng chính của xã hội, vừa là chủ
thể vừa là sản phẩm của lịch sử, là lực lượng sáng tạo ra lịch sử.
Từ xưa đến nay, những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn
trong lịch sử triết học nhân loại với những câu hỏi như: Con người là gì? Bản tính,
bản chất con người? Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể
làm gì để giải phóng mình, đạt tới tự do...và trả lời cho những câu hỏi trên đã góp
phần giải quyết nội dung của nhân sinh quan triết học.
Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội nên vấn đề này hay
vấn đề kia. Đồng thời, tùy theo góc độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết
học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lý giải về con
người. Mặt khác, trong khi giải quyết những vấn đề trên, mỗi nhà triết học, mỗi
trường phái triết học khác nhau lại có thể đứng trên lập trường thế giới quan,
phương pháp luận khác nhau: duy vật hoặc duy tâm, biện chứng hoặc siêu hình...
Trong những quan điểm triết học đó có thể nói rằng triết học Mác - Lênin
bàn tới vấn đề con người và giải quyết nó một cách khoa học và triệt để nhất. Việc
học tập nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin có ý nghĩa hết sức quan
trọng, góp phần định hướng thế giới quan cho việc tìm hiểu bản chất của con người
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - thời đại khoa học công nghệ, thời đại của sự
hợp tác mang tính toàn cầu, trong đó có con người. Con người trở thành nguồn lực
quan trọng có tính quyết định tới sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Tuy nhiên một bộ phận không nhỏ, con người Việt Nam đang có những biểu
hiện suy thoái về mặt đạo đức, làm mờ đi giá trị chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của
con người Việt Nam, làm ảnh hưởng tới công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc những quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về vấn đề con người và vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm
đó vào việc bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam nhằm phát huy nhân tố
con người trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta luôn
là vấn đề cấp bách. Giải quyết vấn đề này vừa mang tính lý luận đồng thời cũng
mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Vì vậy tác giả đã lựa chọn đề tài “sự vận dụng quan niệm về bản chất con
người trong triết học Mác - Lênin vào việc bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam đã và đang trở thành
vấn đề được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu, trong đó có các công trình nghiên
cứu tiêu biểu sau:
Cuốn sách: “Đạo đức trong nền công vụ”, NXB Lao động - Xã hội, do Tô
Tử Hạ chủ biên, trên cơ sở các bài viết và tham luận và các đại biểu từ các nước
ASEAN tham dự Hội thảo quốc tế: “Đạo đức trong nền công vụ” tại Hà Nội vào
ngày 30 và ngày 31 tháng 5 năm 2011. Cuốn sách gồm hai phần: Phần thứ nhất,
các tác giả nêu vị trí, vai trò, ý nghĩa vấn đề đạo đức công chức trong nền công vụ;
Phần thứ hai, nói về sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ của các nước, xuất phát
từ thực tế của đất nước mình, các tác giả nêu sáng kiến về giải pháp tổ chức ở tầm
vĩ mô cấp Nhà nước như xây dựng luật đạo đức, các biện pháp triển khai đảm bảo
thực hiện luật.
Cuốn “Người Việt phẩm chất và thói hư tật xấu”, NXB Thanh niên - Báo
Tiền Phong, do Hương Thủy tuyển soạn. Cuốn sách gồm tám phần tương đương
với tám nội dung cơ bản: Phần 1: Thói hư tật xấu trong tính cách; Phần 2: Người
Việt qua cách nhìn của người nước ngoài; Phần 3: Tật xấu của người Việt; Phần 4:
Tật xấu nơi công sở; Phần 5: Tệ nạn; Phần 6: Những thói hư - tật xấu trong giáo
dục; Phần 7: Những thói hư tật xấu trong giao thông; Phần 8: Những thói hư tật
xấu trong buôn bán.
Bên cạnh đó, còn nhiều công trình nghiên cứu của nhiều cơ quan, cá nhân
như:
Đề tài khoa học cấp bộ: “Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”, TS. Nguyễn
Ngọc Hiến - Học viện hành chính Quốc gia, làm chủ nhiệm. Đề tài đã hệ thống hóa
những vấn đề cơ bản của đạo đức cán bộ công chức từ những chỉ dẫn của C.Mác Ph.Ăng ghen đến V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, bước đầu cũng
đưa ra một số giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ công chức trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế.
Đề tài: “Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với sự thay đổi các
giá trị truyền thống của người Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Học (Đại học
khoa học xã hội và nhân văn).
Nhìn chung các công trình trên, ở các khía cạnh khác nhau đã bàn tới vấn đề
đạo đức con người Việt Nam. Tuy nhiên đều chưa có bài viết nào bàn tới vấn đề
vận dụng lý luận về bản chất con người trong triết học Mác - Lênin tới việc bồi
dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó tác giả
lựa chon đề tài này nhằm tìm hiểu, bổ sung thêm những nội dung mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Tìm hiểu quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin vấn đề con người, bản chất
con người và việc vận dụng sáng tạo quan niệm đó trong việc bồi dưỡng đạo đức
cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Tìm hiểu, nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về con người.
- Nghiên cứu thực trạng của đạo đức con người Việt Nam hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm bồi dưỡng đạo đức con người Việt Nam hiện
nay theo quan niệm triết học Mác - Lênin.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu
- Bản chất của con người trong triết học Mác.
- Đạo đức con người Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức con người Việt Nam từ sau thời kỳ đổi mới (1986) đến nay.
Khách thể nghiên cứu:
- Biểu hiện đạo đức gia đình.
- Biểu hiện đạo đức trong nhà trường.
- Biểu hiện đạo đức của cán bộ, đảng viên, công chức nước ta.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Cơ sở nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước
về bản chất con người và bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp nghiên cứu
khác như: phương pháp so sánh, phương pháp thống kê xã hội... trong quá trình
nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài
Đóng góp về lý luận:
Đề tài góp phần làm sáng tỏ và khẳng định sự đúng đắn, khoa học của quan
niệm về bản chất con người trong triết học Mác - Lênin.
Đề tài góp phần vào việc giải quyết những vấn đề bức thiết của nghiên cứu
đạo đức con người Việt Nam hiện nay, vấn đề vận dụng quan niệm về bản chất con
người trong triết học Mác - Lênin vào việc bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đóng góp về thực tiễn:
Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, học tập,
giảng dạy về đạo đức học, về nhân cách, về giá trị đạo đức truyền thống.
Đề tài có ý nghĩa góp phần đẩy mạnh công tác xây dựng đạo đức mới trong
điều kiện hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương, 8 tiết.
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƢỜI
1.1. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con ngƣời
1.1.1 Một số quan niệm phi Mác xít về con ngƣời
Từ xưa tới nay vấn đề con người vẫn luôn được xem như một đề tài đã thu
hút nhiều học giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Điều đó được chứng
minh qua quan điểm của các nhà triết học từ thời kỳ cổ đại đến thời kỳ hiện đại bàn
tới con người như sau:
Quan điểm về con người trong triết học phương Đông thời kỳ cổ trung
đại. Trong đó Nho giáo bàn nhiều nhất tới bản chất con người.
Khổng Tử là người sáng lập ra học thuyết Nho gia. Ông cho rằng: Con
người cũng là một loài trong khối thống nhất bao gồm cả trời đất, muôn vật, muôn
loài và là một bộ phận nhỏ của tự nhiên.
Tư tưởng nổi bật trong học thuyết về con người của Khổng Tử là “thiên
mệnh”. Ông chỉ ra rằng: Trời là thần thánh quyết định sự thành bại của con người
“mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” tức là mưu việc thì ở con người, thành công
hay không là ở trời. Hay ông còn nói: “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên, bất
hạnh đoản mệnh” tức là chết sống có số, giàu sang do trời, không may mệnh ngắn
ngủi. Ý của ông là sự sống chết của con người là do trời quy định. Từ đó ông đi
đến kết luận: “Nếu mắc tội với trời thì không cầu vào đâu được”. Chính vì tin có
thiên mệnh nên ông coi việc hiểu biết mệnh trời là điều kiện để trở thành người
hoàn thiện, việc học để tuân theo thiên mệnh là hành vi của người quân tử.
Mặc dù vậy, mặt tích cực trong quan niệm của Khổng Tử về con người là:
Tuy tin vào thiên mệnh nhưng không phải con người cứ nhắm mắt tuân theo sự
quyết định của mệnh trời mà con người cần phải có sự nỗ lực học tập, rèn luyện và
làm việc tận tâm, tận lực còn việc thành công hay thất bại như thế nào thì lúc đó
mới do ý trời quyết định.
Sau khi Khổng Tử chết, học trò của ông kế tục tư tưởng của ông nhưng có
sự phân chia nổi bật nhất là hai phái: Mạnh Tử và Tuân Tử.
Mạnh Tử đã đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở đạo nhân của
Không Tử, đề ra thuyết “tính thiện”. Ông khẳng định rằng “nhân chi tính thiện
dã” nghĩa là, bản chất của con người là thiện. Ông cũng quan niệm: “thiên mệnh”
quyết định nhân sự, nhưng con người có thể qua việc tồn tâm dưỡng tính mà nhận
thức được thế giới khách quan.
Tuân Tử đã phát triển truyền thống trọng lễ của Nho gia, nhưng trái với
Mạnh Tử. Ông cho rằng: Bản chất của con người là ác (nhân chi tính ác). Trong xã
hội, có ba lý do dẫn tới bất ổn định đó là: Một là, mỗi người chỉ có một số khả
năng nhất định. Do đó, nếu không có phân công xếp đặt rõ ràng thì tất yếu dẫn tới
tranh giành lẫn nhau, làm đảo lộn trật tự xã hội. Hai là, sản phẩm làm ra thì ít, nhu
cầu con người thì nhiều do đó tất yếu dẫn tới sự tranh giành. Ba là, con người chỉ
hơn động vật ở lễ nghĩa, còn bản tính tự nhiên về nhu cầu dục vọng và sinh lý thì
không khác gì động vật. Nếu cứ để hành động chạy theo bản tính tự nhiên thì tất
yếu sẽ dẫn tới tranh giành, cướp bóc, chiến tranh tàn khốc. Từ ba lý do trên, Tuân
Tử đi tới kết luận, tính người là ác, thiện là do con người làm ra. Ông phê phán gay
gắt tư tưởng “tính thiện” của Mạnh Tử. Theo ông, nên cần dùng giáo lý nhân,
nghĩa, lễ để cảm hóa con người, hướng con người tới cái thiện, diệt trừ cái ác.
Ngoài tư tưởng Nho giáo bàn tới vấn đề con người, triết học Trung Quốc
thời kỳ cổ trung đại còn có một trường phái khác bàn tới vấn đề con người rất sâu
sắc đó là Đạo gia.
Lão Tử là người sáng lập ra phái Đạo gia. Lão Tử giải thích nguồn gốc nỗi
khổ của con người là do tư tưởng danh lợi chi phối, tại sự gắn bó của con người
với cơ chế xã hội. Để giải thoát khỏi nỗi khổ, con người phải tránh xa tất cả cái đó,
khuyên con người phải về ở ẩn, hòa mình vào môi trường tự nhiên có vậy con
người mới được tự do tùy thích.
Đó là hai hệ tư tưởng tiêu biểu của triết học Trung Quốc bàn về con người.
Khi tìm hiểu nghiên cứu tư tưởng triết học của phương Đông thời kỳ cổ trung đại
sẽ còn thấy được hệ tư tưởng bàn về con người đậm tính triết lý sâu sắc trong triết
học Phật giáo của Ấn Độ.
Phật giáo quan niệm “đời là bể khổ” và căn nguyên của nỗi khổ là do “vô
minh” và “ái dục” mà nên, từ đó Phật giáo đã tìm ra con đường giải thoát nỗi khổ
cho con người là cõi “niết bàn”. Đây là con đường giúp con người thoát khỏi sự
ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc đời.
Để đạt tới giải thoát con người phải dày công tu luyện hành động đạo đức
theo giới luật, tu luyện trí tuệ thông qua “bát chính đạo”.
Nhìn chung, quan điểm về con người trong các học thuyết học phương Đông
thể hiện rất phong phú, nhưng đều mang nặng tính duy tâm. Bên cạnh đó, quan
điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua thời cổ đại, thời
trung cổ, thời phục hưng và cận đại, thời hiện đại với hai khuynh hướng duy vật và
duy tâm, cụ thể:
Thời cổ đại
Tiêu biểu cho quan điểm về con người ở phương Tây cổ đại là những tư
tưởng của các nhà triết học người Hy Lạp.
Ở Hy Lạp, các nhà duy vật hầu như là các nhà khoa học tự nhiên và khi bàn
tới con người, hầu như họ đã coi con người như một bộ phận cấu thành nên thế
giới. Xuất phát từ quan điểm thế giới do một hay một số chất tạo nên, các nhà duy
vật thời kỳ này cũng quan niệm con người được bắt nguồn từ một hay một số dạng
vật chất cụ thể cảm tính.Ví dụ: Theo Talét, chất đó là nước; Anaximen: không khí;
Hêraclít : lửa; Xênôphan; đất và nước; vv...
Tiêu biểu cho quan điểm duy vật thời kỳ này là quan điểm của Emprêđôclơ,
Lơxíp,và Đêmôcrít.
Emprêđôclơ cho rằng nguồn gốc của thế giới là lửa, không khí, đất và nước.
Những yếu tố này hòa hợp với nhau, trải qua bốn thời kỳ tiến hóa đã sinh ra sự
sống. Mọi sự sống đều có lý tính nhưng con người có lý tính cao nhất, thông minh
nhất và đặc biệt con người có đôi tay để thực hiện lý tính của mình.
Lơxip và Đêmôcrít quan niệm bản nguyên của thế giới là nguyên tử nên các
ông cũng khẳng định con người là sản phẩm của sự kết hợp các nguyên tử. Con
người có linh hồn, song linh hồn cũng do các nguyên tử tạo nên và một số yếu tố
của linh hồn ấy là nhu cầu và tưởng tượng đã dạy bảo bàn tay con người hoạt động
để đưa con người từ mông muội đến văn minh.
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những người theo chủ
nghĩa duy tâm lại truy tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những lực
lượng siêu tự nhiên. Tiêu biểu là Xôcrat và Platôn.
Theo Xôcrat, thế giới do thần tạo ra và thần đã an bài cho thế giới. Con
người không nên tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần. Con người hãy tìm
hiểu về chính bản thân mình.
Platôn cho ý niệm có trước tất cả, là nguồn gốc của tất cả. Ý niệm tồn tại
vĩnh viễn và bất biến. Con người gồm hai phần độc lập với nhau là thể xác và linh
hồn. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa, không khí nên có thể mất đi. Khi
con người chết, linh hồn thoát khỏi thể xác về với thế giới ý niệm của mình để đến
một lúc nào đấy linh hồn lại nhập vào thể xác mới tạo ra một người mới. Nhận
thức của con người là sự hồi tưởng lại những gì mà ý niệm đã có.
Theo Platôn, linh hồn bất tử gồm lý tính, lý trí và tình cảm. Tương ứng với
ba bộ phận này là ba đẳng cấp người: các nhà triết học và các nhà cầm quyền binh sỹ - dân tự do. Nô lệ không phải là người mà chỉ là công cụ biết nói nên
không có linh hồn.
Thời trung cổ
Thời trung cổ là thời hệ tư tưởng Cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị. Tiêu biểu cho
thời kỳ này là quan điểm của Tômát Đa canh.
Tômát Đa canh quan niệm thế giới do Chúa Trời sáng tạo ra từ hư vô và
con người là hình ảnh của Chúa, được Chúa đặt sống ở trung tâm vũ trụ, con
người có thể xác và linh hồn bất tử. Linh hồn này được Chúa tạo ra cùng sự tạo ra
thể xác con người. Chúa sắp xếp thế giới theo trật tự từ các sự vật không có linh
hồn đến con người, thần thánh và cao nhất là Chúa. Đây là trật tự chặt chẽ, bất
biến. Trong trật tự đó, con người được Chúa chia thành những đẳng cấp nhất định
mà bất cứ một biểu hiện nào muốn vượt lên đẳng cấp cao hơn đều mang tội với
Chúa.
Nói chung, thời kỳ này các nhà triết học Tây Âu thường xuất phát từ thế giới
quan thần bí, họ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo ra. Mọi số
phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế sắp đặt.
Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống nhưng đành lòng với cuộc sống tạm bợ
trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu là ở thế giới bên kia.
Thời kỳ phục hưng và cận đại
Từ thời phục hưng trở đi các nhà triết học duy tâm và thần học vẫn bắt
nguồn từ “ý niệm”, “tinh thần tuyệt đối”,“cái tôi”... để xây dựng quan điểm của
mình. Đối lập với những quan điểm duy tâm và thần học, những giá trị văn hóa bị
vùi dập hàng nghìn năm bắt đầu được khôi phục và phát triển trong các học thuyết
triết học duy vật.
Ở Italia, tư tưởng “con người hãy thờ phụng chính bản thân mình, hãy
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chính mình” đã dấy lên thành khẩu hiệu; thuật ngữ
“nhân đạo” ra đời từ thời cổ đại trở thành phạm trù trung tâm của triết học;
khuynh hướng đề cao vai trò của trí tuệ, tự do, bình đẳng thể hiện rõ nét trong quan
điểm của Brunnô, Galilê,Tomát Morơ, Tômađô Campanenla ...
Ở Anh, Bêcơn coi thể xác con người là sản phẩm của tự nhiên, là thực thể
vật chất, còn tinh thần là thứ vật chất chỉ tồn tại trong óc người vận động theo thần
kinh và mạch máu, song chính thứ vật chất ấy đã đem lại cho con người sức mạnh
tiềm tàng là tri thức. Hốp xơ gọi con người là “vật thể tự nhiên” - lực lượng đã làm
ra “vật thể nhân tạo” là xã hội.
Ở Pháp, Rút xô quan niệm bản tính con người là tự do và lịch sử nhân loại
không tuân theo ý muốn của bất kỳ thế lực nào mà là kết quả hoạt động của con
người mang bản tính tự do ấy. Điđrô coi con người là đỉnh cao nhất trong quá trình
tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên; Coi trí tuệ và đạo đức là sản phẩm của hoàn cảnh
xã hội và coi sức mạnh của con người nằm trong tri thức khoa học.
Ở Hà Lan, Xpinôda cho rằng, giới tự nhiên là thực thể duy nhất, tồn tại theo
chính mình, con người là sản phẩm của giới tự nhiên. Triết học có nhiệm vụ chính
là giúp con người có học thức để nhận thức giới tự nhiên và làm theo những lý
tưởng đạo đức cao đẹp...
Nét nổi bật trong triết học phục hưng và cận đại là sự phủ nhận quyền lực
của đấng sáng tạo, đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trò của lý trí, đề cao
các giá trị và đề cao tư tưởng vì con người, đặt nền tảng cho sự phát triển của triết
học trong các giai đoạn sau:
Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX
Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây
và có ảnh hưởng lớn tới triết học hiện đại. Trong đó, lĩnh vực bàn về bản chất con
người được các nhà triết học thời kỳ này đặc biệt quan tâm nghiên cứu, cụ thể:
Cantơ là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức, đã có một bước tiến xa so
với các nhà triết học trước đó về quan niệm con người trong triết học trước đó về
quan niệm con người trong triết học khi ông cho rằng: Các nhà triết học xưa nay
“từ Arixtốt đến Đêcáctơ” thường chỉ biết bàn đến những vấn đề bản thể luận và
nhận thức luận nói chung như: Vũ trụ là gì? Nhận thức của con người có đạt tới
chân lý hay không?... mà quên mất vấn đề quan trọng nhất đó là con người. Như
vậy trong triết học của Cantơ, con người được bàn tới với tư cách là chủ thể hoạt
động gắn liền với thực tiễn chứ không chỉ đơn thuần là dừng lại ở hoạt động nhận
thức, mặc dù Cantơ coi thực tiễn là những hoạt động tinh thần như: đạo đức, chính
trị... Đây là luận điểm quan trọng và là một bước tiến của triết học trong quan điểm
về con người. Đồng thời Cantơ cho rằng con người là chủ thể cũng là kết quả của
quá trình hoạt động của chính mình. Giới tự nhiên cũng chính là kết quả hoạt động
của con người.
Đến hệ thống triết học của Hêghen, các quan điểm duy tâm về bản chất
con người đã tìm thấy sự hoàn thiện, Hêghen cho rằng: Con người là hiện thân của
“ý niệm tuyệt đối”, ý niệm tuyệt đối là một thực thể tinh thần tồn tại đâu đó tha hóa
thành thế giới tự nhiên và con người. Như vậy tức là Hêghen đã hạ thấp con người
xuống địa vị của các cái chỉ giữ vai trò thể hiện, chỉ là sự khách quan hóa ý niệm.
Ngay cả L.Phoiơbắc, nhà triết học duy vật, người kết thúc nền triết học cổ
điển Đức đã phê phán mạnh mẽ quan điểm duy tâm, thần bí của Hêghen, đã cố
gắng tìm cách giải thích nguồn gốc, bản chất con người không theo lối thần bí, khó
hiểu của Hêghen song cũng chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm về vấn đề này. Tuy
nhiên Phoiơbắc khi bàn tới con người ông lại tuyệt đối hóa mặt sinh học của con
người. Đây là tư tưởng xuyêt suốt nội dung triết học của ông.
Ông quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, con người là biểu hiện
của sự phát triển hoàn thiện nhất của giới tự nhiên, “là cái gương của vũ trụ”
thông qua đó giới tự nhiên nhận thức chính bản thân mình. Hơn tất cả các sự vật
hiện tượng khác trong giới tự nhiên, con người là một thực thể sinh vật có cảm
giác, biết tư duy, có ham muốn, có hoài bão, khát vọng, khẳng định sự thống nhất
hữu cơ giữa con người và tự nhiên, ông nói: Có thể tách con người khỏi giới tự
nhiên không? Không. Con người là sản phẩm của giới tự nhiên, của văn hóa và của
lịch sử, là một bộ phận của tự nhiên mà xét theo bản chất là có tình thương yêu.
Ông lấy quan hệ yêu đương nam - nữ làm kiểu mẫu cho bản chất yêu thương. Hơn
nữa, ông còn cho tôn giáo là bản chất con người song tôn giáo đó lại là thứ tôn giáo
tình yêu nam nữ. Ở đây Phoiơbắc đã rơi vào duy tâm không hơn gì Hêghen. Ông
xem ý thức xã hội phản ánh bản chất con người đó là tính cảm giác, là sự sống của
trí tuệ, trái tim, là những trải nghiệm nội tâm của người đang yêu, đang đau khổ và
vươn tới hạnh phúc... Ăngghen đã đánh giá: “con người mà Phoiơbắc đã nói tới
vẫn luôn là con người trừu tượng trong triết học tôn giáo”. Hay nói cách khác, hạn
chế của Phoiơbắc ở đây là ông chưa thấy con người xã hội, không thấy con người
được tạo nên và bị chi phối bởi các quan hệ xã hội. Ông chỉ xét con người về mặt
sinh học với tư cách là một bộ phận của tự nhiên, tách rời các điều kiện kinh tế xã
hội và lịch sử. Bởi vậy, đã bộc lộ tính chất trừu tượng của cái gọi là “con người cụ
thể” của ông [ 10, tr.11].
Thời kỳ hiện đại
Vấn đề con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ nét qua
các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ
nghĩa phê phán, hiện tượng học, chú giải học, chủ nghĩa hiện sinh... Tư tưởng của
những học thuyết này tạo nên trào lưu triết học nhân bản phi lý tính, trong đó chủ
nghĩa hiện sinh giữ vai trò trọng yếu.
Theo trào lưu này thì hoặc bản năng tính dục là cơ sở quan trọng nhất cho
mọi hành động của con người (quan điểm của phân tâm học với đại biểu tiêu biểu
là Phơrơt); hoặc chỉ có “nhân vị” mới là bản thể chân thực vì nhờ có quan hệ với
“nhân vị” mà thế giới còn lại mới có ý nghĩa (quan điểm của chủ nghĩa nhân vị);
hoặc chỉ có cá nhân con người mới hiểu được sự tồn tại của mình nên chỉ có cá
nhân mới “hiện sinh”, con người cần thoát khỏi sự ràng buộc của xã hội, của
những cá nhân khác để thể hiện giá trị hiện sinh của mình (quan điểm của chủ
nghĩa hiện sinh với đại biểu tiêu biểu là Kiếckơgô, G.Mácxen...)...
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lý tính cũng
như những học thuyết khác ở phương Tây hiện đại điều coi những yếu tố về tinh
thần như nhu cầu bản năng, vô thức, tri thức, tình cảm... là bản chất con người.
Con người thường được tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Mối quan hệ giữa cá nhân
với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với xã hội thường được đề cập ở góc
độ hoài nghi, bi quan, bế tắc... Tất cả những điều ấy phản ánh sự khủng hoảng về
mặt giá trị của con người trong xã hội phương Tây hiện đại.
Nhƣ vậy, câu hỏi “bản chất con người là gì?” thật khó trả lời một cách thỏa
đáng, kể cả triết học cổ đại cho đến triết học hiện đại, từ triết học phương Đông
hay triết học phương Tây.
Triết học cổ đại khi quan niệm về con người thường tập trung xem con
người có nguồn gốc từ đâu, cấu trúc như thế nào theo hai xu hướng đi tìm các bản
nguyên đầu tiên của con người hay định nghĩa con người trong mối quan hệ giữa
linh hồn và thể xác. Nếu như chủ nghĩa duy tâm nhấn mạnh mặt tinh thần của con
người thì “chủ nghĩa duy vật ngây thơ, chất phác” và “phép biện chứng tự phát”
nên hướng vào đi tìm cái bản nguyên đầu tiên hình thành nên con người vì vậy
thường tuyệt đối hóa một mặt hay một yếu tố vật chất nào đó.
Thời kỳ phong kiến Tây Âu, khi triết học trở thành nô lệ cho thần học, các
quan niệm về con người đã mất hết ý nghĩa tích cực của nó. Lúc này con người chỉ
được hiểu là sản phẩm sáng tạo của Thượng đế, Chúa Trời. Con người mắc phải tội
tổ tông nên phải chuộc tội và phải sống theo định mệnh của Chúa và có niềm tin vô
điều kiện vào Chúa.
Đến thời kỳ phục hƣng và cận đại, quan niệm về con người đã có những
thay đổi. Nó đã kế thừa những yếu tố duy vật của triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại
và hướng vào những giá trị mới về con người mà thời đại các cuộc cách mạng tư
sản đặt ra. Họ nói tới con người với vai trò của con người trong xã hội và hướng
tới giải phóng con người ra khỏi thần học, khỏi các áp bức và nô dịch xã hội,
khẳng định con người cá nhân. Tuy nhiên do ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật
máy móc siêu hình nên các quan niệm về con người vẫn chỉ phản ánh những khía
cạnh hẹp thiếu hệ thống.
Thời kỳ hiện đại, chủ yếu các nhà triết học chú trọng và đề cao con người
cá nhân, yếu tố vô thức trong con người, tính bản năng và dục vọng của con người.
Như vậy, trong lịch sử tư tưởng triết học trước Mác vẫn chưa có được nhận
thức khoa học về khái niệm con người. Chỉ đến triết học Mác, với quan niệm duy
vật triệt để và phương pháp luận biện chứng đã đưa ra một quan niệm khá hoàn
chỉnh và khoa học về con người và bản chất con người.
1.1.2 Quan niệm của chủ nghĩa Mác về bản chất con ngƣời
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học,
dựa trên những thành tựu của khoa khọc tự nhiên, trực tiếp là thuyết tiến hóa và
thuyết tế bào, triết học Mác khẳng định: con người là một thực thể thống nhất giữa
mặt sinh vật với mặt xã hội và con người là chủ thể đồng thời là sản phẩm của lịch
sử.
Mác đã nghiên cứu con người trong mối quan hệ mật thiết của tự nhiên và
xã hội trong hoạt động thực tiễn của họ. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác
đã giải quyết được vấn đề con người không phải trong “thế giới bên kia” hay trong
ý thức chủ quan của con người mà là trong hoạt động sản xuất. Khi xuất phát từ
con người hiện thực để nghiên cứu đời sống sinh hoạt của con người, cần phải hiểu
trong hoàn cảnh sinh hoạt hiện thực của họ. Với cách đặt vấn đề như vậy, Mác đã
mang lại cho học thuyết về con người của mình một luận điểm mới, thể hiện rõ
nhất trong luận cương về Phoiơbắc, Mác viết: “bản chất con người không phải là
một cái gì trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó
là tổng hòa những mối quan hệ xã hội.” [9, tr11]
Luận điểm trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong
điều kiện lịch sử đó, bằng những hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy,
trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ mối quan hệ đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại,
quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội
của mình.
Trước tiên, khi bàn tới bản chất của con người, triết học Mác khẳng định:
con người là thực thể sinh vật, vì con người dù cho phát triển đến đâu cũng là một
động vật. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “bản thân các sự kiện là con người từ loài động
vật mà ra,cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi
những đặc tính vốn có của con vật.” [13, tr.146.]
Cũng như những động vật khác, con người là một bộ phận của tự nhiên,
“giới tự nhiên... là thân thể vô cơ của con người ...đời sống thể xác và đời sống
tinh thần cuả con người gắn liền với giới tự nhiên” [17, tr.135]. Vậy con người là
một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hóa lâu
dài của môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy
nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người
với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có những quan
niệm khác nhau phân biệt với loài vật, như con người là “động vật có tính xã hội”,
hoặc con người động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì
nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu
lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Từ đó, Mác khẳng định: Con người là thực thể xã hội vì các hoạt động xã
hội, trước hết và quan trọng nhất là hoạt động lao động sản xuất, đã làm cho con
người trở thành “con người” với đúng nghĩa của nó. “Người là giống vật duy nhất
có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy loài vật” [11, tr.673] hay
“có thể phân biệt phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói
chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân
biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của
mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của
mình”. [8, tr.29].
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến
tự nhiên. “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra
toàn bộ giới tự nhiên” [15, tr.137]. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con
người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình
thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy; xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động
là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Theo Mác, “xã hội suy cho cùng là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con người. Con người tạo ra xã hội, là thành viên của xã hội. Một biểu hiện
sinh hoạt của con người là biểu hiện và là khẳng định của xã hội” [17, tr.171].
Đồng thời Mác cũng khẳng định: Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử,
cụ thể:
Mác cho rằng, không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không
tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu
dài của giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ
thể của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “các học thuyết duy vật chủ nghĩa
cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... các học
thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân
nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục” [9, Tr10]. Trong tác phẩm “Biện
chứng của tự nhiên”, Ăngghen cũng cho rằng: “thú vật cũng có một lịch sử, chính
là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới
trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và
trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra
mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con
người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con
người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu” [12,
tr476].
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên theo mục đích của mình, đồng thời thúc đẩy
sự vận động phát triển của lịch sử xã hội.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của
chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn
tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật
chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu
và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không
tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài
người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan
hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho
phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống
mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Bản chất con người cũng vận
động biến đổi cho phù hợp với điều kiện lịch sử xã hội. Có thể nói rằng, mỗi sự
vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp)
với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn
bộ môi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát
triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo
dục. Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động
trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: Hoạt động thực tiễn, quan hệ
ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy,
các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng
của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch
sử xã hội loài người.
Triết học Mác - Lênin là triết học vì con người. Khi viết “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã thể hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo
của Tuyên ngôn là “vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp
bức” [14, tr.11-12]. Song “xã hội không thể nào giải phóng cho mình được, nếu
không giải phóng cho mỗi cá nhân riêng biệt” [11, tr.406].
Như vậy, cốt lõi của triết học Mác - Lênin nói chung, của triết học về con
người trong triết học Mác - Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con người, từ giải
phóng những con người cụ thể tiến tới giải phóng nhân loại.
Triết học Mác xác định: Giải phóng con người là giải phóng người lao động
thoát khỏi lao động bị tha hóa. Lao động bị tha hóa là lao động làm người lao động
đánh mất mình trong “hoạt động người” nhưng lại tìm thấy mình trong “ hoạt
động vật”. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tha hóa là chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất. Vì vậy, giải phóng con người là xoá bỏ người bóc lột người, xoá bỏ tha
hóa để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của mình.
Điều này cũng có nghĩa là lực lượng thực hiện nó chính là những người bị tước
đoạt tư liệu sản xuất - những người vô sản sức mạnh giải phóng của họ không phải
là sức mạnh của những cá nhân đơn độc mà như C.Mác chỉ rõ, chỉ khi nào họ nhận
thức được và tổ chức được “ những lực lượng của bản thân” thành những lực
lượng xã hội - cũng chính là những lực lượng chính trị - thì giải phóng con người
mới thực hiện được.
1.2. Nội dung đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay
1.2.1 Khái niệm và cấu trúc của đạo đức
Khái niệm đạo đức
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin
cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”. [19, tr.6]
Như vậy, thông qua khái niệm về đạo đức chúng ta hiểu về đạo đức như sau:
Một là, đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã
hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo đức xã hội. Do đó, đạo đức không phải là cái
gì bất biến mà được sinh ra từ tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định nên đạo
đức sẽ thay đổi theo sự vận đông của xã hội.
Hai là, đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Ba là, đạo đức là một hệ thống các giá trị, các hiện tượng đạo đức thường
biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc phủ nhận lợi ích chính đáng hoặc không
chính đáng nào đó.
Cấu trúc của đạo đức:
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc đạo đức. Tuy nhiên, cách phân
chia của tác giả PGS.PTS. Trần Hậu Kiêm trình bày trong cuốn giáo trình đạo đức
học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, được coi là hợp lý nhất. Với phạm vi
nghiên cứu của đề tài này, tác giả lựa chọn kết cấu đạo đức như sau:
Thứ nhất: Quan hệ đạo đức
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và con
người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức.