Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với cam kết mở cửa thị trường khi đã là thành viên của tổ chức Thương mai
Thế giới, Việt Nam đứng trước nguy cơ phải đương đầu với nhiều đối thủ
cạnh tranh, rồi rào về nguồn vốn, kỹ năng, kinh nghiệm, với nhiều chiến
lược mang tầm cỡ quốc tế để có thể chiếm được phần lớn thị phần của các
đối thủ. Đứng trước khó khăn này để không bị con sóng thần cuốn trôi các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải nỗ lực hết mình, tìm mọi phương án, biện
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể bỏ xa những
đối thủ cạnh tranh trong thời kỳ mở cửa. Để làm được điểu này cần phải có
sự nỗ lực hết sức lớn lao của Nhà Nước và các doanh nghiệp Viêt Nam. Trên
ý nghĩa đó việc nghiên cứu đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của
trung tâm phân thối thời trang Winny (thuộc Công Ty Cổ Phần Tập Đoàn
Phú Thái) trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO” Sẽ góp phần
quan trọng để các doanh nghiệp Việt Nam dần dần hòa nhập với xu thế toàn
cầu hóa, đề tài này có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong giai đoạn Việt Nam là
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng
phân phối thời trang của Trung tâm phân phối thời trang thuộc Công ty cổ
phần tập đoàn Phú Thái.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để thực hiện được mục đích trên, đề tài sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau
đây:
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh của một
doanh nghiệp.
• Phân tích và đánh giá thực trạng về năng lực cạnh tranh của trung tâm
phân phối thời trang khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), từ đó nhận định những ưu điểm, các tồn tại và
cũng như những nguyên nhân của những tồn tại đó trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh của Trung tâm.
• Từ định hướng chiến lược của Trung tâm phân phối thời trang trong
việc nâng cao năng lực cạnh tranh, chiếm thị phần lớn trên thị trường,
và những cam kết mở cửa khi tham gia vào WTO của Việt Nam. Trên
cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho
trung tâm phân phối thời trang.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối, cụ thể là năng lực cạnh tranh của
trung tâm phân phối thời trang Winny (thuộc công ty cổ phần tập đoàn Phú
Thái).
4. Kết cấu của bài viết
Ngoài lời mở đầu và kết luận, toàn bộ nội dung cấu bài viết được chia làm
ba chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp, và sự cần
thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh cảu các doanh nghiệp Việt Nam
trong lĩnh vực phân phối
Chương II : Thực trạng năng lực cạnh tranh của Trung tâm phân phối thời
trang trong thời gian qua.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương III : Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của trung tâm
phân phối thời trang trong điều kiện Việt Nam là thành viên của WTO.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP, VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
LĨNH VỰC PHÂN PHỐI
1.1. Lý luận chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
1.1.1. Khái niệm và bản chất của cạnh tranh
Cạnh tranh theo nghĩa thông thường là ý thức và hành động "cố gắng giành
phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm
những lợi ích như nhau”
Cạnh tranh kinh tế xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình
hình thành, phát triển của sản xuất hàng hoá và trở thành một đặc trưng cơ
bản của cơ chế thị trường. Hành vi cạnh tranh gắn liền với các chủ thể kinh
tế và chịu sự tác động của các quy luật trên thị trường. Do đó, cần thiết phải
nhận thức đầy đủ tính chất cũng như tác động của hành vi này đối với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng của đất nước.
Có thể nhận thấy, cạnh tranh là hành vi giải quyết mâu thuẫn lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể, bằng mọi biện pháp, thủ đoạn đấu tranh, ganh đua
giành lấy những điều kiện sản xuất, tiêu thụ có lợi nhất nhằm tối đa hoá lợi
ích cho mỗi chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Theo đó, nguồn gốc của
hiện tượng cạnh tranh gắn liền với điều kiện tồn tại của sản xuất hàng hoá,
mà trực tiếp là sự độc lập về mặt lợi ích của các chủ thể kinh tế trong nền
sản xuất xã hội. Bản chất của cạnh tranh phản ánh quan hệ kinh tế giữa các
chủ thể của nền kinh tế hàng hoá cùng theo đuổi mục đích tối đa hoá lợi ích
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cá nhân. Do đó, cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh
tế giữa các chủ thể của thị trường. Cạnh tranh gắn liền với sự vận động của
các quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, tạo thành cơ chế vận động của nền
kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là một quy luật kinh tế, là môi
trường và động lực phát triển của kinh tế thị trường. Nhờ có cạnh tranh mà
trình độ công nghệ, năng suất lao động không ngừng được nâng cao, thúc
đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng dẫn đến
mặt trái là hiện tượng phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế, phân hoá
giàu nghèo, kinh doanh gian dối cùng nhiều tệ nạn xã hội và hậu quả tiêu
cực khác.
Nhìn chung, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh giữa các công ty
với nhau là không thể tránh khỏi, chỉ có điều là tùy vào hoàn cảnh, tình hinh
kinh tế mỗi nước mà mức độ cạnh tranh đó là lớn hay nhỏ.
Để hiểu rõ được cạnh tranh là gì, thì phải xem xét đến bản chất của
cạnh tranh. Vậy bản chất cạnh tranh là gì?
Thứ nhất, bản chất cạnh tranh là nói đến sự đua tranh của nhiều chủ thể
cùng tham gia thị trường nhằm giành phần thắng (thị phần, lợi nhuận) về
phía mình. Nếu chỉ có một chủ thể (độc quyền) trên thị trường thì không có
cạnh tranh, nhưng nếu có nhiều chủ thể theo đuổi những mục tiêu khác nhau
thì cũng có rất ít áp lực cạnh tranh.
Thứ hai, Trong bản chất cạnh tranh thì đối tượng cạnh tranh rất
phong phú, có thể là chiếm lĩnh các yếu tố đầu vào, các nguồn lực, giành vị
trí độc quyền về khoa học - công nghệ, chi phối hay thống trị thị trường tiêu
thụ, giành giật các cơ hội đầu tư, ký kết các hợp đồng kinh tế có lợi…
Thứ ba, Bản chất của cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích bảo đảm cho sự
tồn tại và phát triển của mỗi chủ thể. Tuỳ thời điểm kinh doanh mà mục tiêu
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cụ thể có thể là xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường hay mở rộng thị phần đã có
hoặc là lợi nhuận tối đa. Để đạt được mục tiêu đó, các chủ thể phải sử dụng
các biện pháp đua tranh về kinh tế - kỹ thuật là chủ yếu và điều này có tác
dụng to lớn đối với sự tiến bộ kinh tế - xã hội, góp phần thải loại những yếu
tố lỗi thời, kém hiệu quả. Vì lẽ đó mà cạnh tranh được coi là sự phá huỷ
mang tính sáng tạo.
Thứ tư, Trong bản chất cạnh tranh hàm chứa phương thức hay công
cụ cạnh tranh rất phong phú, đa dạng và mỗi công cụ có thế mạnh riêng như
cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng, tính độc đáo, dị biệt của sản phẩm, cạnh
tranh bằng hệ thống phân phối, dịch vụ hoặc cách thức thanh toán, cạnh
tranh bằng cả biện pháp kinh tế và phi kinh tế…
1.1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực lực và lợi thế
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các
đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn. Như vậy, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được tạo ra từ thực lực của
doanh nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ
được tính bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản
trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối
tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường.
Sẽ là vô nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp
được đánh giá không thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối
tác cạnh tranh. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh,
đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với đối tác của mình.
Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách
hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn
đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi
thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vần đề cơ bản là, doanh nghiệp
phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà
mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Những
điểm mạnh và điểm yếu bên trong một doanh nghiệp được biểu hiện thông
qua các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài
chính, sản xuất, nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin…Tuy
nhiên, để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, cần phải xác
định được các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt
động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định
lượng. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành,
lĩnh vực khác nhau có các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau.
Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp bao gồm: giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất
lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối sản phẩm và dịch vụ bán hàng;
thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực nghiên cứu và phát triển; thương
hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ lao động; thị phần sản phẩm doanh
nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị thế tài chính; năng lực tổ chức và
quản trị doanh nghiệp.
Nhiều doanh nghiệp hiện nay, thông qua phương pháp so sánh trực
tiếp các yếu tố nêu trên để đánh giá năng lực cạnh tranh của mình so với đối
tác cạnh tranh. Đây là phương pháp truyền thống và phần nào phản ánh được
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp
này là không cho phép doanh nghiệp đánh giá tổng quát năng lực cạnh tranh
của mình với đối tác cạnh tranh mà chỉ đánh giá được từng mặt, từng yếu tố
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cụ thể. Để khắc phục nhược điểm trên, việc nghiên cứu vận dụng ma trận
đánh giá các yếu tố môi trường nội bộ, qua đó giúp doanh nghiệp so sánh
năng lực cạnh tranh tổng thể của mình với các đối thủ trong ngành là một
giải pháp mang tính khả thi cao.
Tóm lại, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là một tất
yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nếu
không làm được điều này, doanh nghiệp không chỉ thất bại trên “sân khách”
mà còn gánh chịu những hậu quả tương tự trên chính “sân nhà”. Để nâng cao
năng lực cạnh tranh thì một trong những công việc mà doanh nghiệp cần làm
là chủ động đánh giá thực lực kinh doanh của mình và tìm ra những điểm
mạnh cơ bản để phát huy những điểm mạnh đó, nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong thị trường.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp
1.1.3.1. Chỉ tiêu phản ánh quy mô hoạt động của doanh nghiệp
Nếu doanh nghiệp có quy mô lớn là cơ sở để thực hiện tốt các hoạt động, hạ
chi phí đơn vị sản phẩm, phát triển mở rộng quy mô, tạo thế cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì phải
chấp nhận bất lợi về chi phí, rất khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp
có lợi thế hơn về quy mô.
Thông thường khi xem xét quy mô các doanh nghiệp thì căn cứ vào
chỉ tiêu quy mô vốn; quy mô lao động; quy mô về doanh thu, thị phần lớn
hay nhỏ... Cụ thể, đối với các doanh nghiệp kinh doanh phân phối quy mô
thường được xác định theo 2 chỉ tiêu cơ bản:
Thứ nhất, Thị phần luôn luôn ở múc độ tăng trưởng ổn định sẽ là yếu
tố côt lõi để quyết định sự thành công hay thất bại, sự tồn tại và phát triển
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của công ty, từ đó làm uy tín công ty sẽ cao hơn và khả năng cạnh tranh sẽ
cao hơn.
Thứ hai, tổng doanh thu/vốn. Quy mô doanh thu trên vốn càng lớn,
năng lực cạnh tranh càng cao. Ngoài ra còn quan tâm đến cơ cấu doanh thu
từng loại dịch vụ mà công ty cung cấp.
Chỉ tiêu tổng doanh thu/vốn lớn thể hiện phần nào ưu thế dịch vụ và
khả năng chiếm lĩnh thị trường của công ty lớn so với các công ty khác, mặt
khác còn thể hiện khả năng nắm giữ, duy trì thị phần, gia tăng lợi nhuận, bảo
đảm sự duy trì và phát triển bền vững của doanh nghiệp, biểu hiện khả năng
cạnh tranh của công ty có ưu thế. Ngược lại quy mô về tổng doanh thu/vốn
nhỏ thì khả năng cạnh tranh của công ty yếu hơn.
1.1.3.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng, hiệu quả hoạt động
Chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là chỉ tiêu dùng để đánh
giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và cả
tương lai.
Chất lượng, hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các nguồn lực để
đạt được mục tiêu xác định. Nó là phạm trù phản ánh chiến lược của các
hoạt động kinh doanh, được đo bằng số tương đối: hiệu quả kinh doanh và
hiệu quả kinh tế - xã hội tuy có khác nhau song chúng có quan hệ mật thiết
với nhau. Nếu doanh nghiệp có được hiệu quả kinh doanh cao thì sẽ góp
phần làm cho hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Hiệu quả kinh tế - xã hội gắn
liền với nền kinh tế và được xem xét ở góc độ quản lý vĩ mô. Mọi doanh
nghiệp cần phải tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Muốn
vậy, doanh nghiệp phải tạo ra sản phẩm phù hợp với đòi hỏi của người tiêu
dùng, nghĩa là sản phẩm có chất lượng tốt, chi phí thấp. Muốn có chất lượng
tốt, chi phí thấp doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ sản
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xuất và công nghệ quản lý, sử dụng tối ưu các nguồn lực, tạo ra năng suất
cao. Và như vậy, doanh thu và lợi nhuận sẽ không ngừng tăng lên tạo điều
kiện cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có hiệu quả kinh doanh cao, lợi nhuận cao thì nội bộ
của doanh nghiệp ổn định, mọi thành viên an tâm làm việc, toàn tâm toàn ý
vì lợi ích của doanh nghiệp, trong đó có lợi ích của chính bản thân họ. Sự ổn
định đó cũng mang lại lợi ích lơn cho doanh nghiệp do giảm chi phí ẩn của
sản xuất
1.1.3.3. Chỉ tiêu phản ánh sự đổi mới trong hoạt động
Không một doanh nghiệp có được năng lực cạnh tranh cao mà lại chỉ luôn
luôn áp dụng một hoạt động trong quá trình kinh doanh của mình, các công
ty đó phải luôn luôn có sự đổi mới trong qua trình hoạt động của mình, vì
diễn biến tình hình thay đổi nhu cầu của thế giới ngày càng nhanh, để đáp
ứng được nhu cầu thay đổi ngày càng nhanh đó thì doanh nghiệp phải linh
hoạt, có những thay đổi phù hợp với những thay đổi của khách hàng, đối thủ
cạnh tranh.
Một doanh nghiệp luôn có những ứng biến linh hoạt trước biến động
của thị trường thì thường có được sự chủ động khi ra các quyết định về kinh
doanh, sự chủ động này sẽ giúp công ty thu được nhiều lợi ích cho mình hơn
đối thủ cạnh tranh nếu đối thủ là kẻ chậm chạp.
Đổi mới mới hoạt động của các doanh nghiệp cụ thể là đổi mới trong
chiến lược, đổi mới sản phẩm cũng như hệ thống phân phối để đáp ứng
nhanh nhạy yêu cầu của thị trường.
1.1.3.4. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng nguồn nhân lực
Nhân lực là nguổn rất quan trọng vì nó sáng tạo ra các nguồn lực khác.
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp là vốn quý nhất. Trình độ của nguồn nhân
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của
nhân viên, công nhân, trình độ tư tưởng văn hóa của mọi thành viên. Trình
độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao sẽ bán được nhiều hơn, với giá cạnh
tranh hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng, uy tín và danh tiếng
của doanh nghiệp ngày càng lớn. Nhờ uy tín và danh tiếng đó mà doanh
nghiệp có điều kiện phát triển thị trường, mở rộng quy mô, góp phần làm
cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngày càng được nâng lên.
Theo điều tra cho thấy các doanh nghiệp của Mỹ, EU, Nhật Bản
Singapore, có tính cạnh tranh rất cao là do họ có được nguồn nhân lực được
đào tạo một cách chuyên nghiệp, họ đã chú trọng tới việc tri thức hóa nguồn
nhân lực, phát triển khả năng sáng tạo của con người để tạo ra lợi thế cạnh
tranh mạnh, giành được ưu thế trên thị trường.
1.1.3.5. Chỉ tiêu phản ánh mức độ chấp nhận của thị trường đối với sản
phẩm dịch vụ của doanh nghiệp.
Mức độ chấp nhận của thị trường đối với sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp là một chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp đó với đối thủ cạnh tranh. Sự chấp nhận của thị trường đó là
sự ưu chuộng sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp đưa ra, để nói lên sự tồn
tại và phát triển của sản phẩm đó trong hiện tại và tương lai.
Mức độ chấp nhận của thị trường càng cao thì doanh nghiệp đó càng
có năng lực cạnh tranh cao, Mức độ chấp nhận của thị trường đối với sản
phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp có thể được chia làm ba loại:
Loại thứ nhất: đó là mức chấp nhận chết, tức là sản phẩm và dịch vụ
mà doanh nghiệp đưa ra trên thị trường, không được người tiêu dùng biết
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đến hoặc biết nhưng biết rất ít và khả năng tiêu thụ sản phẩm ấy là hạn chế
có thể coi là bằng không.
Loại thứ hai: Mức chấp nhận tồn tại, tức là sản phẩm và dịch vụ của
doanh nghiệp tung ra thị trường, được người tiêu dùng sử dụng nhưng mà
không nhiều, sản phẩm, dịch vụ tung ra trên thị trường chỉ đủ trả những chi
phí để làm ra sản phẩm và dịch vụ đó mà không sinh lời hoặc sinh lời rất ít.
Loại thứ ba: Múc chấp nhận phát triển, tức là sản phẩm và dịch vụ của
doanh nghiệp khi tung ra thị trường được nhiều người hưởng ứng, tốc độ bán
hàng nhanh, khả năng sinh lời cao, mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể lấy số
lợi nhuân đó để nâng cấp và tái đầu tư.
Nếu như mức chấp nhận của thị trường ở loại một và loại hai thì
chứng tỏ doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh kém cần phải nâng cấp.
nếu doanh nghiệp nào có được mức chấp nhận của thị trường ở loại ba
chứng tỏ doanh nghiệp đó có khả năng cạnh tranh cao.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lục cạnh tranh của doanh nghiệp
Với cách tiếp cận này, khi nghiên cứu giải pháp nâng cao nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp thì không thể không nghiên cứu cả các nhân tố
bên trong và bên ngoài tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bao gồm:
1.1.4.1 Nhân tố bên trong (nội sinh)
Về cơ bản, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện nay thường bị ảnh
hưởng một số nhân tố bên trong (tự thân doanh nghiệp) tác động như sau:
Quy mô hoạt động của doanh nghiệp
Quy mô hoạt động đó là nhân tố nội sinh quan trọng để phản ánh đến năng
lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, quy mô hoạt động càng lớn chính tỏ
công ty có ảnh hưởng càng cao tới các đối thủ cạnh tranh cũng như uy tín
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của công ty với khách hàng, mà những sản phẩm của công ty có uy tín lớn
chính là sự lựa chọn của người tiêu dùng, điều này sẽ làm tăng thị phần, tăng
doanh số, cũng như tăng năng lực cạnh tranh của công ty với các đối thủ.
Trong lĩnh vực phân phối các công ty có quy mô hoạt động lớn tầm cỡ
quốc tế như: Wal Mart (Mỹ), Metro Cash&Carry (Đức) Do Burberry (Anh),
Seven Elevent (Thái Lan)… đây là những nhà phân phối đã hoạt động lâu
năm trong lĩnh vực phân phối, thị phần và doanh số của họ thường rất cao
chiếm 1/3 đến 1/4 thị trường trong nước.
Riêng lĩnh vực phân phối thời trang thì ở nước ta có các hãng như:
Kico, Ninomax, Blue exchance, PT 2000, Prestige Vietnam… đó là những
hãng phân phối thời trang quy mô lớn có tầm ảnh hưởng mạnh, thị phần của
họ rất là lớn. Cũng là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Trung tâm phân phối
thời trang Winny.
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp
Chiến lược kinh doanh là nhân tố nội sinh mà doanh nghiệp có thể điều
chỉnh được, nhân tố chiến lược kinh doanh ảnh hưởng rất lớn tới năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Một công ty có chiến lược đúng đắn phù hợp,
sã làm cho công ty đó phát triển mạnh mẽ, sự phát triển này là động lực là
tiền đề để công ty từ đó phát triển hơn nữa, giành nhiều thị phần tăng doanh
thu, thu hút khách hàng dẫn đến năng lực cạnh tranh càng cao.
Trung tâm phân phối thời trang Winny đã có nhiều chiến lược đúng
đắn như: chiến lược phân phối, chiến lược tìm đại lý giảm chiết khấu, đã làm
cho doanh thu của Trung tâm tăng một cách đáng kể tư năm 2003 đến năm
2007 cụ thể như sau: doanh thu của năm 2003 là 10 tỷ đồng đến năm 2007
đã là 100 tỷ đồng (nguồn: Business plan – DC3 – Phạm Thanh Hằng 2007)
trong vòng có 5 năm doanh thu đã tăng gấp 10 lần, số các nhà đại lý cũng
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tăng đáng kể, năm 2003 có 475 đại lý phân phối đến năm 2007 đã là 2560
đại lý tăng 5,4 lần trong vòng 5 năm.
Xây dựng và bảo vệ thương hiệu
Thương hiệu là một trong nhũng nhân tố nội sinh nhưng lại được do khách
hàng, đối thủ cạnh tranh đánh giá là thành phần không thuộc môi trường bên
trong của doanh nghiệp. Chính điều này nói lên thương hiệu là nhân tố phản
ảnh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp một cách khách quan nhất, một
thương hiệu tốt tức là một sự bảo đảm vô hình với những hàng hóa do công
ty đó sản xuất hay phân phối đến với người tiêu dùng. Khách hàng lựa chọn
một sản phẩm của một hãng phân phối mang thương hiệu lớn họ sẽ an tâm
về chất lượng cũng như sự chăm sóc khách hàng của công ty đó, không
những họ được sản phẩm tốt mà họ còn được hưởng cả những hàng hóa vô
hình như sự tôn vinh, sự sành điệu đây chính là giá trị tâm lý mà họ lựa chọn
hàng hóa của một thương hiệu lớn, điều này nói lên một thương hiệu lớn là
một năng lực cạnh tranh cao.
Công tác nghiên cứu thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
Nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu là một nhân tố nội sinh phản ánh
năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, một doanh nghiệp không thể nào
đáp ứng được hết tất cả các nhu cầu của người tiêu dùng được, cũng như một
sản phẩm không thể đáp ứng được hết nhu cầu của người già người trẻ hay
thanh niên được, chính vì vậy việc lựa chọ một thi trường mục tiêu trên cơ
sở đã nghiên cứu thị trường đó kỹ là một chiến lược đúng đắn của công ty.
Lựa chọn một thị trương mục tiêu rồi dùng cách thức chiếm hết thị phần của
thị trường đó thường là một chiến lược đúng đắn của các doanh nghiệp nhằm
tăng lợi nhuận của công ty đó và cũng làm tăng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp đó.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trung tâm phân phối thời tranh Winny lựa chọn thị trường mục tiêu
hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam đó là thời trang đồ lót, đồ ngủ, áo bơi, thời
trang công sở, thời trang dạo phố và các thời trang khác. Trung tâm đã
nghiên cứu rất kỹ thị trường Việt Nam, và đã là người đi đâu trong thị
trường này, nhằm thu hút hết thị phần và từ đó mở rộng mặt hàng kinh
doanh.
Năng lực quản lý và điều hành
Trình độ quản lý và điều hành là nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc
xem xét năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có quản lý và điều hành tố
doanh nghiệp sẽ làm tốt mọi việc. Nếu các yếu tố khác tốt mà quản lý và
điều hành tồi thì hoạt động của doanh nghiệp chác chắn không đạt hiệu quả.
Khi hoạt động của doanh nghiệp không tốt sẽ ảnh hưởng đến uy tín cũng
như chiến lược của công ty và cũng làm ảnh hưởng rất lớn tới năng lực cạnh
tranh của công ty.
Quản lý và điều hành chính là công việc của đội ngũ nhân lực hay nói
cách khác là công việc của các nhà lãnh đạo, điều này phải có sự gắn kết
chặt chẽ giũa các cấp lãnh đạo và các phòng ban chức năng, sự gắn kết này
càng cao thì mức độ giải quyết công việc sẽ trơn tru hơn.
Đối với lĩnh vực phân phối sự quản lý và điều hành này càng phải chặt
chẽ hơn không sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức hay tiền của, vì sự điều
hành phải gắn với một quá trình từ khi hình thành hệ thống phân phối tới khi
phát triển hệ thống này lên nữa, khi hình thành cần phải đi những bước đi
vững chắc, khi phát triển trên cở sở buớc đầu vững chắc đó tiến một bước
dài, khi hệ thống phân phối đã đi vào quy trình chặt chẽ thì Trung tâm sẽ dễ
hơn trong việc mở rộng quy mô tăng doanh số và phát triển các mặt hàng
chiếm nhiều thị phần hơn, làm tăng năng lực cạnh tranh của Trung tâm lên.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một nhân tố quan trọng bậc nhất của một tổ chức nó
quyết định nhiều nhất tới năng lực cạnh tranh của công ty, vì nguồn nhân lực
sẽ tạo ra tất cả các nhân tố trên như: quản lý và điều hành, đưa ra và thực
hiện chiến luợc kinh doanh, nghiên cứu và mở rộng thị trường, lựa chọn thị
trường mục tiêu.
Một công ty có đội ngũ nhân lực với trình độ cao sẽ làm giảm bớt
được thời gian thực hiện công việc, sự gắn kết của những người có trình độ
cao sẽ đa dạng và chuẩn xác hơn. Như cấp trên giao nhiệm vụ cho cấp dưới,
cấp dưới có trình độ cao sẽ làm giải quyết công việc đó một cách nhanh
chóng nhờ đó mà công ty sẽ tăng được năng suất lao động, tiết kiệm được
thời gian, từ đó làm tăng lợi thế cạnh tranh cho công ty.
1.1.4.2. Nhân tố bên ngoài (ngoại sinh)
Nhân tố bên ngoài là những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát của công ty,
mà có ảnh hưởng tới công ty. Sau đây là những nhân tố bên ngoài có
ảnh hưởng tói năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Khách hàng
Khác hàng là nhân tố ngoại sinh hàng đầu ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực
cạnh tranh của một doanh nghiệp. Vì họ là mục tiêu của tất cả các công ty,
khách hàng là người đánh giá sản phẩm của mình một cách tốt nhất, doanh
nghiệp nào đáp ứng được những đòi hỏi của khách hàng một cách tốt nhất
thì doanh nghiệp đó càng có lợi thế cạnh trang cao. Một doanh nghiệp có
càng nhiều khách hàng thì chứng tỏ doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh
càng cao, nhiều khách hàng doanh thu cao, thị phần cao dẫn đến uy tín cao
năng lực cạnh tranh cao.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khách hàng đa dạng cũng sẽ làm doanh nghiệp tăng được năng lực
cạnh tranh. Chẳng hạn khách hàng của Trung tâm đó là một công ty lớn tầm
cỡ quốc tế như Viettel, Trung Nguyên… hay một công ty nước ngoài danh
tiếng như Ulilever, Acnalseln… Cho tất cả các nhân viên ăn mặc quần áo
thời trang do Trung tâm phân phối, nhờ danh tiếng và uy tín của họ khi
người tiêu dùng biết đến sẽ làm tăng được uy tín và danh tiếng của Trung
tâm lên một bậc.
Số lượng doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành
Số lượng doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành là nhân tố bên ngoài có ảnh
hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu một thị trường có
nhiều doanh nghiệp tham gia vào sẽ làm tăng cường độ cạnh tranh lên, tăng
áp lực cạnh tranh, hay là phải chia sẻ thị phần nhiều hơn. Sự so sánh về
năng lực cạnh tranh cũng sẽ tăng lên khi số lượng các doanh nghiệp tăng
lên.
Khi một thị trường càng nhiều doanh nghiệp tham gia thì mức độ cạnh
tranh càng cao, lúc này đối thủ cạnh tranh nhiều, làm cho sự lựa chọn của
khách hàng sẽ bị loãng ra, như vậy việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng
càng phải cao hơn để giành lại thị phần cho doanh nghiệp. Nhưng đây cũng
là cơ hội để cho doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh của mình nếu đáp
ứng được những mong muốn của khách hàng tốt hơn đối thủ cạnh tranh, vì
thị phần lúc này sẽ được chia làm nhiều mảng nhỏ, nếu như thị phần của
mình mà không đổi khi số lượng các doanh nghiệp tăng lên thì tức là những
đối thủ cạnh tranh kia sẽ bị mất đi thị phần của minh, dẫn đến lợi thế của
các đối thủ sẽ giảm đi, năng lực cạnh tranh sẽ yếu hơn.
Những nhân tố bên ngoài khác
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Môi trường kinh tế cũng có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp, chẳng hạn như tình hình kinh tế không ổn định làm lạm phát tăng
cao điều này sẽ làm giảm sức mua của người tiêu dùng, đồng nghĩa với
doanh nghiệp giảm doanh số bán hàng ảnh hưởng tới chiến lược kinh doanh
của công ty, ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của công ty với các đối thủ
cạnh tranh nước ngoài. Vì lạm phát trong nước tăng sẽ làm cho công ty phát
triển chậm lại vì sức mua giảm, nhưng so với các đối thủ nước ngoài thì tình
hình kinh tế của nước đối thủ ổn đinh, đối thủ sẽ phát triển tốt hơn các doanh
nghiệp trong nước, như vậy làm cho các đối thủ nước ngoài tăng được năng
lực cạnh tranh vi họ phát triển ổn định.
Những lời nhận xét của báo chí hay những người nổi tiếng đối với sản
phẩm của doanh nghiệp khi họ có thiện cảm cũng sẽ làm tăng được năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp đó. Nhờ vào sự nổi tiếng của họ mà người tiêu
sẽ có thiện cảm với những gì mà thần tượng của họ cho là đúng điều này
cũng ảnh hưởng không nho tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nói tóm lại nhân tố bên trong và bên ngoài là hai yếu tố ảnh hưởng tới
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, Nhân tố bên trong phụ thuộc vào:
Quy mô hoạt động, chiến lược kinh doanh, công tác nghiên cứu và triển khai
sản phẩm, chất lượng nguồn nhân lực… Nhân tố bên ngoài bao gồm: khách
hàng, số lượng doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành… những nhân tố này
các doanh nghiệp lên xem xét và tận dụng nhằm giúp doanh nghiệp có bước
đi đúng đắn trong việc năng cao năng lực cạnh tranh của mình.
1.1.5. Các công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.5.1. Cạnh tranh bằng giá cả
Giá cả là một trong những công cụ hữu hiệu của doanh nghiệp nhằm để nâng
cao năng lực cạnh tranh. Giá cả phù hợp cũng là một cách để đáp ứng nhu
cầu của khách hàng, khi nhu cầu của khách hàng được đáp ứng thì họ sẽ tiêu
dùng sản phẩm của mình nhiều hơn và từ đó làm tăng doanh số, tăng thị
phần của doanh nghiệp, tăng năng lực cạnh tranh.
Nếu như xét tương quan cùng một sản phẩm, một doanh nghiệp bán
với giá rẻ hơn đối thủ cạnh tranh thì tất nhiên là doanh nghiệp đó được người
tiêu dùng lựa chọn sản phẩm của họ, vì thế đã làm tăng năng lực cạnh tranh
của họ.
Với những doanh nghiệp kinh doanh phân phối, giá cả được quyết
định rất nhiều, vì họ không phải là những nhà sản xuất họ phải đi tìm nguồn
đó là những nhà sản xuất, giá cả lúc này cũng đã bị đội lên vì không thể lắm
được chi phí sản xuất của họ là bao nhiêu, đây là một bất lợi lớn, với những
doanh nghiệp kinh doanh phân phối, họ sẽ phải cạnh tranh khốc liệt hơn đối
với những nhà sản xuất tự thân kinh doanh sản phẩm.
1.1.5.2. Cạnh tranh bằng sản phẩm
Sản phẩm là một công cụ nhằm giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình với đối thủ cạnh tranh. Sản phẩm mà doanh nghiệp có, đúng
với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, sẽ giúp doanh nghiệp bán được
nhiều hàng hơn, từ đó làm tăng doanh thu, tăn thị phần và tăng năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giá cả là phương thức tốt để doanh nghiệp giành thị phần cho mình,
nhưng sản phẩm cũng là công cụ tốt để nâng cao doanh thu cho doanh
nghiệp, với giá cả bằng nhau giữa hai sản phẩm, mà sản phẩm của doanh
nghiệp được đánh giá tốt hơn sẽ giúp doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh lớn.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối với doanh nghiệp kinh doanh phân phối giá cả ở trên là một e ngại
vì sẽ dễ bị đội giá lên, nhưng với sản phẩm thì khác, sản phẩm thì không thể
có sự khác biệt về chất lượng vì cùng sản xuất trên một dây chuyền. Nhưng
để bù lại sự mất mát về giá thì họ phải dùng sản phẩm đa dạnh hơn chất
lượng hơn để bù lại nhằm tăng năng lực cạnh tranh của mình với đối thủ tự
sản xuất sản phẩm và kinh doanh sản phẩm đó.
1.1.5.3. Cạnh tranh bằng uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp
Uy tín và danh tiếng một doanh nghiệp được hình thành không phải trong
một chốc một lát mà là bằng cả một quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì, theo
đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn của mình.
Uy tín, danh tiếng trước hết, được xây lên bằng con đường chất lượng:
Chất lượng của cả hệ thống quản lý của doanh ngiệp, chất lượng của ban
lãnh đạo, chất lượng của từng con người trong doanh nghiệp. Chất lượngcon
người (chất lượng lao động) được hình thành qua quá trình giáo dục, đào tạo
và rèn luyện; uy tín được xây dựng nên bằng chất lượng sản phẩm mà doanh
nghiệp tạo ra. Chất lượng sản phẩm phải thường xuyên ổn định, thường
xuyên được cải tiến, nâng cao và có sự khác biệt. Có như vậy sản phẩm mới
thường xuyên đáp ứng yêu cầu của người tiêu dung, mới là sản phẩm cá chất
lượng. Đó là quan niệm rất đơn giản, dẽ hiểu và cũng rất hiện đại.
Thứ hai, uy tín được xây đắp bằng sự đóng góp của doanh nghiệp và
sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội.
Thứ ba, là các dịch vụ đi kèm trước và sau khi bán sản phẩm. Đây là
yếu tố rất quan trọng của năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, làm tăng sụ
gần gũi, chăm sóc của người bán đối với người mua. Đây là việc làm thường
xuyên, người bán phải chăm sóc khách hàng như chăm sóc người thân của
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mình, không được từ chối bất cứ yêu cầu nào của khách hàng, phải phục vụ
khách hàng kịp thời và có chất lượng.
Thứ tư, để mọi người tiêu dùng biết tới mình, biết tới sản phẩm của
mình thì doanh nghiệp phải chú ý tới hoạt động Marketing và quảng cáo,
nếu sản phẩm thực sự tốt mà không quảng cáo thì người tiêu dùng không
biết để mua, hoặc có biết thì đã rất chậm, sản phẩm sẽ chậm được tiêu thụ.
Bởi vậy, doanh nghiệp cần phải quảng cáo.
Với doanh nghiệp kinh doanh phân phối sản phẩm, thì uy tín và danh
tiếng sẽ là phần quyết đinh nhiều nhất tới năng lực cạnh tranh của họ cũng
như sự tồn tại và phát triển của họ. Nhờ vào uy tín doanh nghiệp sẽ giúp
tránh được nhiều khuyết điểm về giá cả vì lúc này người tiêu dùng đã được
bù lại một sản phẩm vô hình đó là sự tôn trọng sự sành điệu khi dùng sản
phẩm của một doanh nghiệp danh tiếng trên thị trường.
Nhìn chung uy tín và danh tiếng của doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn
tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó, một doanh nghiệp có uy tín
cao, người tiêu dùng chỉ cần nghe thấy sản phẩm này thuộc công ty có uy tín
họ không cần e ngại tới chất lượng sản phẩm, cũng như cung cách chăm sóc
khách hàng, nhờ vậy mà thị phần cũng như doanh thu được tăng cao, góp
phần làm tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2. Một số mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong lich sử đã có rất nhiều các nhà kinh tế học đưa ra những lý thuyết về
năng lực cạnh tranh, với rất nhiều mô hình ma trận để đánh giá năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhưng tiêu biểu nhất vẫn là nhà kinh tế
học Mc. Kinsey với mô hình 7S và nhà kinh tế học Michael Porter với mô
hình 5 lực lượng cạnh tranh và mô hình phân tích yếu tố bên trong và bên
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngoài SWOT của hãng BCG để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
1.2.1. Mô hình về năng lực cạnh tranh 7S của Mc. Minsey
Hình 1.1: Mô hình 7S của Mc. Kinsey
Theo nhà kinh tế học Mc. Kinsey muốn có năng lực cạnh tranh thì hệ thống
tổng thể trong công ty gồm phần cứng như: Chiến lược, cấu trúc, hệ thống
và phần mềm: Phong cách quản lý, bộ máy nhân viên, kỹ năng tay nghề,
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
Chiến lược
(Strategy)
Hệ thống
(system)
Kỹ năng
tay nghề
(skills)
Bộ máy
nhân viên
(staffs)
Phong cách
quản lý
(style)
Cấu trúc
(structuve)
Những giá
trị được chia
sẻ (Share
values)
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những giá trị được chia sẻ, cần được vạn hành và kết hợp một cách linh hoạt
để có khả năng cạnh tranh trong các đoạn thị trường mục tiêu.
1.2.2. Mô hình 5 yếu tố cạnh tranh của Micheal Porter
Michael Porter nhà quản trị chiến lược nổi tiếng của trường đại học Harvard
trong cuốn sách "Competitive Strategy: Techniques Analyzing Industries
and Competitors" đã đưa ra nhận định về các áp lực cạnh tranh trong mọi
ngành kinh doanh.
Hình 1.2: Sơ đồ 5 yếu tố cạnh tranh của M. Porter
Nguồn: giáo trình marketinh cơ bản
A. Áp lực cạnh tranh của nhà cung cấp:
Số lượng và quy mô nhà cung cấp: Số lượng nhà cung cấp sẽ quyết định đến
áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành, doanh nghiệp.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
Đối thủ
tiềm ẩn
Nhà cung
cấp
Khách
hàng
Sản phẩm
thay thế
Cạnh tranh
nội bộ ngành
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp có quy mô lớn sẽ tạo áp lực
cạnh tranh, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
B. Áp lực cạnh tranh từ khách hàng:
Khách hàng là một áp lực cạnh tranh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành.
Khách hàng được phân làm 2 nhóm:
+Khách hàng lẻ
+Nhà phân phối
Cả hai nhóm đều gây áp lực với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng
sản phẩm, dịch vụ đi kèm và chính họ là người điểu khiển cạnh tranh trong
ngành thông qua quyết định mua hàng.
Tương tự như áp lực từ phía nhà cung cấp ta xem xét các tác động đến
áp lực cạnh tranh từ khách hàng đối với ngành.
+ Quy mô
+ Tầm quan trọng
+ Chi phí chuyển đổi khách hàng
+ Thông tin khách hàng
Đặc biệt khi phân tích nhà phân phối ta phải chú ý tầm quan trọng của
họ, họ có thể trực tiếp đi sâu vào uy hiếp ngay trong nội bộ của doanh
nghiệp.
Wal - Mart là nhà phân phối lớn có tầm ảnh hưởng toàn thế giới, có
đủ quyển lực để đàm phán với các doanh nghiệp khác về giá cả, chất lượng
sản phẩm cũng như các chính sách marketing khi đưa hàng vào trong hệ
thống của mình.
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, việc đưa các sản
phẩm vào hệ thống phân phối của các siêu thị luôn gặp phải khó khăn và trở
ngại vì các áp lực về giá và chất lượng.
C. Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn:
Theo M-Porter, đối thủ tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện chưa có mặt trên
trong ngành nhưng có thể ảnh hưởng tới ngành trong tương lai. Đối thủ tiềm
ẩn nhiều hay ít, áp lực của họ tới ngành mạnh hay yếu sẽ phụ thuộc vào các
yếu tố sau.
+ Sức hấp dẫn của ngành: Yếu tố này được thể hiện qua các chỉ tiêu như tỉ
suất sinh lợi, số lượng khách hàng, số lượng doanh nghiệp trong ngành.
+ Những rào cản gia nhập ngành: là những yếu tố làm cho việc gia nhập vào
một ngành khó khăn và tốn kém hơn.
1. Kỹ thuật
2. Vốn
3. Các yếu tố thương mại: Hệ thống phân phối, thương hiệu, hệ thống khách
hàng...
D. Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế:
Sản phẩm và dịch vụ thay thế là những sản phẩm, dịch vụ có thể thỏa mãn
nhu cầu tương đương với các sản phẩm dịch vụ trong ngành. Thời trang thì
thường là chạy theo mốt lên sản phẩm phải thay đổi thường xuyên để áp ứng
được thị hiếu tiêu dùng của khách hàng hàng ngày.
E. Áp lực cạnh tranh nội bộ ngành:
Các doanh nghiệp đang kinh doanh trong ngành sẽ cạnh tranh trực tiếp với
nhau tạo ra sức ép trở lại lên ngành tạo nên một cường độ cạnh tranh. Trong
một ngành các yếu tố sau sẽ làm gia tăng sức ép cạnh tranh trên các đối thủ
Sinh viên: Nguyễn Quang Công Lớp Kinh doanh quốc tế 46A
25