Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Tiếng Vinh dưới góc nhìn của phương ngữ xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (546.89 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ HẢI YẾN

TIẾNG VINH DƯỚI GÓC NHÌN
CỦA PHƯƠNG NGỮ XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN


2

NGHỆ AN - 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRẦN THỊ HẢI YẾN

TIẾNG VINH DƯỚI GÓC NHÌN
CỦA PHƯƠNG NGỮ XÃ HỘI
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số: 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:

TS. NGUYỄN HOÀI NGUYÊN




4

NGHỆ AN - 2014


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự cố gắng của bản thân phải kể đến
sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo, Tiến sĩ Nguyễn Hoài Nguyên, sự động viên,
giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô trong tổ Ngôn ngữ, khoa Sư phạm Ngữ văn
cũng như các bạn học viên lớp Cao học khoá 20, chuyên ngành Ngôn ngữ học và
gia đình.
Nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo, bạn bè và
người thân, đặc biệt là thầy giáo, TS. Nguyễn Hoài Nguyên đã tạo điều kiện giúp
đỡ em hoàn thành luận văn này.
Do thời gian hạn hẹp, trình độ nghiên cứu khoa học còn nhiều hạn chế nên
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy cô
giáo và các bạn quan tâm vấn đề này để luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU................................................................................................................................9
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu.....................................................................9
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................................11
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................12

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu..................................................................13
5. Đóng góp của luận văn.................................................................................................15
6. Bố cục luận văn............................................................................................................15
Chương 1
CỞ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI....................................................................................16
1.1. Các vùng phương ngữ trong tiếng Việt.....................................................................16
1.1.1. Phương ngữ và phương ngữ tiếng Việt...................................................16
1.1.2. Các vùng phương ngữ tiếng Việt ...........................................................19
1.2. Phương ngữ Nghệ Tĩnh.............................................................................................20
1.2.1. Sự hình thành phương ngữ Nghệ Tĩnh...................................................20
1.2.2. Đặc trưng phương ngữ Nghệ Tĩnh..........................................................22
1.3. Ngôn ngữ học xã hội.................................................................................................24
1.3.1. Sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội.........................................................24
1.3.2. Biến thể ngôn ngữ và cộng đồng nói năng.............................................25
1.3.3. Ứng dụng ngôn ngữ học xã hội vào nghiên cứu tiếng Vinh...................27
1.4. Địa bàn thành phố Vinh và tiếng Vinh......................................................................28
1.4.1. Vài nét về địa bàn thành phố Vinh.........................................................28
1.4.2. Quan niệm về tiếng Vinh và cách tiếp cận tiếng Vinh...........................31
1.5. Tiểu kết chương 1......................................................................................................33
Chương 2
ĐẶC ĐIỂM TIẾNG VINH TỪ GÓC NHÌN
PHƯƠNG NGỮ XÃ HỘI....................................................................................................34
2.1. Một vài đặc điểm của ngôn ngữ thành thị.................................................................34
2.2. Cách tiếp cận ngôn ngữ thành thị..............................................................................36
2.3. Tiếng Vinh trong từng độ tuổi...................................................................................38
2.3.1. Độ tuổi từ 3 tuổi đến dưới 20 tuổi..........................................................38
2.3.2. Độ tuổi từ 21 đến 40 tuổi........................................................................39
2.3.3. Độ tuổi từ 40 đến dưới 60 tuổi................................................................40
2.3.4. Độ tuổi từ 61 tuổi trở lên........................................................................41
2.4. Thời gian định cư ở Vinh..........................................................................................42



7
2.4.1. Nhóm có thời gian định cư 40 năm trở lên và những người được sinh ra
và lớn lên ở Vinh..................................................................................42
2.4.2. Nhóm có thời gian định cư ở Vinh 20-40 năm.......................................43
2.4.3. Nhóm có thời gian định cư ở Vinh dưới 20 năm....................................43
2.5. Tiếng Vinh gắn với các nghề nghiệp.........................................................................45
2.5.1. Những người làm ruộng..........................................................................45
2.5.2. Những người buôn bán, tiểu thương.......................................................46
2.5.3. Công nhân, công chức, kĩ thuật viên.......................................................46
2.5.4. Tầng lớp trí thức ....................................................................................46
2.6. Tiếng Vinh gắn với trình độ văn hóa........................................................................47
2.7. Tiếng Vinh gắn với giới tính.....................................................................................48
2.8. Tiếng Vinh gắn với quê quán gốc.............................................................................51
2.9. Tiểu kết chương 2......................................................................................................52
Chương 3
TIẾNG VINH TRONG SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA TIẾNG VIỆT VĂN HÓA...........................................................................................56
3.1. Các biến thể của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh..........................................56
3.1.1. Biến thể ngữ âm......................................................................................56
3.1.2. Biến thể từ vựng......................................................................................92
3.1.3. Biến thể ngữ pháp...................................................................................98
3.1.4. Biến thể phong cách................................................................................99
3.2. Xu thế phát triển của tiếng Vinh.............................................................................100
3.2.1. Các điều kiện chi phối sự phát triển của tiếng Vinh.............................100
3.2.2. Vai trò văn hoá - xã hội của tiếng Vinh................................................101
3.2.3. Xu thế phát triển của tiếng Vinh...........................................................102
3.3. Tiểu kết chương 3....................................................................................................103
KẾT LUẬN........................................................................................................................105

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................108


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1. Các yếu tố nguyên âm tính trong vần cái tiếng Vinh...........................................65
Bảng 3.2. Các yếu tố kết vần trong vần cái tiếng Vinh........................................................67
Bảng 3.3. Hệ thống vần mở tiếng Vinh ...............................................................................69
Bảng 3.4. Vần nửa mở trong tiếng Vinh..............................................................................70
Bảng 3.5. Vần nửa khép và vần khép trong tiếng Vinh ......................................................73
Bảng 3.6. Hệ thống thanh điệu tiếng Việt văn hoá...............................................................79
Bảng 3.7. Tương ứng thanh điệu tiếng Vinh và tiếng Việt văn hoá.....................................90


9
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là ngôn ngữ thống nhất, nhưng thống nhất trong sự đa dạng.
Tiếng Việt là ngôn ngữ của người Việt nhưng cũng đồng thời là ngôn ngữ
quốc gia - ngôn ngữ chung của 54 dân tộc anh em trên cộng cư trên lãnh Việt
Nam. Do đó, trong bản chất của nó, tiếng Việt phải là ngôn ngữ thống nhất,
vượt lên mọi thời gian, không gian. Nhưng thống nhất không có nghĩa là đồng
nhất. Ở mặt biểu hiện, cũng như những ngôn ngữ khác, tiếng Việt hết sức đa
dạng. Tính đa dạng của tiếng Việt thể hiện ở nhiều mặt: ở phong cách thể
hiện, ở hiệu quả biểu hiện, ở tính phân tầng xã hội - lớp người sử dụng, ở khu
vực địa lý - dân cư thể hiện. Có lẽ, tính đa dạng của tiếng Việt biểu hiện ở khu
vực địa lý - dân cư là rõ nét nhất. Sự biểu hiện của tiếng Việt xét trên phương
diện này được gọi là tiếng địa phương hay phương ngữ. Tất nhiên, trong sự
thống nhất và đa dạng của tiếng Việt thì sự thống nhất là căn bản. Tiếng Việt

từ xa xưa đã là một ngôn ngữ thống nhất và tính thống nhất ấy còn được duy
trì chặt chẽ trong ngôn ngữ văn học mà các nhà văn tôn trọng một cách có ý
thức dù họ là người ở địa phương nào, nói phương ngữ nào. Các phương ngữ
cũng không hề cản trở đến giao tiếp. Trong hoạt động giao tiếp hàng ngày, dù
đi đâu, nói với ai, ta cũng dùng giọng địa phương, sử dụng phương ngữ của
mình mà không hề gặp một trở ngại nào. Điều đó chứng tỏ sự khác biệt của
các phương ngữ và giữa các phương ngữ so với tiếng Việt toàn dân là không
lớn lắm; đó là sự khác biệt trên một căn bản thống nhất. Lại nữa, chính tả
tiếng Việt là thống nhất toàn quốc và sự thống nhất về mặt chính tả cũng phần
nào phản ánh về tính thống nhất của tiếng Việt.
Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng dân
cư tại một vùng miền trên lãnh thổ một quốc gia. Hầu hết các ngôn ngữ trên


10
thế giới đều có phương ngữ. Tuy nhiên, số lượng phương ngữ và mức độ khác
biệt giữa các phương ngữ với nhau cũng như giữa các phương ngữ với ngôn
ngữ toàn dân ở các ngôn ngữ là không như nhau. Sự hình thành và tồn tại của
phương ngữ tùy thuộc vào điều kiện về phân bố địa lý, lịch sử phát triển văn
hóa, xã hội, ngôn ngữ và đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán
của từng quốc gia. Tiếng Việt là ngôn ngữ gồm nhiều phương ngữ. Tính đa
dạng của tiếng Việt thể hiện ở sự hành chức qua các phương ngữ, thổ ngữ.
Tiếng Việt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Vinh, Huế, Đà Nẵng, thành phố
Hồ Chí Minh, lâu nay được gọi là bán phương ngữ.
Do đặc điểm lịch sử - xã hội của thành phố Vinh, việc nghiên cứu tiếng
Vinh có lẽ khó thực hiện bằng các phương pháp của phương ngữ học tiếng
Việt truyền thống. Hướng miêu tả tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh gắn
liền với kiểu phân tầng xã hội - lớp người sử dụng là một trong những hướng
triển khai có phạm vi nghiên cứu phù hợp hơn.
Hiện nay, do sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông

đại chúng, sự thuật lợi trong giao lưu giữa các vùng miền trong cả nước
cùng với những ảnh hưởng tích cực của nhà trường nên một sự tự vận động
hòa nhập các phương ngữ, thổ ngữ vào tiếng Việt hóa, hướng đến một ngôn
ngữ quốc gia thống nhất đang là một thực tế trong xã hội. Tiến trình thống
nhất và chuẩn hóa tiếng Việt đã và đang xảy ra cùng với kết quả của nó là sự
giải thể dần của các thổ ngữ và sự hoà nhập của các phương ngữ vào ngôn
ngữ toàn dân. Phạm vi hoạt động của thổ ngữ đang lùi dần vào gia đình và
giữa những người có tuổi. Do đó, khi nghiên cứu phương ngữ xét ở bất cứ
góc độ nào cũng là hết sức cần thiết và cấp bách. Phương ngữ Nghệ Tĩnh
(PNNT) nói riêng, các phương ngữ Việt nói chung, nhất là những phương
ngữ đã để lại một di sản văn hóa đặc sắc như PNNT cần được nghiên cứu
đầy đủ, tỉ mỉ và nghiêm túc, không vì một mặc cảm nào bởi nghiên cứu


11
phương ngữ nhưng PNNT sẽ góp phần soi sáng nhiều vấn đề về phương ngữ
học Việt, cung cấp số liệu cần thiết để góp phân thêm vào công việc nghiên
cứu lịch sử tiếng Việt.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Miêu tả các biến thể xã hội của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh
theo các tiêu chí tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, quê quán gốc, thời gian định
cư ở Vinh,... vừa làm sáng tỏ các biến thể xã hội của tiếng Việt trên địa bàn
thành phố Vinh hôm nay (đồng đại), vừa miêu tả được quá trình phát triển của
tiếng Vinh dưới ảnh hưởng, của những biến động lịch sử - xã hội của thành
phố Vinh ở các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách và các hành
vi ứng xử ngôn từ khác (lịch đại).
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về phương ngữ Nghệ Tĩnh
- Hiện tại, một số công trình nghiên cứu, ở một mức độ nhất định đã
khảo sát phương ngữ Nghệ Tĩnh (PNNT). Chẳng hạn, Tiếng Việt trên các miền

đất nước của Hoàng Thị Châu (1989), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt của
Nguyễn Tài Cẩn (1995),... đã sử dụng tư liệu của PNNT để nghiên cứu lịch sử
tiếng Việt. Các công trình như Phương ngữ Bình Trị Thiên của Võ Xuân Trang
(1995), Hệ thống ngữ âm của tiếng Sài Gòn của Huỳnh Công Tín (1999),...
cũng đã dùng các tư liệu PNNT làm đối tượng so sánh đối chiếu, v.v..
- Đã có các công trình từ điển PNNT như Từ điển tiếng địa phương
Nghệ Tĩnh của nhóm tác giả do GS. Nguyễn Nhã Bản chủ biên (1999); Từ
điển tiếng Nghệ của Trần Hữu Thung - Thái Kim Đỉnh (1998); Từ điển tiếng
Nghệ Tĩnh của Nguyễn Ngọc Lập - Nguyễn Thuý Nga (2013).
- Phương ngữ Nghệ Tĩnh trở thành đối tượng nghiên cứu cho ba luận án
Tiến sĩ Ngữ văn: Những đặc điểm ngữ âm giọng Nghi Lộc của Võ Xuân Quế
(1993); Nghiên cứu đặc điểm lớp từ địa phương Nghệ Tĩnh của Hoàng Trọng


12
Canh (2002); Miêu tả đặc trưng ngữ âm phương ngữ Nghệ Tĩnh của Nguyễn
Văn Nguyên (2003). Các luận án của Ngô Văn Cảnh (2004), Nguyễn Thị Mai
Hoa (2009), qua khảo sát các thể thơ dân gian, Hát phường vải cũng đã phần
nào làm nổi bật đặc điểm ngôn từ PNNT.
- Có nhiều bài báo của GS. Nguyễn Nhã Bản, Hoàng Trọng Canh,
Nguyễn Hoài Nguyên,... viết về ngữ âm và từ vựng PNNT.
2.2. Những nghiên cứu về tiếng Vinh
- Từ lâu, tiếng Vinh đã được các nhà ngữ học nước ngoài quan tâm
nghiên cứu. Trong những nghiên cứu của L. Cadiere (1902, 1911), H.
Maspero (1912), M.V. Gordina và I.S. Bystrov (1970), L.C. Thompson
(1965),… các tác giả đã có những nhận xét về tiếng Vinh.
- Trong các công trình của Hoàng Thị Châu (1989), Hoàng Trọng Canh
(2002), Nguyễn Văn Nguyên (2003), v.v., một vài bình diện của tiếng Vinh
cũng đã được các tác giả miêu tả và bàn luận.
Cho đến nay, tiếng Vinh vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ

thống. Do đó, đặt vấn đề nghiên cứu tiếng Vinh dưới góc độ ngôn ngữ học xã
hội là có tính thời sự khoa học.
3. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là miêu tả các biến thể xã hội của
tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh theo các tiêu chí tuổi tác, giới tính,
nghề nghiệp, quê quán gốc, thời gian định cư ở Vinh,... vừa làm sáng tỏ các
biến thể xã hội của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh hôm nay (đồng
đại), vừa miêu tả được quá trình phát triển của tiếng Vinh dưới ảnh hưởng,
của những biến động lịch sử - xã hội của thành phố Vinh ở các bình diện
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, phong cách và các hành vi ứng xử ngôn từ khác
(lịch đại).


13
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phương ngữ Nghệ Tĩnh từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu cho
các khoá luận, luận văn, luận án tốt nghiệp đại học và sau đại học cho các
sinh viên, học viên Trường đại học Vinh và các trường đại học khác. Tuy
nhiên, để đi sâu vào đặc điểm ngôn ngữ của một vùng cụ thể trong PNNT thì
chưa có công trình nghiên cứu nào. Vì vậy, chưa thể nhìn nhận bức tranh
PNNT một cách chi tiết từng vùng.
Ngôn ngữ đô thị là một trong những đối tượng đang được nhiều nhà
nghiên cứu tìm hiểu. Để có cái nhìn tương đối toàn diện và chi tiết về PNNT
nói chung và ngôn ngữ đô thị trong PNNT nói riêng cần có nhiều công trình
nghiên cứu chi tiết từng khu vực trên địa bàn và đô thị Vinh.
Với ý tưởng như vậy, chúng tôi đã đặt ra nhiệm vụ của luận văn giải
quyết các vấn đề sau: Từ những lý thuyết của phương ngữ học tiếng Việt,
luận văn xác định những cách tiếp cận của phương ngữ thành thị. Tiến hành
miêu tả các biến thể của tiếng Việt trên địa bàn thành phố Vinh từ góc nhìn

phương ngữ xã hội nhằm làm nổi rõ quá trình phát triển của tiếng Vinh trong
diễn trình tiếng Việt.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để tiến hành nghiên cứu tiếng Vinh, trước hết chúng tôi chọn một số
phường, xã trên địa bàn thành phố; những phường, xã có phân bố dân cư
tương đối đặc trưng làm điểm khảo sát và miêu tả. Việc chọn địa điểm điều
tra, chúng tôi dựa trên 2 căn cứ: Một là, dựa vào cảm nhận của người địa
phương đó có tiếng nói đặc biệt hơn cả; Hai là, dựa vào đặc điểm địa lý, lịch
sử, dân cư. Chúng tôi chọn những phường xã là những trung tâm chính trị,
kinh tế, văn hóa,... những xã có nhiều người là dân gốc sinh sống. Dựa trên cơ
sở đó, chúng tôi đã chọn 5 đơn vị phường xã điều tra với 100 đối tượng được
phỏng vấn.


14
Tư liệu còn được thu thập từ các công trình nghiên cứu đã công bố, các
công trình từ điển, tư liệu cá nhân của thầy hướng dẫn.
Trong việc xử lý đề tài, người viết thu thập tài liệu nghiên cứu đã công
bố của các tác giả đi trước về các lĩnh vực miêu tả ngữ âm học, âm vị học,
phương ngữ học, lịch sử tiếng Việt cùng với những tư liệu khác về ngôn ngữ
học. Đặc biệt, chúng tôi được sử dụng tư liệu cá nhân (chưa công bố) của thầy
hướng dẫn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là từ những khảo sát thực tế về cách
phát âm của người Vinh gắn với đặc điểm giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và
sự ảnh hưởng của nó với điểm ngôn ngữ của người dân sống ở đô thị Vinh.
Để thực hiện được mục tiêu này, chúng tôi sử dụng phương pháp điều tra
ngôn ngữ học để thu thập tư liệu. Sau đó, dùng các thủ pháp phân tích, miêu
tả, tổng hợp để xử lý vấn đề và dùng phương pháp so sánh đối chiếu nhằm

làm nổi bật đặc trưng tiếng Vinh trong PNNT nói riêng, tiếng Việt văn hóa
(TVVH) nói chung.
Do không có điều kiện sử dụng máy móc thực nghiệm nên trong quá
trình xứ lý đề tài này chúng tôi dựa trên phân tích bằng thính giác dựa trên
cảm thức của người bản ngữ. Việc thu thập và xử lý số liệu, chúng tôi dùng
bằng phương pháp quan sát trực tiếp bằng tai thường. Đây là phương pháp
quan trọng và hiệu quả, bởi vì, theo GS. Đoàn Thiện Thuật: “Trong ngôn
ngữ người ta không cần biết đến những số liệu tuyệt đối mà chỉ cần đến
những giá trị có được do sự so sánh giữa các âm mà thôi. Mặt khác, nếu có
chút chủ quan nào thì trong giao tiếp bằng lời của con người, ấn tượng chủ
quan của người nghe nhất là đối với tiếng mẹ đẻ lại đóng vai trò quyết định
và như vậy việc quan sát trực tiếp so với quan sát bằng ký cụ lại là quan
trọng hơn” [57, tr.17].


15
5. Đóng góp của luận văn
Từ hướng tiếp cận phương ngữ xã hội, luận văn tiến hành cả những
miêu tả đồng đại và lịch đại: miêu tả các biến thể xã hội của tiếng Vinh hôm
nay, đồng thời miêu tả quá trình phát triển của tiếng Vinh dưới ảnh hưởng của
những biến động lịch sử - xã hội, trong sự phát triển chung của tiếng Việt.
Các kết quả của luận văn, một mặt giúp nhận diện những đặc trưng của tiếng
Vinh, mặt khác, ở một mức độ nhất định, góp thêm tư liệu lịch sử để lí giải
những vấn đề lịch sử tiếng Việt.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung luận văn
trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí thuyết của đề tài
Chương 2. Đặc điểm tiếng Vinh từ góc nhìn phương ngữ xã hội
Chương 3. Tiếng Vinh trong sự phát triển của tiếng Việt văn hoá



16
Chương 1
CỞ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các vùng phương ngữ trong tiếng Việt
1.1.1. Phương ngữ và phương ngữ tiếng Việt
1.1.1.1. Khái niệm phương ngữ
Biến thể và dạng tồn tại của ngôn ngữ được sửu dụng với tư cách là
phương tiện giao tiếp trên một khu vực địa lý - dân cư, trước đây các nhà
phương ngữ học gọi là phương ngôn (theo cách dùng của người Trung
Quốc). Nhưng do thuật ngữ phương ngôn trong tiếng Việt được dùng để chỉ
tục ngữ địa phương (trong văn học dân gian) nên dùng thuật ngữ ngày dễ
gây hiểu nhầm. Các tác giả Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn
Quang Ninh dùng thuật ngữ phương ngôn để nhấn mạnh: “Phương ngôn
không phải là một ngôn ngữ riêng biệt, mà là những chi thể địa phương của
một ngôn ngữ thống nhất (vì thế chúng tôi không dùng phương ngôn, e gây
hiểu nhầm)” [54, tr.51].
Tổ hợp tiếng địa phương cũng được một số nhà ngữ học dùng như hình
thức cấu tạo của tổ hợp này không chặt chẽ nên không đáp ứng được yêu cầu
của thuật ngữ. Cũng có nhà ngữ học dùng khái niệm giọng hay giọng địa
phương (dân gian gọi là giọng Bắc, giọng Nam...) nhưng giọng chỉ nhấn
mạnh mặt ngữ âm, không bao quát được mọi biến dạng của ngôn ngữ. Vậy
nên, phù hợp hơn cả là dùng thuật ngữ phương ngữ (dialect). Có thể dẫn ra
một số cách hiểu về khái niệm phương ngữ:
Hoàng Thị Châu: “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để
chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những
nét khác biệt của nó so với ngôn ngữ toàn dân hay với một địa phương
khác” [11, tr.29].



17
Vương Toàn: “Phương ngữ là hình thức ngôn ngữ có hệ thống từ
vững, ngữ pháp và ngữ âm riêng biệt được sử dụng trong một phạm vi lãnh
thổ hay một xã hội hẹp hơn là ngôn ngữ” [50, tr.275].
Nguyễn Như Ý và các tác giả: “Biến dạng của một ngôn ngữ được sử
dụng với tư cách là phương tiện giao tiếp của những người có gắn bó chặt
chẽ với nhau trong một cộng đồng thống nhất về lãnh thổ, về hoàn cảnh xã
hội hay về nghề nghiệp” [66, tr.231].
Có thể cho rằng phương ngữ là dạng biến thể và dạng tồn tại về mặt
ngữ âm, từ vững, ngữ pháp của ngôn ngữ văn hóa của một vùng địa lý dân cư
nhất định hay phạm vi xã hội nào đó.
1.1.1.2. Phương ngữ học và phương ngữ tiếng Việt
Phương ngữ là biến thể và dạng tồn tại của ngôn ngữ văn hóa ở một địa
phương cụ thể, bao gồm những nét khác biệt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp
so với ngôn ngữ văn hóa, trong đó, sự khác biệt về mặt ngữ âm là quan trọng
nhất. Phương ngữ được chia ra thành phương ngữ lãnh thổ và phương ngữ xã
hội. Phương ngữ lãnh thổ (territoria (local) dialect) là phương ngữ phổ biến
của một vùng lãnh thổ nhất định. Nó luôn luôn là một bộ phận của chỉnh thể một ngôn ngữ nào đó. Phương ngữ lãnh thổ có những khác biệt nhất định
trong cơ cấu âm thanh, trong ngữ pháp, trong cơ cấu tạo từ, trong hệ thống từ
vựng. Những khác biết này có thể không lớn lắm để cho những người nói
những phương ngữ khác nhau của một ngôn ngữ vẫn có thể hiểu được nhau.
Phương ngữ xã hội được hiểu là ngôn ngữ của một nhóm xã hội nhất định.
Những ngôn ngữ của một nhóm xã hội như thế khác với ngôn ngữ toàn dân
chỉ ở vấn đề từ ngữ.
Phương ngữ học (Dialectology) là một phân môn của ngôn ngữ học
chuyên nghiên cứu các phương ngữ, thổ ngữ của một ngôn ngữ nào đó.
Như vậy, phương ngữ học không chỉ nghiên cứu cô lập từng mặt nào đó



18
như ngữ âm, từ vựng hay ngữ pháp mà nghiên cứu tất cả các mặt như
nghiên cứu một ngôn ngữ. Dĩ nhiên, do cách định hướng, tiếp cận của
những đề tài cụ thể mà có thể giới hạn việc nghiên cứu trong từng phạm vi,
từng khu vực lớn bé, rộng hẹp và có thể từng mặt khác nhau của phương
ngữ. Những biến thể phương ngữ có quan hệ chặt chẽ với ngôn ngữ văn
hóa và thể hiện rõ tình thống nhất, tính khác biệt. Sự thống nhất và khác
biệt trong ngôn ngữ văn hóa và phương ngữ, trong đó, sự thống nhất đóng
vai trò chủ đạo và nó là cơ sở tạo nên sự thống nhất của một ngôn ngữ.
Song, khi xem xét mối tương quan này, dù bằng cách tiếp cận nào cũng
phải được đánh giá trong tổng thể sự phát triển của từng phương ngữ cụ thể
đối với ngôn ngữ. Quá trình chia tách ngôn ngữ (phương ngữ) và liên kết
ngôn ngữ (phương ngữ) là hai quá trình cơ bản của sự phát triển ngôn ngữ.
Dĩ nhiên, dù cách diễn đạt như thế nào, các nhà nghiên cứu đều cho rằng
phương ngữ là biến dạng, là các biến thể, là sự thể hiện một cách đa dạng
của ngôn ngữ văn hóa. Do vậy, việc nghiên cứu phương ngữ một cách đầy
đủ và kỹ càng, tư liệu chính xác là cơ sở quan trọng cho việc tiêu chuẩn
hóa về những mặt như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, chính tả của một ngôn
ngữ cụ thể.
Như đã biết, phương ngữ chỉ là một dạng biến của ngôn ngữ văn hóa
dân tộc. Phương ngữ không phải và không bao giờ trở thành một ngôn ngữ
riêng biệt. Tiếng Việt có bao nhiêu phương ngữ và các tiêu chí để làm nên sự
khác biệt giữa các phương ngữ là như thế nào?
Ngay từ năm 1912, H. Maspero đã chia tiếng Việt thành hai vùng
phương ngữ: phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung, bởi vì, theo ông,
“Phương ngữ Nam cơ bản giống phương ngữ Bắc do mới có hiện tượng di
dân vào thời kỳ sau này. Phương ngữ Trung đối lập với phương ngữ Bắc do
còn bảo lưu nhiều yếu tố cổ” [47, tr.224].



19
1.1.2. Các vùng phương ngữ tiếng Việt
1.1.2.1. Các cách phân chia vùng phương ngữ tiếng Việt
Có nhiều cách chia phương ngữ tiếng Việt. Tác giả Hoàng Phê khi bàn
về vấn đề thống nhất và chuẩn hóa tiếng Việt cho rằng chỉ có 2 vùng phương
ngữ là tiếng miền Bắc và tiếng miền Nam, còn Trung Bộ chỉ là những
phương ngữ có tính chất chuyển tiếp. Trong khi đó, phần đông các nhà ngôn
ngữ học chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ: phương ngữ Bắc (Bắc
bộ và Thanh Hóa), phương ngữ Trung (Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên) và
phương ngữ Nam (từ Đà Nẵng trở vào). Cách phân chia này phù hợp với
cảm thức dân gian. Cách phân chia này có các tác giả Nguyễn Bạt Tụy
(1950), Vương Hữu Lễ (1974), Hoàng Cao Cương (1979), Hoàng Thị Châu
(1963, 1989, 2004), Võ Xuân Trang (1994), Võ Xuân Quế (1994), Hoàng
Trọng Canh (2002), Nguyễn Hoài Nguyên (2002), Ngô Văn Cảnh (2004),
v.v.. Lại có người chia tiếng Việt thành bốn phương ngữ, đó là phương ngữ
Bắc (Bắc Bộ và một phần Thanh Hóa), phương ngữ Trung bắc (nam Thanh
Hóa, Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên), phương ngữ Trung nam (từ Quãng Ngãi
đến Phú Khánh) và phương ngữ Nam (từ Thuận Hải trở vào). Lại có người
chia tiếng Việt thành năm phương ngữ như Nguyễn Bạt Tụy (1961), Huỳnh
Công Tín (1999), v.v..
1.1.2.2. Ba vùng phương ngữ tiếng Việt
Chọn giải pháp phân chia tiếng Việt thành ba vùng phương ngữ gồm
phương ngữ Bắc Bộ (từ Ninh Bình trở ra), phương ngữ Bắc Trung Bộ (từ
Thanh Hóa đến Bình Trị Thiên) và phương ngữ Nam Trung Bộ - Nam Bộ (từ
Đà Nẵng trở vào). Trong mỗi vùng lại có những phương ngữ tiểu vùng, chẳng
hạn, vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ (còn gọi là vùng phương ngữ khu VI)
gồm ba phương ngữ là phương ngữ Thanh Hóa, phương ngữ Nghệ Tĩnh và
phương ngữ Bình Trị Thiên.



20
1.2. Phương ngữ Nghệ Tĩnh
1.2.1. Sự hình thành phương ngữ Nghệ Tĩnh
Nhiều tư liệu, chứng cứ lịch sử đã chỉ ra rằng vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng, khu vực đồng bằng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên là cái
nôi của người Việt cổ. Các tỉnh Hà Tuyên, Bắc Thái, Cao Bằng là những nơi
mới được khai khẩn từ cuối thế kỷ XVII và các tỉnh phía nam cũng vậy. Sử
sách chép lại rằng, vào năm 1609 biên giới Đại Việt mới vượt qua Đèo
Ngang, mở rộng vùng đất Bình Trị Thiên và vào năm 1471, dưới triều Lê
Thành Tông, biên giới phía nam nước ta mở rộng tới phía nam đèo Hải Vân,
thành lập đạo Quảng Nam. Năm 1741 đến Tây Nam Bộ và năm 1757 bản đồ
Việt Nam nói dài đến đất Cà Mau. Nhiều tài liệu đã cho thấy rằng, vùng đất
châu thổ sông Hồng và các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên dày
đặc các thổ ngữ, trong khi đó, các tỉnh miền bắc và các tỉnh miền nam xuất
hiện không nhiều thổ ngữ. Cả khu vực Thanh Hóa đến đèo Bình Trị Thiên
thuộc phương ngữ Trung. Nghệ Tĩnh là khu vực thuộc phương ngữ Trung. Từ
những đặc điểm về khu vực địa lý, dân cư như thế, lại cách xa trung tâm ngôn
ngữ Việt - Mường ở Bắc Bộ nên các cư dân nói tiếng Việt - Mường khu vực
Nghệ Tĩnh sẽ có nét riêng biệt trong ngôn ngữ của mình trước khi tiếp thu
những ảnh hưởng của sự biến đổi chia tách ngôn ngữ và phương ngữ ở Bắc
Bộ. Do đó, trong sự hình thành của những phương ngữ Việt có sự hình thành
của phương ngữ Nghệ Tĩnh. Vấn đề này cũng đã được Nguyễn Tài Cẩn lý
giải và phân tích một cách tường minh trong Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng
Việt [9]. Theo ông, qua nhiều thế kỷ tiếp xúc với ngôn ngữ và văn hóa Hán,
cư dân nói tiếng Việt - Mường chung đã có sự phân hóa ngôn ngữ. Những ảnh
hưởng của tiếng Hán không thể diễn ra một cách đồng đều trên toàn bề mặt
lãnh thổ. Vùng phía Bắc chịu ảnh hưởng trước hết và sâu đậm hơn vùng phía
nam và trong mỗi vùng thì vùng đồng bằng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ hơn



21
vùng miền núi. Quá trình phân hóa ngôn ngữ đã được ông chỉ rõ: 1/ Sự phân
hóa mở đường xảy ra trước tiên là giữa hai vùng cực Bắc. 2/ Trong lúc phía
Bắc đã hình thành hai ngôn ngữ Việt ở vịnh Hà Nội và Việt - Mường ở phía
Bắc thì ở Nghệ An, giữa miền núi và miền xuôi còn là một khối thống nhất,
có ngôn ngữ thống nhất (vốn là Việt - Mường chùng, ở giai đoạn hậu kỳ của
nó). Sự thống nhất này còn kéo dài thêm một số thế kỷ nữa mới có sự rạn
nứt” [9, tr.278]. Sau đó, sự phân hóa ngôn ngữ và ảnh hưởng của nó đã lan
dần vào phía Nam nhưng với một mức độ “càng đi sâu vào dãi đất hẹp Trung
Bộ thì sự phân hóa đó càng yếu dần. Vào khoảng đời nhà Lý, có thể xem
ngôn ngữ vùng ven biển Nghệ Tĩnh chỉ là một vùng hơi bị Việt hóa” [9,
tr.278]. Theo thời gian, sự phân hóa tiếp tục diễn ra. Do ở miền xuôi phía
đông, giữa Hoan Châu và Kẻ Chợ có điều kiện đi lại thuận tiện hơn nên ảnh
hưởng của phương ngữ tiếng Việt Bắc Bộ lan vào khu IV dễ dàng hơn, cả
miền núi và miền xuôi, nhưng cố nhiên, miền xuôi ảnh hưởng mạnh hơn. Tiếp
đó là các đợt Nam tiến ồ ạt của cư dân Bắc bộ từ đời này sang đời khác nên
vùng xuôi ngày càng được Việt hóa mạnh hơn để cuối ùng có sự phân hóa
thành Việt với Mường, hình thành một vùng phương ngữ Việt khu IV. Sự
kiện này cũng tương ứng với cách phân kỳ lịch sử tiếng Việt của Nguyễn Tài
Cẩn [8, tr.7] là vào khoảng thế kỷ XIII - XIV, XV, XVI, giai đoạn tiếng Việt
cổ. Theo Nguyễn Tài Cẩn, tiếng Việt giai đoạn này có 2 điểm mới là: “1/ Trở
thành ngôn ngữ văn học và có văn tự (chữ Nôm). 2/ Trở thành ngôn ngữ
không thuần nhất, có 2 vùng ngôn ngữ (do sự hình thành của phương ngữ khu
IV), chấm dứt giai đoạn tiềng Việt chung” [8, tr.10].
Như vậy, nếu vùng phương ngữ phía Bắc được hình thành từ sự biến
đổi chia tách của ngôn ngữ Việt - Mường chung do sự ảnh hưởng của tiếng
Hán, văn hóa Hán thì vùng phương ngữ khu IV lại được hình thành từ ngôn
ngữ Việt - Mường chung do ảnh hưởng của tiếng Việt Bắc Bộ, là “vùng Việt -



22
Mường chung bị Việt hoá mạnh nên trở thành Việt” [9, tr.331]. Trong sự hình
thành của phương ngữ Khu IV có sự hình thành của PNNT, bên cạnh sự hình
thành của phương ngữ Thanh Hóa và phương ngữ Bình Trị Thiên. Dĩ nhiên,
do những đặc điểm về địa lý, lịch sử, dân cư có nhiều nét khác biệt nên PNNT
không những có nhiều nét khác biệt so với tiếng Việt toàn dân mà còn ngay
cả với các phương ngữ trong vùng.
1.2.2. Đặc trưng phương ngữ Nghệ Tĩnh
Như đã nói, nằm trong phương ngữ khu IV, PNNT có nhiều nét khác
biệt so với các phương ngữ khác trong vùng. Có thể khái quát một số đặc
trưng của PNNT ở các mặt ngữ âm và từ vựng như sau:
a. Về ngữ âm
Hệ thống thanh điệu Nghệ Tĩnh chỉ có 5 thanh, không có thanh ngã vì
thanh ngã nhập với thanh nặng. Các thanh điệu hỗn nhập từ thanh này sang
thanh khác, thậm chí ở một số thổ ngữ có hiện tượng “rối loạn” thanh điệu,
làm cho bức tranh thanh điệu Nghệ Tĩnh hết sức phức tạp. Đặc điểm nổi bật
của hệ thống thanh điệu Nghệ Tĩnh là hệ thanh điệu trầm.
Hệ thống phụ âm đầu có 22 đơn vị. Dãy phụ âm quặt lưỡi / ţ ʂ ʐ/ có mặt
đầy đủ và phổ biến trên địa bàn. Phương ngữ Nghệ Tĩnh còn lưu giữ một số
phụ âm cổ của tiếng Việt như các phụ âm tắc bật hơi [p', k'], các tổ hợp phụ
âm như [tl], [dj], [ßj], v.v.. Ở một số thổ ngữ còn có sự đối ứng với phụ âm
đầu [ŋ] và [Ј]. Ngoài ra, còn có hàng loạt đối ứng phụ âm đầu phương ngữ
Nghệ Tĩnh với tiếng Việt Việt hóa ở một bộ phận từ vựng, trong đó có những
đối ứng 1-1, nhưng cũng có những đối ứng 1 hơn 1, tiêu biểu là phụ âm đầu
[ţ]. Âm [ţ] Nghệ Tĩnh đối ứng với hàng loạt các phụ âm đầu TTVH.
Hệ thống vần có mặt đầy đủ 159 vần cái. Một số vần trong TVVH chỉ
có trong sự hình dung lý thuyết tương ứng với sự khu biệt tối đa mà chữ Quốc
ngữ thể hiện [27], [59], nhưng sự thực tồn tại khá phổ biến trong PNNT như



23
[ɯn] (ưn), [ɤw] (ơu) [ɯm ɯp] (ưm ưp), [ɤŋ ɤk] (ơng ớc). PNNT bảo lưu một
cách trọng vẹn sự đối lập chặt/lỏng ở các cặp vần [eɲ ec] (ênh êch)/ [eŋ ek]
(êng êc), [ɛɲ ɛc] (anh ach)/ [ɛŋ ɛk] (eng ec), [oŋm okp] (ông ốc)/ [oŋ ok] (ôông
ôôc), [ɔŋm ɔkp] (ong oc) / [ɔŋ ɔk] (oong ooc) và cả [iɲ ic] (inh ich) / [iŋ ik] (inh
ic), [uŋm ukp] (ung uc)/ [uŋ uk] (uung uuc), [ɤŋ ɤk] (âng âc) / [ɤŋ ɤk] (ơng ớc),
v.v.. Ngoài ra, hoàng loạt vần Nghệ Tĩnh có sự đối ứng chặt chẽ với TVVH ở
một bộ phận từ vựng mà phạm vi hoạt động của nó khá rộng và phổ biến hầu
hết khắp khu vực như: [aj] - [ɯɤj] (ngài - người), [uj] - [oj] (mui - môi), [u] [ɤw] (tru - trâu), [ɔj] - [uoj] (mói - muối), [i] - [ɤj] (chí - chấy), v.v.. Nét địa
phương trong hệ thống vần cái chủ yếu thể hiện ở yếu tố đỉnh vần nguyên âm
tính, còn như các yếu tố kết vần gần như bảo toàn nguyên vẹn.
b. Về từ vựng
Phương ngữ Nghệ Tĩnh có vốn từ vựng hết sức phong phú, đa dạng,
trong đó có những tư cổ như: chiềng, chạ, ỏi, min, tru, nác, lịp; những từ chỉ
các sản vật địa phương như: nhút, nham, lớ, cư đơ, lịp, tơi... Vốn từ vựng
PNNT có thể chia ra:
- Từ ngữ âm: phót (vọt), bục (mục), triều (chiều), lạt (nhạt), lộ (chỗ), lổ
(trổ), đàng (đường), mọi (muỗi), vưng (vừng), v.v..
- Từ ngữ nghĩa: có thể phân chia các trường nghĩa khác nhau như
trường nghĩa chỉ công cụ gia đình, chỉ thực vật, chỉ nghề cá, chỉ ăn mặc, chỉ
thời gian, các loại bánh, các bộ phận cơ thể, màu sắc, cách xưng hô, v.v..
Về ngữ nghĩa, các từ PNNT không thể đối chiếu ngữ nghĩa với TVVH
một cách đơn giản, Chẳng hạn như mần với làm, trong PNNT, mần không chỉ
tương đương về mặt nghĩa với làm mà còn có thể dùng như đi, ăn, uống, sắm,
cầm, mặc, gánh, chạy, đánh, v.v. trong tiếng Việt toàn dân. Tính đa nghĩa của
từ là nét đặc trưng khá nổi bật trong từ vựng Nghệ Tĩnh.


24
1.3. Ngôn ngữ học xã hội

1.3.1. Sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội
Ngôn ngữ và xã hội có quan hệ gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó,
cách tiếp cận xã hội đối với các sự kiện ngôn ngữ đã được đặt ra từ lâu.
Nhưng với tư cách là một bộ môn ngôn ngữ học xã hội thì mới ra đời và
phát triển từ những năm 60 của thế kỉ XX. Ngôn ngữ học xã hội ra đời như
là sự bù đắp những thiếu hụt của ngôn ngữ học truyền thống. Chẳng hạn,
nếu chỉ dựa vào lí thuyết của ngôn ngữ học truyền thống thì không thể giải
thích thấu đáo hàng loạt những diễn biến ngôn ngữ dưới tác động của nhân
tố xã hội. Rõ ràng, nếu không dựa vào các nhân tố xã hội - ngôn ngữ mà chỉ
thuần tuý dựa vào hệ thống - cấu trúc ngôn ngữ thì không thể lí giải nổi các
hiện tượng ngôn ngữ đang hiện hữu một cách sống động trong đời sống xã
hội. Đặc biệt, trong những năm gần đây, do lượng dân cư ở khắp nơi với đủ
thành phần mang theo ngôn ngữ của các phương ngữ, thổ ngữ và phương
ngữ xã hội gắn với địa vị xã hội tràn vào các thành phố đã làm cho ngôn ngữ
đô thị trở nên vô cùng phức tạp. Nếu không dựa vào nhân tố xã hội - ngôn
ngữ để tìm ra các quy luật biến động của chúng thì sẽ vội vàng đi đến các
kết luận rằng ngôn ngữ đô thị là một thứ ngôn ngữ hỗn tạp. Một số nhà
nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội cho rằng, thành thị chính là nơi bắt nguồn
của sự biến đổi ngôn ngữ.
Ngôn ngữ học xã hội, với đối tượng nghiên cứu là ngôn ngữ giao tiếp
trong đời sống hàng ngày, đã phá vỡ cái khung lấy lời nói chuẩn mực làm tư
liệu nghiên cứu. Thực tế cho thấy, sự khác nhau giữa những người giao tiếp
về đặc trưng xã hội, mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể giao tiếp, hoàn
cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp,… đã hình thành các biến thể ngôn ngữ
giao tiếp khác nhau. Giữa các biến thể này lại có quan hệ đan chéo với nhau
tạo nên một mạng các quan hệ. Như vậy, mô hình ngôn ngữ của ngôn ngữ học


25
xã hội là trong hệ thống có các biến động, và những sự biến động đó lại lần

lượt tạo thành các tiểu hệ thống. Chẳng hạn, dựa vào đặc điểm của sự phân
tầng xã hội trong sử dụng ngôn ngữ, người ta có thể gọi ngôn ngữ của sinh
viên, trong đó, nó vừa có những đặc điểm chung với ngôn ngữ của các tầng
lớp xã hội khác nhưng lại có những đặc điểm riêng có có ở ngôn ngữ sinh
viên. Nhưng ngay trong ngôn ngữ sinh viên, lại có thể chia thành các nhóm
nhỏ hơn với những nét đặc trưng nhờ vào sự khác nhau như ngành học, lứa
tuổi, giới tính, thành phần xuất thân, v.v.. Chẳng hạn, một nhóm sinh viên học
chuyên ngành Sư phạm Ngữ văn, Trường đại học Vinh, cùng lứa tuổi, có thể
cùng giới tính, cùng thảo luận một vấn đề trên lớp, nhưng mỗi sinh viên đều
mang vào trong ngôn ngữ giao tiếp của mình những nét riêng do quê gốc khác
nhau: sinh viên người Diễn Châu sẽ nói khác sinh viên quê ở Nam Đàn,
Thanh Chương, Đô Lương, v.v..
Có thể nói, nhờ có ngôn ngữ học xã hội mà đã liên kết được các nhân tố
xã hội để nghiên cứu ngôn ngữ, giúp cho việc xử lí hàng loạt vấn đề ngôn ngữ
trong sử dụng, góp phần vào việc định hướng sử dụng ngôn ngữ như chuẩn
hoá ngôn ngữ, giảng dạy song ngữ, v.v..
1.3.2. Biến thể ngôn ngữ và cộng đồng nói năng
Đơn vị nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội là biến thể. Theo tác giả
Nguyễn Văn Khang: “Biến thể ngôn ngữ có thể được hiểu là hình thức biểu
hiện của ngôn ngữ được sử dụngtrong hoàn cảnh xã hội giống nhau với các
đặc trưng xã hội giống nhau” [35, tr.30]. Vì nghiên cứu tất cả các hiện tượng
ngôn ngữ mang tính xã hội, cho nên, so với ngôn ngữ học truyền thống, phạm
vi nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội rộng lớn hơn nhiều. Thứ nhất, là tất cả
các hiện tượng ngôn ngữ liên quan đến xã hội như đa ngữ xã hội, phương ngữ
xã hội, sự khác biệt ngôn ngữ nảy sinh do sự khác biệt về giới tính, tuổi tác,
các biến thể chức năng được hình thành trong quá trình sử dụng ngôn ngữ,


×