Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư tại NHTMCP Ngoại thương- Chi nhánh Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.89 KB, 73 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lêi më ®Çu
Ngày nay trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới, mỗi quốc gia đều đang nỗ lực
vươn lên tạo cho mình một vị thế vững mạnh trên trường quốc tế. Việt Nam đã đang từng
bước đi trên con đường hội nhập đó và đã bước đầu đạt được những thành tích đáng kể.
Đóng góp vào thành công đó không thể không kể đến sự nỗ lực, phấn đấu và vươn lên của
ngành ngân hàng.
Luôn sát cánh với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, với việc đi vay để cho vay,
hoạt động tín dụng của các NHTM đóng vai trò như chiếc cầu nối giữa những người thừa
vốn và những người thiếu vốn, góp phần to lớn vào việc đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì và
phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, khai thác sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế xã hội… Một trong những dạng tín
dụng quan trọng chủ yếu nhất của các NHTM là hoạt động cho vay các dự án đầu tư. Cũng
bởi lẽ các dự án đầu tư thường có thời gian thực hiện kéo dài, kéo theo thời gian sử dụng
vốn vay dài, trong thời gian thực hiện DAĐT chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khách
quan và chủ quan mà người ta không thể dự tính trước được nên hoạt động cho vay các
DAĐT luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao. Ngoài ra, lượng vốn vay của DAĐT thường lớn
nên nếu rủi ro xảy ra thì sẽ để lại hậu quả rất nặng nề đối với bản thân NHTM và đối với
cả nền kinh tế
Xuất phát từ những nhìn nhận nêu trên, cùng với những kiến thức đã học và tìm hiểu,
được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của TS Nguyễn Hồng Minh, tôi đã lựa chọn đề tài:
“Quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư tại NHTMCP Ngoại thương-
Chi nhánh Đồng Nai” làm đề tài cho đề án môn học.

Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ch ¬ng 1:
Những vấn đề lý luận chung về rủi ro và quản lý rủi ro
trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư tại NHTM
1.1 RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI
NHTM:


1.1.1 Khái niệm về rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT tại NHTM
Theo nghĩa truyền thống, trong hoạt động của NH rủi ro là những sự kiện hay biến cố
không mong đợi xảy ra dẫn đến những tổn thất về tài sản hay làm phát sinh những khoản
nợ. Định nghĩa hiện đại về rủi ro bao hàm môt ý nghĩa rộng lớn hơn không chỉ bó hẹp
trong các rủi ro tài chính mà còn liên quan đến mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược.
Theo Peter S.Rose “Rủi ro đối với một NH nghĩa là mức độ không chắc chắn liên quan đến
một vài sự kiện” Hay theo Thomas S.Fitch “Rủi ro là sự không chắc chắn về mức độ thu
nhập mà một tài sản mang lại hoặc một tổn thất có thể xảy ra”. Như vậy, rủi ro là khả năng
những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể không đạt được các mục
tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động.
Theo Luật đầu tư (ngày 29/11/2005): DAĐT là tập hợp các đề xuất bỏ vốn trung và dài
hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể, trong khoảng thời gian xác định.
Tùy theo thời gian chủ đầu tư đề xuất vay vốn để thực hiện DAĐT, hoạt động cho vay
các DAĐT được NHTM xếp vào nghiệp vụ tín dụng trung – dài hạn như sau:
Tín dụng trung hạn: thời gian vay vốn của chủ đầu tư từ 12 tháng đến 60 tháng nhưng
không quá thời hạn hoạt động của DAĐT
Tín dụng dài hạn: thời gian vay vốn của chủ đầu tư trên 60 tháng nhưng không quá
thời hạn hoạt động của DAĐT.
Do thời gian sử dụng vốn vay dài, trong thời gian thực hiện DAĐT chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan mà người ta không thể dự tính trước được nên
hoạt động cho vay các DAĐT luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao. Ngoài ra, lượng vốn vay
của DAĐT thường lớn nên nếu rủi ro xảy ra thì sẽ để lại hậu quả rất nặng nề đối với bản
thân NHTM và đối với cả nền kinh tế.
1.1.2 Các rủi ro có thể có trong hoạt động cho vay các DAĐT tại NHTM
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NH là doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – tiền tệ. Trong hoạt động của NH,
rủi ro là yếu tố không thể tránh khỏi, là bạn đường trong kinh doanh có thể đề phòng, hạn
chế chứ không thể loại trừ. Đặc biệt, hoạt động cho vay các DAĐT của NH càng chứa
đựng nhiều rủi ro hơn, bởi bản thân các DAĐT đã tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Có thể tóm tắt

phân loại rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM thông qua sơ đồ sau
Sơ đồ I-1
Các rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 3
Rủi ro
trong hoạt
động cho
vay các
DAĐT
Rủi ro về tiến độ thực hiện
Rủi ro về thị trường
Rủi ro về môi trường
Rủi ro kinh tế vĩ mô
Rủi ro
tín dụng
Rủi ro
DAĐT
Rủi ro danh mục
Rủi ro nội tại
Rủi ro tập trung
Rủi ro giao dịch
Rủi ro bảo đảm
Rủi ro nghiệp vụ
Rủi ro lựa chọn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Theo khoản 01 điều 02 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động NH của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc NHNN: “Rủi ro tín dụng trong hoạt
động NH của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH của tổ chức

tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Theo giáo trình NHTM của PGS.TS Phan Thị Thu: Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra
những tổn thất ngoài dự kiến do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không
trả đầy đủ vốn và lãi.
Cụ thể trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM, hiểu một cách đơn giản, khi
các khoản nợ đến hạn nhưng chủ đầu tư không có khả năng trả nợ ngay cho NH sẽ gây ra
rủi ro tín dụng. Trên thực tế không hiếm trường hợp chủ đầu tư không thực hiện được
nghĩa vụ của mình do các nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Những khoản cho
vay, đầu tư không thể thu hồi này cuối cùng sẽ ăn mòn hết vốn của NH. Bởi vốn chủ sở
hữu của NH thường chỉ chiếm ít hơn 10% so với danh mục tài sản có của NH nên chỉ cần
một lượng nhỏ các khoản cho vay, đầu tư của NH không thể thu hồi được thì vốn của NH
sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm, thậm chí có thể dẫn đến việc NH phải tuyên bố phá sản và
đóng cửa.
Về mặt định lượng, rủi ro tín dụng được phản ánh bởi chính số lượng nợ quá hạn, nợ
đọng của NH
Về mặt định tính, rủi ro tín dụng có quan hệ ngược chiều với chất lượng tín dụng.
Theo đó chất lượng tín dụng càng cao thì rủi ro càng thấp và ngược lại, chất lượng rủi ro
tín dụng thấp, nợ quá hạn cao thì rủi ro tín dụng là rất lớn và có tác động ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động của NH.
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay các
dự án đầu tư của NHTM được phân chia thành các loại sau:
 Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh
là do những hạn chế trong giao dịch và xét duyệt, đánh giá hồ sơ dự án xin vay vốn.
Rủi ro giao dịch có 3 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi
ro nghiệp vụ.
• Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá phân tích tín
dụng khi NH lựa chọn những dự án đầu tư xin vay vốn có hiệu quả để ra
quyết định cho vay.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 4

Website: Email : Tel : 0918.775.368
• Rủi ro bảo đảm: phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay kí kết với chủ đầu tư, các loại tài sản đảm bảo, chủ
thể đảm bảo, cách thức đảm bảo, mức cho vay/giá trị tài sản đảm bảo.
• Rủi ro nghiệp vụ: là những rủi ro có liên quan đến công tác quản lý khoản
vay và hoạt đông cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi
ro và kĩ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề.
 Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh
là do những hạn chế trong công tác quản lý danh mục các dự án đầu tư cho vay của
NH. Rủi ro danh mục được phân chia thành hai loại:
• Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm mang tính chất riêng
biệt bên trong mỗi chủ đầu tư hoặc ngành lĩnh vực của dự án đầu tư xin vay
vốn.
• Rủi ro tập trung: là tình huống NH tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với
một số khách hàng, hoặc cho vay quá nhiều dự án đầu tư thuộc cùng một
ngành, một lĩnh vực kinh tế hoặc cùng một vùng địa lý nhất định.
1.1.2.2 Rủi ro DAĐT
Một dự án đầu tư có thể gặp rất nhiều rủi ro khác nhau từ pha lập dự án, triển khai thực
hiện dự án đến pha vận hành kết quả đầu tư. Trên quan điểm của NH, rủi ro DAĐT bao
gồm những rủi ro chính sau:
 Rủi ro về tiến độ thực hiện: Khi công tác giải phóng mặt bằng phục vụ cho dự án
diễn ra chậm, hay năng lực thi công kém, công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng
theo yêu cầu của dự án… tiến độ thi công công trình của dự án sẽ bị kéo dài hơn dự kiến.
Điều này tất yếu sẽ làm cho dự án không đáp ứng được thời hạn vay vốn theo như đã dự
kiến và kí kết trong hợp đồng với NHTM cấp vốn.
 Rủi ro về thị trường: Khi công tác thẩm định dự án đầu tư không lường hết được
các biến động của thị trường như khả năng cung cầu, giá cả, thị hiếu… sẽ gây ra rủi ro về
thị trường. Rủi ro có thể là việc không đảm bảo được các đầu vào quan trọng theo số
lượng, giá cả, chất lượng đã dự kiến gây khó khăn cho việc vận hành dự án; rủi ro còn có
thể là việc sản phẩm của dự án không tiêu thụ được ở thị trường đầu ra. Khối lượng sản

phẩm sản xuất ra không phù hợp với nhu cầu tiêu dùng thực tế trên thị trường dẫn đến
hàng hóa bị ứ đọng, làm doanh nghiệp không thu hồi được vốn đúng thời hạn. Chất lượng
sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu thị trường vì vậy phải bán hàng hóa
thấp hơn giá thành, donah nghiệp phải chịu lỗ trong kinh doanh hoặc doanh nghiệp phải
tốn thêm chi phí quảng cáo, bảo hành, quà tặng hay những chi phí nhằm nâng cao chất
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng sản phẩm của dự án. Trong các hướng giả quyết này, chủ đầu tư đều phải chịu thiệt
hại trong việc thu hồi vốn đầu tư, việc trả nợ đúng hạn cho NH là rất kho thực hiện
 Rủi ro về môi trường: môi trường bao gồm những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả
nhưng không bị chi phối bởi người ra quyết định. Những rủi ro về môi trường gây ra có thể
kể đến như: dự án trong quá trình thực hiện đầu tư gây tác động tiêu cực đối với môi
trường và những người dân xung quanh dẫn đến việc phải di dời địa điểm hoạt động của
dự án, hoặc phải bổ sung các thiết bị ngoài dự kiến nhằm hạn chế những tác động đến môi
trường, thậm chí dự án phải ngừng hoạt động, đóng cửa nhà máy… Điều đó sẽ làm chi phí
của dự án tăng cao ngoài dự kiến, trường hợp xấu nhất khi dự án phải ngừng hoạt động,
khả năng thanh toán các khoản nợ cho NH của chủ đầu tư sẽ bị giảm sút và thậm chí là
không thể.
 Rủi ro kinh tế vĩ mô: Rủi ro phát sinh do môi trường kinh tế vĩ mô thay đổi. Ví dụ
như hạn ngạch, thuế quan hoặc các giới hạn thương mại làm giảm sản lượng và tăng chi
phí của các dự án. Sự thay đổi về thuế sẽ làm cho dòng tiền hàng năm của dự án thay đổi,
từ đó NPV, IRR của dự án cũng bị thay đổi theo, nguồn trả nợ của dự án vì thế cũng bị ảnh
hưởng. Khi chính phủ đưa ra chính sách lãi suất mới để kiểm soát lạm phát có thể sẽ làm
hoạt động của dự án giảm hoặc tăng. Nói chung bất kì hoạt động đầu tư nào cũng chịu ảnh
hưởng trực tiếp của môi trường kinh tế xung quanh nó. Môi trường kinh tế không thuận lợi
sẽ làm cho các dự án đầu tư thực hiện kém hiệu quả, mỗi đồng vốn không phát huy được
hết hiệu quả của nó, làm cho khả năng trả nợ vay của dự án bị hạn chế, dẫn đến rủi ro trong
các khoản cho vay của NH. Một nền kinh tế tăng trưởng mạnh, tiềm năng sản xuất tiêu
dùng của xã hội lớn sẽ kích thích các hoạt động đầu tư phát triển được triển khai nhiều và
hiệu quả hơn. Một nền kinh tế khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cao, sản xuất bị đình trệ, hoạt

động đầu tư phát triển kéo theo đó cũng bị giảm sút, tất cả tác động đến khả năng thu hồi
vốn tín dụng của NH. Không chỉ giới hạn trong nền kinh tế của một nước mà nền kinh tế
thế giới và khu vực cũng có những tác động đáng kể đến hoạt động cho vay các dự án đầu
tư nói riêng và hoạt động tín dụng nói chung của các NHTM nhất là khi quan hệ kinh tế
quốc tế được mở rộng như ngày nay.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.3 Nguyên nhân rủi ro trong hoạt động cho vay vốn các DAĐT tại
NHTM
1.1.3.1 Nguyên nhân từ các nhân tố vĩ mô
Sự thay đổi bất thường của chính sách kinh tế của Nhà nước: khi có sự thay đổi về
chính trị, điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới
hành chính các địa phương, sự sát nhập hay tách ra của các bộ, ngành trong nền kinh tế sẽ
làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư của các dự án đầu tư xin vay vốn, kéo theo
ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả tín dụng của mỗi chủ đầu tư cho NH. Rủi ro trong hoạt
động cho vay các dự án đầu tư vì thế xuất hiện.
Một nền kinh tế dù mạnh hay yếu đều phải trải qua chu kì khủng hoảng – suy thoái –
phát triển – hưng thịnh. Như đã phân tích ở phần rủi ro dự án trên quan điểm của NH, nền
kinh tế đang tăng trưởng hay suy thoái đều tác động đến hiệu quả của DAĐT, kéo theo đó
là khả năng trả nợ vốn vay của chủ đầu tư. Nhưng không chỉ có vậy, tình trạng của nền
kinh tế còn ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NH. Nền kinh tế tăng
trưởng lành mạnh, hoạt động đầu tư phát triển nhờ đó được lưu tâm nhiều hơn, các dự án
đầu tư cùng với nhu cầu vốn vay cũng tăng lên, cơ hội đầu tư của NH cũng nhiều lựa chọn
hơn. Nền kinh tế khủng hoảng đang trên đà xuống dốc, lạm phát tăng vọt, sản xuất đình
đốn… thì chính hoạt động NH cũng bị giảm sút. Vấn đề đặt ra là NH cần nghiên cứu kỹ về
chu kì của nền kinh tế để có được những chính sách cho vay phù hợp.
Môi trường pháp lý: Hoạt động trong một lĩnh vực kinh doanh với đối tượng hàng hóa
đặc biệt là tiền tệ, điều mà NHTM cần trước nhất là hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ
và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế. Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn
bản dưới luật chưa đầy đủ, hợp lý, hay thường xuyên thay đổi sẽ không đảm bảo môi

trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay các dự án đầu tư noi riêng
của các NHTM
Ngoài những nhân tố kể trên, rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư của
NHTM còn chịu tác động của các nhân tố khác như thiên tai, chiến tranh địch họa…
Những nhân tố này vượt quá tầm kiểm soát của chủ đầu tư đi vay vốn lẫn NH cho vay vốn.
Trong nhiều trường hợp, khi các tác động của các nguyên nhân bất khả kháng đối với dự
án là nặng nề thì khả năng trả nợ của chủ đầu tư ít nhiều bị suy giảm, tình huống xấu nhất
có thể gây ra rủi ro cho NHTM là bị mất vốn, không thu hồi được nợ.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1.3.2 Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Nguyên nhân thuộc về chủ đầu tư – người đi vay vốn là một trong những nguyên nhân
chính và cổ điển nhất gây ra rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NHTM.
Rủi ro có thể xảy ro do:
- Trình độ của người vay: Nhiều chủ đầu tư đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không
có khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra trong quá trình thực hiện dự án
đầu tư, hoặc không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn phát sinh vì thế
đã tiến hành những dự án không hiệu quả dẫn đến làm ăn thua lỗ nên không trả được nợ
NH.
- Phẩm chất, đạo đức của người vay: Rất nhiều chủ đầu tư sẵn sàng mạo hiểm vay NH
một số tiền lớn với kì vọng thu lại được lợi nhuận cao trong khi DAĐT có độ rủi ro rất lớn.
Để đạt được mục đích đó, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với NH như cung câp
thông tin sai, giả mạo hồ sơ, mua chuộc hối lộ cán bộ tín dụng … Nhiều chủ đầu tư còn lập
dự án ảo để vay vốn của NH sau đó sử dụng vào mục đich khác. Thậm chí nhiều DAĐT đi
vào vận hành kết quả có lãi nhưng chủ đầu tư vẫn không chịu trả nợ NH đúng hạn với mục
đích sử dụng vốn càng lâu càng tốt hoặc để quịt nợ.
1.1.3.3 Nguyên nhân thuộc về NH
a) Rủi ro xảy ra do những nguyên nhân xuất phát từ cơ chế, chính sách của NH chưa
phù hợp:

Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của NH đó và trở thành hướng dẫn
chung cho các cán bộ tín dụng và các thành viên của NH, tăng cường chuyên môn hóa
trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nói chung và
hoạt động xem xét đánh giá cấp vốn cho DAĐT xin vay vốn nói riêng. Từ đó hạn chế rủi
ro và nâng cao khả năng sinh lời trong hoạt động kinh doanh của NH.
Chính sách không phù hợp sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của NH và có thể tạo thêm
nhiều rủi ro. Chẳng hạn, NH vì lợi nhuận mà mở rộng hoạt động cho vay các dự án đầu tư
quá mức thì sẽ có rủi ro cao, nợ quá hạn có nguy cơ tăng. Ngược lại nếu chính sách tín
dụng của NH không đa dạng, dẫn đến hiện tượng tập trung cấp vốn cho một số khách hàng
hoặc các dự án đầu tư ở cùng một lĩnh vực tạo nên nguy cơ rủi ro cao khi bỏ trứng vào một
giỏ.
b) Bộ máy tổ chức hoạt động quản lý rủi ro còn lạc hậu, yếu kém:
Một số NHTM tại Việt Nam chưa có một cơ quan chuyên trách theo dõi, quản lý rủi
ro, quản lý hạn mức tín dụng tối đa cho từng DAĐT xin vay vốn thuộc các ngành nghề, địa
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương khác nhau để phân tán rủi ro. Chất lượng thông tin thấp, sự phối hợp giữa NH và
trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao cũng là một nguyên
nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NHTM. Thậm chí một
số NHTM còn sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm tín dụng, điều đó dẫn
đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại các tổ chức tín dụng trở nên khó khăn.
Vì thế NH rất khó giám sát chủ đầu tư sau khi được quyết định cho vay để đầu tư dự án có
thực sự sử dụng khoản vay đúng mục đích hay không. Chính vì thiếu thông tin nên NH
không thể đưa ra quyết định phù hợp chính xác, điều này có thể dẫn đến việc NH rót vốn
vào những nơi thiếu tin cậy
Bên cạnh đó, hệ thống kiểm tra, giám sát nội bộ NH còn lỏng lẻo, yếu kém. Nhiều NH
còn chưa quan tâm đến hướng dẫn quy trình nghiệp vụ, chỉ đạo quy trình chưa nghiêm túc,
kém hiệu lực.
c) Sự yếu kém về mặt nghiệp vụ cũng như tư cách đâọ đực của cán bộ tín dụng:
Cán bộ tín dụng yếu kém về trình độ, năng lực nghiệp vụ không có khả năng phân tích

thẩm định dự án, đánh giá khách hàng thiếu chính xác do công tác thông tin còn yếu và
thiếu. NH không có đủ số liệu thống kê, các chỉ tiêu phân tích dẫn đến việc xác định sai
hiệu quả của dự án, thời hạn cho vay, thời hạn trả nợ không phù hợp. Việc cán bộ tín dụng
thiếu năng lực còn dẫn đến việc không thể phát hiện được những sai sót về mặt pháp lý
trong hồ sơ xin vay của chủ đầu tư hay định giá tài sản đảm bảo không hợp lý… có thể gây
ra nhiều tổn thất cho NH. Sự lơi lỏng của cán bộ tín dụng trong quá trình giám sát việc
thực hiện các khoản vay cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc không phát hiện
kịp thời hiện tượng vốn vay không được sử dụng mục đích hay hành vi lừa đảo của khách
hàng.
Bên cạnh vấn đề yếu và thiếu năng lực chuyên môn, tồn tại một bộ phận cán bộ NH
yếu kém về tư cách đạo đức đã lợi dụng vị trí công tác để trục lợi, tham ô, nhận hối lộ, cố
tình cho vay sai nguyên tắc: cán bộ tín dụng quá dễ dàng cho vay đối với khách hàng là
bạn bè, người quen thân hoặc do lợi ích cá nhân mà bỏ qua các quy định cần thiết để đảm
bảo an toàn. Ngay cả cán bộ quản lý đôi khi cũng vì lợi ích cá nhân hay lợi ích của một
nhóm người, trong công tác điều hành đã vô tình hay cố y tạo điều kiện, kẽ hở cho loại rủi
ro đạo đức ở cán bộ tín dụng phát triển. Chẳng hạn khi nhà quản lý hay nhóm các cán bộ
quản lý đã có quan hệ lợi ích với chủ đầu tư quyết định cấp tín dụng cho DAĐT mặc dù
điều kiện xin vay vốn chưa được thỏa mãn đầy đủ, thậm chí có trường hợp cán bộ thẩm
định đã viết rõ trong báo cáo thẩm định là không xét duyệt cho vay. Thông thường những
khoản vay đó đáng lẽ ra không được phê duyệt nhưng vì một lý do nào đó, nhà quản lý đã
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bằng cách này hay cách khác, hướng dẫn chủ đầu tư hợp lý hóa hồ sơ xin vay vốn, thậm
chí còn yêu cầu cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định phải thực hiện theo y kiến chỉ đạo.
Tóm lại, rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM là khách quan và
không thể tránh khỏi. Rủi ro là bạn đường tỏng kinh doanh của NHTM, có thể đề phòng
hạn chế chứ không thể loại trừ.
Sự tiếp cận các yếu tố, nguyên nhân gây ra rủi ro trên đây giúp chúng ta nhìn nhận một
cách đầy đủ, toàn diện khách quan hơn, từ đó có được những đề xuất phòng ngừa, giảm
thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT một cách hữu ích, thiết thực hơn.

1.1.5 Các chỉ số và phương pháp đo lường rủi ro áp dụng tại NHTM
1.1.5.1 Các chỉ số phản ánh rủi ro
 Hệ số thu nợ (%)
Hệ số thu nợ
=
Doanh số thu nợ
Tổng doanh số cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả thu nợ của NH hay khả năng trả nợ vay của khách
hàng. Hệ số thu nợ càng lớn thì càng được đánh giá tốt, cho thấy công tác thu hồi vốn của
NH đạt hiệu quả, ít gặp rủi ro và ngược lại.
 Tổng dư nợ trên tổng vốn huy động (%, lần)
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng đồng vốn huy động của NH. Nó giúp so sánh
khả năng cho vay của NH với nguồn vốn huy động được. Chỉ tiêu này quá lớn hay quá nhỏ
đều không tốt, bởi vì nếu chỉ tiêu này quá lớn thì cho thấy khả năng huy động vốn của NH
thấp, ngược lại nếu chỉ tiêu này quá nhỏ cho thấy NH đã sử dụng vốn huy động ngày càng
không có hiệu quả.
 Mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư:
Mức độ rủi ro =
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NH và đo lường
chất lượng nghiệp vụ tín dụng của NH một cách rõ nét. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy chất
lượng của hoạt động cho vay các DAĐT của NH càng kém và ngược lại. Mức giới hạn cho
phép của mức độ rủi ro do NHNN quy định là 5%.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên cạnh đó, các NHTM còn sử dụng một số chỉ số sau để đo lường rủi ro trong hoạt
động cho vay các dự án đầu tư:
Ư
 Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng

Tỷ lệ nợ xấu trên
=
Nợ xấu
Tổng số dư nợ tín dụng
Nợ xấu bao gồm nợ quá hạn, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ hoặc nợ xấu theo hệ thống
xếp hạng nội bộ của NH
Các NH xem chỉ tiêu này như chỉ tiêu cơ bản trong việc đánh giá chất lượng của hoạt
động cho vay các DAĐT. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt, chỉ tiêu này quá cao điều đó có
nghĩa khả năng rủi ro không thu hồi được nợ càng lớn
 Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín dụng
Tỷ lệ nợ quá hạn trên
Nợ quá hạn
Tổng số dư nợ tín dụng
 Tỷ số giữa các khoản xóa nợ trên tổng dư nợ tín dụng
Tỷ số giữa các khoản xóa nợ
Nợ được xóa
Tổng số dư nợ tín dụng
Các khoản nợ được xóa là các khoản nợ NH quyết định xóa, loại bỏ khỏi sổ sách của
NH và được hạch toán ngoại bảng. Các khoản nợ được xóa là các khoản nợ quá hạn NH
đánh giá khó có khả năng thu hồi được vốn hoặc khách hàng đã giải thể, dự án đầu tư bị
phá sản, không còn nguồn nào để bù đắp… NH thường dung quỹ dự phòng rủi ro hàng
năm để thực hiện việc xóa nợ.
 Tỷ số giữa dự phòng rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư với tổng
dư nợ hoặc với tổng vốn chủ sở hữu của NH
Tỷ số giữa dự phòng rủi ro
trong hoạt động cho vay
các DAĐT với
=
Dự phòng rủi ro cho hoạt động
cho vay các DAĐT

Tổng số dư nợ tín dụng
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tỷ số giữa dự phòng rủi ro
trong hoạt động cho vay
các DAĐT với tổng vốn
=
Dự phòng rủi ro cho hoạt động
cho vay các DAĐT
Tổng vốn chủ sở hữu
Dự phòng rủi ro cho hoạt động cho vay các dự án đầu tư là số tiền dự phòng được
hạch toán vào chi phí hoạt động của NH thông qua việc trích lập dự phòng cho phần giá trị
dạnh mục các dự án đầu tư cho vay được đánh giá là có khả năng không thu hồi được vốn.
Trường hợp tỷ số này càng cao sẽ cho thấy danh mục các dự án đầu tư xin vay vốn đã
được cấp tín dụng của NH không tốt, số nợ khó có khả năng thu hồi lớn. Việc đánh giá
đúng khả năng thu hồi của danh mục các dự án đầu tư xin vay vốn, nhằm trích lập quỹ dự
phòng rủi ro một cách phù hợp, bù đắp được những biến cố xảy ra là hết sức quan trọng
trong công tác quản trị NH hiện đại.
1.1.5.2 Phương pháp đo lường rủi ro RAROC
Theo nghiên cứu của tác giả Joel Bessis trong cuốn Risk Managerment in Banking –
2001) về các loại rủi ro trong hoạt động của NH thì rủi ro tín dụng chiếm 54%, rủi ro hoạt
động chiếm 27%, rủi ro thị trường chiếm 14%, rủi ro lãi suất chiếm 5%. Trong rủi ro tín
dụng có đến 45% là rủi ro phát sinh từ hoạt động cho vay các dự án đầu tư
Hiện nay rất nhiều các NHTM trên thế giới áp dụng phương pháp RAROC (Risk
Adjusted Return on Capital) để đo lường rủi ro tín dụng nói chung và rủi ro phát sinh trong
hoạt động cho vay các dự án đầu tư nói riêng. Rủi ro tín dụng được tính như sau:
Thu nhập – Tổn thất dự kiến
Tổn thất ngoài dự kiến
Trong đó:
- Thu nhập bao gồm:

+ Thu từ tài chính (thu từ chênh lệch lãi suất và các khoản phí thu trước + các
khoản thu định kì)
+ Thu từ hoạt động kinh doanh của NH
- Tổn thất dự kiến = Xác suất xảy ra rủi ro tính toán thông qua xếp hạng x giá trị/dư
nợ khi xảy ra rủi ro x giá trị tổn thất trong trường hợp rủi ro (tính thông qua tỷ lệ
thu hồi)
- Tổn thất ngoài dự kiến = Độ lệch chuẩn trong phân bố tổn thất
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phương pháp này có nhiều ưu điểm hơn việc dùng các chỉ số nợ quá hạn vì tỷ lệ nợ
quá hạn phải được so với thu nhập của từng NHTM cụ thể mới có thể đánh giá là cao hay
thấp.
1.1.5.3 Phương pháp tính tổn thất của rủi ro dựa trên hệ thống cơ sở dữ
liệu đánh giá nội bộ
Theo tiêu chuẩn vốn quốc tế của Basel II, các NH sẽ sừ dụng hệ thống cơ sở dữ liệu
của nội bộ để đánh giá rủi ro tín dụng nói chung và cụ thể là rủi ro trong hoạt động cho vay
các DAĐT của NHTM, từ đó xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu.
Các NH sẽ xác định các biến số như PD (probability of Default) – xác suất khách hàng
không trả được nợ; LGD (loss given Default) – tỷ trọng tổn thất ước tính; EDA (Exposure
at Default) – Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả được nợ; EL (Expected
Loss) – tổn thất có thể ước tính.
Đối với mỗi khoản cho vay đối với mỗi DAĐT, ứng với mỗi kì hạn khác nhau, tổn thất
có thể ước tính được tính toán dựa trên công thức:
EL = PD x EAD x LGD
Các thành phần cấu thành trong công thức được mô tả như sau:
 PD (probability of Default) – xác suất khách hàng không trả được nợ
Cơ sở của xác suất này là số liệu về các khoản nợ trong quá khứ của khách hàng, gồm
các khoản nợ đã trả, các khoản nợ đang trong hoạn và các khoản nợ không thu hồi được.
 EDA (Exposure at Default) – Tổng dư nợ của khách hàng tại thời điểm không trả
được nợ

EAD = dư nợ bình quân + LEQ x hạn mức tín dụng chưa sử dụng bình quân
Trong đó, LEQ (Loan Equivalent Exposure) là tỷ trọng phần vốn chư sử dụng có nhiều khả
năng khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ. LEQ x hạn mức tín dụng sử
dụng bình quân chính là phần dư nợ khách hàng rút thêm tại thời điểm không trả được nợ
ngoài mức dư nợ bình quân.
 LGD (loss given Default) – tỷ trọng tổn thất ước tính
Đây là tỷ trọng phần vốn bị tổn thất trên tổng dư nợ tại thời điểm khách hàng không
trả được nợ. LGD không chỉ bao gồm tổn thất về khoản vay mà còn bao gồm các tổn thất
khác phát sinh khi khách hàng không trả được nợ, đó là lãi suất đến hạn nhưng không được
thanh toán và các chi phí hành chính có thể phát sinh như: chi phi xử lý tài sản bảo đảm,
các chi phí cho dịch vụ pháp lý và một số các chi phi liên quan khác.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2 QUẢN LÝ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY VỐN CÁC DỰ ÁN
ĐẦU TƯ TẠI NHTM
1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay vốn các dự
án ĐT tại NHTM
1.2.1.1 Ảnh hưởng của rủi ro tới bản thân NH cấp tín dụng
Hoạt động cho vay các DAĐT là một bộ phận quan trọng trong hoạt động tín dụng,
mang lại nguồn thu nhập chủ yếu cho NH; vì vậy nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại
cũng như phát triển của NH. Một số ảnh hưởng của rủi ro trong hoạt động cho vay các
DAĐT đối với bản thân NH cấp tín dụng có thể kể đến như sau:
a) Hiện tượng ứ đọng vốn
Khi có rủi ro xảy ra với các DAĐT xin vay vốn, đến hạn thanh toán, chủ đầu tư không
thực hiện được cam kết thanh toán của mình, NH sẽ thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ
của khách hàng hoặc phải chuyển nợ quá hạn. Đối với bản thân NHTM, bất cứ khoản nợ
xấu nào cũng sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn tại NH
Các khoản nợ quá hạn hay cơ cấu lại thời hạn, trước hết làm cho NHTM không thu hồi
được vốn và lãi đúng hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Điều đó làm cho thời
gian của 1 vòng quay vốn tín dụng thực tế lớn hơn vòng quay vốn tín dụng đã thỏa thuận.

Như vậy nợ xấu đã làm giảm tốc độ chu chuyển vốn tín dụng của NHTM dẫn đến làm
giảm hiệu quả sử dụng vốn, đi kèm với các khoản nợ xấu còn là sự phát sinh của các khoản
chi phí khác như chi phí giảm sát, thu nợ… Kết quả là lợi nhuận mang lại cho NH từ hoạt
động cho vay các dự án bị giảm sút.
Không chỉ có vậy, nợ xấu trong hoạt động cho vay các dự án của NHTM còn gây nên
hậu quả làm giảm khả năng thanh toán, thậm chí làm mất khả năng thanh toán của NHTM.
NHTM hoạt động theo nguyên tắc “đi vay để cho vay” nghĩa là nguồn vốn cấp tín dụng
cho khách hàng được thực hiện trên cơ sở vốn huy động từ các nguồn khác nên NHTM
phải có trách nhiệm cân đối hoạt động sao cho có thể đảm bảo thực hiện được nghĩa vụ
hoàn trả cả gốc và lãi với các chủ nợ của mình. Các khoản nợ quá hạn hoặc cơ cấu lại thời
hạn trả nợ làm cho NHTM rơi vào tình trạng đến hạn phải trả cho người gửi tiền nhưng
vẫn chưa thu được tiền từ người vay. Rủi ro thanh khoản phát sinh từ đó. Nếu tình trạng
mất khả năng thanh toán của NHTM diễn ra quá nhiều lần hoặc thông tin về rủi ro gặp phải
của NH bị rò rỉ ra ngoài sẽ ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của NH. Điều đó tất yếu sẽ dẫn
đến khả năng cạnh tranh của NH bị giảm sút, do đó việc huy động tiền gửi cũng sẽ gặp khó
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khăn, việc thiết lập giao dịch với các doanh nghiệp hay với các NH khác cũng không nhiều
thuận lợi. Uy tín đối với khách hàng là 1 tài sản vô hình hết sức quy giá đối với mỗi
NHTM, một khi đã mất đi thì rất khó lấy lại hoặc nếu có cũng phải mất nhiều thời gian và
tiền của.
b) Mất vốn
Rủi ro không thu được nợ từ hoạt động cho vay các DAĐT tức là NH mất vốn, lợi tức
và cả chi phí trong kinh doanh. Điều này có thể dẫn đến kinh doanh thua lỗ, NH mất khả
năng thanh toán thậm chí đẩy NH đến bờ vực phá sản. Mặt khác khi chủ đầu tư không trả
được nợ thì các NH buộc phải sử dụng các biện pháp xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ.
Tuy nhiên rủi ro cũng tiềm ẩn ngay cả trong các tài sản đảm bảo nợ:
• Rủi ro do đánh giá tài sản thế chấp và cầm cố không đúng giá trị thực nghĩa là đánh
giá giá trị của các tài sản lớn hơn giá trị thực còn lại của nó => số tiền thu hồi nhỏ hơn
số nợ của khách hàng => NH mất một phần vốn

• Tài sản đảm bảo không đáp ứng nhu cầu của thị trường và khó chuyển nhượng nên
nếu muốn phát mại tài sản thế chấp hoặc cầm cố cũng rất khó. Mặt khác, một số tài sản
càng để càng mất giá và có thể bị hao mòn vô hình hay hữu hình, hơn nữa NH còn mất
thêm chi phí bảo quản tài sản làm tăng thêm chi phí.
Nếu mức độ rủi ro mà NH có thể chịu đựng được thì NH có thể bù đắp bằng các quỹ
dự phòng rủi ro hoặc vốn tự có, còn nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nghiêm trọng thì sự bù đắp
của các quỹ dự phòng cũng không thể thay đổi được tình hình.
1.2.1.2 Ảnh hưởng của rủi ro tới nền kinh tế
NHTM cấp tín dụng cho các dự án đầu tư luôn vì mục đich cung cấp thêm vốn đầu tư
cần thiết cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng sản suất và lưu thông hàng hóa,
tạo thêm nhiều sản phẩm mới cho xã hội, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nguwoif
sử dụng vốn vay. Đồng thời tăng tích lũy cho nền kinh tế. Khi rủi ro xảy ra, NH sẽ bị chậm
hoặc không có khả năng thu hồi vốn để tiếp tục cho cay. Vì thế, rủi ro sẽ làm giảm vòng
quay sử dụng vốn của NHTM và làm chậm tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Kết
quả là sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế không phát triển được, xã hội bị rối loạn
Tiếp đó, nếu công tác quản lý rủi ro của các tổ chức tín dụng không tốt sẽ làm ảnh
hưởng đến khả năng thanh khoản của NH, tình trạng này kéo dài đến một mức độ nào đó
có thể sẽ là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến đổ vỡ, phá sản NH, kéo theo đó
là sự đổ vỡ dây chuyền của các tổ chức tín dụng có liên quan và hậu quả của nó là cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính. Điều này không chỉ diễn ra ở một quốc gia mà còn lan
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
truyền đến nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008 vừa qua là một minh chứng cho điều này.
Như vậy, rủi ro trong hoạt động cho vay các dự án đầu tư dù ở mức độ nào cũng gây
ảnh hưởng đến sự phát triển của NH nói riêng và sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung.
Vì vậy, quản lý rủi ro khi cho các DAĐT vay vốn không chỉ là trách nhiệm của bản thân
NH cấp tín dụng mà còn là của toàn nền kinh tế. Một cách khác, việc quản lý rủi ro trong
hoạt động cho vay các dự án đầu tư của NHTM nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro là vô
cùng quan trọng.

1.2.2 Khái niệm về quản lý rủi ro
Như đã đề cập ở các phần trên, rủi ro là một sự kiện không có trong kế hoạch, là kết
quả không chắc chắn trong tương lai. Câu hỏi đặt ra là: “Điều gì có thể xảy ra ?”; “Xác
suất xảy ra có lớn không ?”; “Nếu xảy ra thì tổn thất là bao nhiêu ?”. Tất cả những vấn đề
trên tựu chung lại là vấn đề quản lý nhằm phòng ngừa và hạn chế đến các mức thấp nhất
rủi ro tiêu cực xảy ra.
Quản lý rủi ro là dự kiến ngăn ngừa và đề xuất biện pháp kiểm soát các rủi ro nhằm
loại bỏ, giảm nhẹ hoặc chuyển chúng sang một tác nhân kinh tế khác, tạo điều kiện sử
dụng tối đa nguồn lực của doanh nghiệp. Đối với NHTM, quản lý rủi ro trong hoạt động
cho vay các DAĐT là một quá trình từ nhận diện, phân tích và định lượng rủi ro, xử lý rủi
ro và kiểm soát rủi ro
 Mục đích quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM:
Bảo vệ NH trước những thất bại/tổn hại không dự tính trước: Rủi ro và lợi nhuận có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, rủi ro cao thì lợi nhuận lớn và ngược lại. Rủi ro có mặt tại
hầu hết các nghiệp vụ của NH. Vì thế, muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro, đây là
một quy luât khách quan. Nhưng những tổn thất mà rủi ro tiêu cực trong hoạt động kinh
doanh tín dụng đặc biệt là hoạt động cho vay các DAĐT là không thể lường trước được.
NHTM phải tự xây dựng và thực hiện các chính sách về quản lý rui ro với mục đích tự bảo
vệ mình trước các thất bại/tổn hại trong hoạt động tín dụng.
Bảo đảm mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT mà NH phải gánh chịu
không vượt quá khả năng về vốn và tài chính của NH: NHTM thực hiện chức năng trung
gian tín dụng, sử dụng các nguồn vốn huy động để cho vay là chủ yếu. Trong khi nội lực
về vốn và tài chính của NH có hạn, NH chỉ có thể chấp nhận và chịu đựng rủi ro ở một
mức độ nhất định trong khả năng từ bù đắp của mình. Vì thế, rủi ro trong hoạt động cho
vay các DAĐT luôn được giám sát chặt chẽ với các tiêu chí đo lường, cảnh báo với các
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mức độ khác nhau để đảm bảo rủi ro được kiểm soát không vượt quá khả năng về vốn và
tài chính của NH.
Bảo đảm không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và sự tồn tại của NH: Hiệu quả

kinh doanh tín dụng của NH phụ thuộc và khả năng quản lý rủi ro tín dụng. Do đó, mục
đích của quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM phải đảm bảo rằng
nếu rủi ro tiêu cực xảy ra cũng phải tuân thủ nguyên tắc không ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh và sự tồn tại của NH.
1.2.3 Quy trình quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT tại
NHTM
Sơ đồ I-2
Quá trình quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT tại NHTM
1.2.3.1 Nhận diện rủi ro
Nhận diện rủi ro là việc xác định các đe dọa hoặc các cơ hội có thể xảy ra trong suốt
thời gian hoạt động của dự án đi kèm với sự bất định của chúng. Thời gian hoạt động của
dự án là thời gian tính đến khi hết thời hạn hợp đồng cho vay mà chủ đầu tư đã kí với NH.
Đây là công việc mang tính thiết yếu, quan trọng bởi nếu nó được làm tốt thì các bước
tiếp theo của nội dung quản lý rủi ro mới được tiến hành và đạt kết quả tốt. Việc phát hiện
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 17
Nhận diện
rủi ro
Nhận diện
rủi ro
Kiểm soát
rủi ro
Kiểm soát
rủi ro
Định lượng
rủi ro
Định lượng
rủi ro
Xử lý rủi ro
Xử lý rủi ro
Website: Email : Tel : 0918.775.368

rủi ro phải được xem xét một cách tổng thể đối với mọi DAĐT và mọi giai đoạn, mọi khía
cạnh của DAĐT dựa trên mọi dấu hiệu có liên quan.
Nguồn thông tin mà NH có thể dựa vào để phát hiện rủi ro là:
- Thông tin từ hồ sơ dự án
- Thông tin NH tự thu thập, điều tra và tổng hợp được từ việc phỏng vấn chủ đầu tư,
kiểm tra thực tế dự án hay khai thác thông tin từ trung tâm thông tin phòng ngừa rủi
ro cùa NH Nhà nước.
- Thông tin từ tổ chức tín dụng khác có quan hệ với khách hàng, thông tin từ báo chí,
dư luận, internet và các cơ quan quản lý khác.
1.2.3.2 Định lượng rủi ro
Tìm hiểu, đo lường, phân tích là những bước tiếp theo sau khi đã phát hiện được
những nguy cơ rủi ro của DAĐT xin vay vốn. Trên thực tế những bước này có liên kết
khác chặt chẽ với nhau, trong công tác quản lý rủi ro tại NHTM chúng được gộp chung lại
dưới cái tên: định lượng rủi ro. Mục tiêu của định lượng rủi ro là đánh giá rủi ro như những
đe dọa và cơ hội tiềm năng, giúp cho bộ máy quản lý rủi ro của NH hiểu chính xác và nhất
quán nguy cơ rủi ro đã được xác định, phân tích rõ nguyên nhân của rủi ro và quan trọng
nhất là lượng hóa được mức độ rủi ro có thể xảy ra. Hai tiêu chí thường được quan tâm
nhất trong bước này là: xác suất xảy ra rủi ro và tác động của rủi ro. Xác suất của rủi ro
cho chúng ta biết rủi ro có hay xảy ra hay không và tác động của rủi ro xác định khi rủi ro
xảy ra có lớn hay không? Lớn bao nhiêu? Tác động tiêu cực hay tích cực? Những rủi ro có
xác suất xảy ra nhở nhưng tác động lớn hay những rủi ro có xác suất xảy ra lớn nhưng tác
động rất nhỏ không tính đến, ở đây chúng ta quan tâm đến sự kết hợp cả hai tiêu chí này
trước khi xác định tầm quan trọng của rủi ro mà chúng ta đã nhận diện. Sự kết hợp giữa
xác suất và tác động sẽ cho ta những quyết định phù hợp.
1.2.3.3 Chính sách quản trị rủi ro
Là những chính sách nội bộ của NHTM nhằm quản lý hoạt động cho vay các DAĐT.
Nói một cách đơn giản đó là việc NH sẽ phản ứng như thế nào khi rủi ro xảy ra. Trong quá
trình này chúng ta sẽ tập trung vào những rủi ro được sắp xếp theo thứ tự tầm quan trọng
cần quan tâm. Việc xử lý rủi ro bao gồm cả việc bỏ qua rủi ro, để mặc rủi ro xảy ra, theo
dõi những rủi ro trong quá trình dự án hoạt động. Nó còn bao gồm làm gì đó trước khi rủi

ro xảy ra, có thể là chuyển giao rủi ro cho người khác hoặc chia sẻ rủi ro với người khác
với mục đích sao cho rủi ro trong hoạt đông cho vay các DAĐT nếu xảy ra thấp dưới mức
đã xác định/chấp nhận, ít gây ảnh hưởng đến NH cấp tín dụng.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các biện pháp NH dùng để quản trị rủi ro dự án đầu tư có thể kể đến cụ thể như sau:
- Tránh rủi ro: không cho vay các DAĐT cảm thấy khả năng rủi ro cao, tính khả thi
thấp.
- Hạn chế rủi ro: sử dụng các biện pháp nhằm giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro hoặc
nếu xảy ra rủi ro thì thiệt hại ở mức thấp nhất.
+ Thực hiện các quy định về an toàn tín dụng được ghi trong Luật các tổ chức tín dụng
và trong các nghị định của NH Nhà nước
+ Xác định danh mục các DAĐT xin vay vốn với mức độ rủi ro khác nhau. Các loại
khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác nhau, các loại DAĐT khác nhau sẽ
có mức độ rủi ro khác nhau
+ Xây dựng các chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng nhằm hạn chế rủi
ro như: chính sách tài sản đảm bảo, chính sách đồng tài trợ… Quy trình phân tích tín
dụng phản ánh những nội dung mà cán bộ thẩm định phải thực hiện khi cho vay nhằm
hạn chế rủi ro như thẩm định hồ sơ dự án xin vay vốn, phân tích tình hình hoạt động
của dự án, lich sử của chủ đầu tư, mục đích vay…
+ Xác định dấu hiệu của khoản vay có vấn đề, giới hạn các khoản tín dụng và đa dạng
hóa
+ Quản lý nợ quá hạn, nợ khó đòi, các khoản nợ có vấn đề
- Tự bảo hiểm: NH có thể tự bảo hiểm bằng cách mua bảo hiểm tín dụng cho các
khoản cho vay của mình tại các công ty bảo hiểm. Ngoài ra, NH còn có thể yêu cầu các
chủ đầu tư tham gia đầy đủ các loại bảo hiểm cho dự án của mình. Đây là cách vừa giảm
thiểu rủi ro cho chính dự án vừa giảm thiểu rủi ro cho NH cấp vốn vay cho dự án.
- Phong tỏa rủi ro: áp dụng các biện pháp nhằm đảm bảo khi rủi ro nảy sinh không
thể gây ra thiệt hại cho NH
- Chuyển giao rủi ro: NH khi thấy dự án không còn khả năng thu hồi nợ thì có thể

bán khoản nợ đó cho các công ty mua bán và quản lý nợ để chuyển giao rủi ro
1.2.3.4 Kiểm soát rủi ro
Kiểm soát rủi ro là quá trình theo dõi các rủi ro đã xảy ra, mới xảy ra hoặc sắp xảy ra;
giám sát tính tuân thủ các chính sách quản lý rủi ro tín dụng và hỗ trợ phát hiện rủi ro tín
dụng để cảnh báo sớm đối với những tác động tiêu cực của rủi ro có thể xảy ra
Sơ đồ I-3
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mô hình hệ thống quản lý rủi ro
trong hoạt động cho vay các DAĐT tại NHTM
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 20
Chiến lược hoạt
động tín dụng
Giám sát
rủi ro
Rủi ro trong
hoạt động cho
vay các DAĐT
Đo lường
rủi ro
Thu thập
Thông tin
Nhận diện
Rủi ro
Báo cáo
Rủi ro
Chính sách
Quản lý
TẦM NHÌN
Mục tiêu

của NH
Chính sách Các Ủy ban Tính tuân thủ Công nghệ Tổ chức
Thực hiện
quản lý rủi ro
Hoạt động
hỗ trợ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.4 Nội dung quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT tại
NHTM
Các nội dung quản lý rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT tại NHTM được thiết
lập dựa trên các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng hiện tại của Ủy ban giám sát NH Basel.
Các nội dung luôn tương tác hỗ trợ lẫn nhau thiết lập nên khung quản lý rủi ro trong hoạt
động cho vay dự án tại NH với mục tiêu luôn đảm bảo sự thận trọng, toàn diện, chất lượng
và có sự tương hợp cao giữa từng nội dung quản lý rủi ro.
Sơ đồ I – 4
Khung quản trị rủi ro trong hoạt động cho vay các DAĐT
1.2.4.1 Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng
Chiến lược hoạt động tín dụng là bản tuyên ngôn của ban lãnh đạo NHTM về các mục
tiêu trong hoạt động tín dụng. Xác định thái độ của NH đối với rủi ro tín dụng và thái độ
sẵn sàng chấp nhận rủi ro đó. Chiến lược hoạt động tín dụng được hoạch định định kì, phù
hợp với mức độ rủi ro của từng thời kì, đồng thời phải được phổ biến với tất cả nhân viên
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 21
Xác định rủi ro
hiện có và rủi
ro tiềm tàng
Trách nhiệm
cá nhân đối với
chất lượng của
khoản vay
Cơ cấu tổ chức

hoạt động
cho vay
Xây dựng
chính sách và
quy trình cho
vay đối với các
dự án ĐT
Hoạch định
chiến lược
Giám sát &
kiểm tra các
khoản vay
Rủi ro trong
hoạt động cho
vay các DAĐT
Hệ thống xếp
hạng tín dụng
nội bộ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NH. Chiến lược hoạt động tín dụng được lấy làm cơ sở xác định kế hoạch hoạt động cho
vay các DAĐT.
1.2.4.2 Xác định các rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng
Nội dung xác định rủi ro được hiểu gồm: nhận biết rủi ro và đo lường rủi ro. Việc xác
định rủi ro được thực hiện theo từng khoản vay, từng khách hàng, từng nhóm khách hàng,
theo mặt hàng và lĩnh vực đầu tư, theo khu vực địa lý, theo dạng hợp đồng, dạng tài sản
đảm bảo, theo trình độ của cán bộ tín dụng. Trên cơ sở đó, tránh mức độ tập trung của
danh mục các DAĐT được cấp tín dụng. Một nội dung quan trọng khác là phải chú y các
rủi ro mới, trước đó chưa được phát hiện.
1.2.4.3 Xây dựng chính sách và quy trình cấp tín dụng đối với các DAĐT
xin vay vốn:

Chính sách cấp tín dụng đối với các DAĐT xin vay vốn đặt ra mục tiêu, tham số định
hướng cho cán bộ NH, những người làm công tác cho vay và quản trị danh mục đầu tư.
Chính sách được xây dựng dựa trên chiến lược và chính sách hoạt động tín dụng của NH.
Chính sách xây dựng khoa học, cẩn thận thông suốt từ trên xuống dưới sẽ tạo điều kiện cho
NH duy trì tiêu chuẩn tín dụng của mình, tránh rủi ro quá mức và đánh giá đúng về các cơ
hội kinh doanh.
Một chính sách cho vay đối với các DAĐT tốt phải là một ứng dụng thông minh của
những nguyên tắc tín dụng thích hợp với những thay đổi của các nhân tố và môi trường
kinh tế. Công việc của người cán bộ tín dụng là xem xét xác định xem DAĐT nào nên cho
vay, áp dụng loại sản phẩm nào, cho ai vay, với những điều kiện như thế nào.
Nội dung cơ bản của một chính sách cho vay đối với các DAĐT thông thường bao
gồm:
- Miêu tả thị trường tín dụng mục tiêu của NH
- Tuyên bố tiêu chuẩn đối với danh mục những DAĐT có thể cho vay của NH
- Xác định quyền hạn, trách nhiệm, của cán bộ tham gia quá trình ra quyết định cho
vay đối với những DAĐT xin cấp tín dụng
- Những thủ tục, hoạt động cần thiết cho việc chào mời, xem xét, đánh giá và ra
quyết định đối với yêu cầu vay vốn của chủ đầu tư
- Các tài liệu cần thiết trong hồ sơ vay vốn
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay; hướng dẫn tiếp nhận, đánh giá, bảo quản tài sản
bảo đảm.
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chính sách, phương pháp xác định lãi suất, các khoản phí và thời hạn vay vốn, kì
hạn trả nợ
- Một bản tiêu chuẩn thích hợp áp dụng chung cho toàn bộ danh mục các DAĐT có
thể cho vay
- Giới hạn cho vay tối đa đối với từng loại DAĐT
- Phát hiện, phân tích và xử lý các khoản vay có vấn đề
- Chính sách cho vay thận trọng đối với các NH có khó khăn tạm thời.

Có hai nội dung rất quan trọng của chính sách cho vay đối với các DAĐT mà chúng ta
cần phân tích kỹ hơn đó là các biện pháp bảo đảm tiền vay và giới hạn cho vay tối đa đối
với từng loại dự án cụ thể.
Biện pháp đảm bảo tiền vay là việc NH áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi
ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã cho các khách hàng vay
để đầu tư dự án. Bảo đảm tiền vay cũng được coi là một công cụ để quản lý rủi ro trong
hoạt động cho vay các DAĐT của NHTM vì khi yêu cầu chủ đầu tư vay vốn phải có đảm
bảo tín dụng sẽ nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, chủ đầu tư sẽ
thận trọng hơn khi thực hiện quyết định đầu tư của mình. Khi những khoản tín dụng được
cấp không có tài sản đảm bảo, phần vốn của bên vay tham gia rất ít hoặc không tham gia
vào DAĐT thì xu hướng tất yếu là bên vay sẽ thực hiện các dự án khác có mức độ rủi ro
cao hơn để mang lại lợi nhuận cao hơn vì nếu dự án có thất bại thì cái mà họ mất là không
đáng kể, ngược lại nếu dự án thành công thì lợi ích thu được lại rất lớn. Một lý do nữa làm
cho tài sản đảm bảo có một vai trò rất quan trọng là trong trường hợp nếu khách hàng
không có khả năng trả nợ thì NH có quyền thu giữ và bán tài sản đảm bảo để thu hồi khoản
vay. Khi đó, tài sản đảm bảo trở thành nguồn thu nợ thứ hai của khoản vay. Ngoài ra, theo
các quy định về phân loại nợ và trích lập quỹ dự phòng rủi ro, giá trị của tài sản đảm bảo
cũng được tính đến khi xác định mức dự phòng cụ thể cho từng khoản vay. Vì vậy, yêu cầu
về tài sản đảm bảo khi xem xét cho khách hàng vay vốn cũng rất quan trọng nhằm giảm
bớt mức trích lập quỹ dự phòng rủi ro của NH.
Giới hạn cho vay tối đa đối với từng loại dự án cụ thể là tổng mức dư nợ tín dụng tối
đa mà NH có thể chấp nhận giao dịch đối với chủ đầu tư trong một thời kì (thường là 1
năm). Giới hạn cho vay tối đa đối với từng loại dự án cụ thể cũng có thể hiểu là mức tín
dụng an toàn tối đa trong đó chủ đầu tư quản trị hiệu quả được hoạt động dự án của mình,
ở mức này rủi ro NH có thể chịu đối với doanh nghiệp là thấp nhất. Vượt qua giới hạn này,
độ rủi ro đã ở quá mức cho phép. Về mặt quản lý, giới hạn cho vay tối đa đối với từng loại
dự án cụ thể còn có những tác dụng sau đây:
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Giúp công tác quản lý rủi ro đối với một khách hàng được tập trung. Nếu không

xác định giới hạn cho vay tối đa đối với từng loại dự án cụ thể, mỗi phòng ban
nghiệp vụ của NH tự đánh giá rủi ro của mỗi DAĐT xin vay vốn riêng để cung cấp
sản phẩm mà phòng ban mình được phân công, do đó thông tin về một khách hàng
bị phân tán.
- Tăng cường tính tập thể, khách quan trong hoạt động cho vay các DAĐT vì giới
hạn cho vay tối đa đối với từng loại dự án cụ thể được quyết định thông qua kiến
của Hội đồng tín dụng.
- Trên cơ sở giới hạn cho vay tối đa đối với từng loại dự án cụ thể đã được xác định,
các NHTM hoàn toàn chủ động trong việc tiếp cận và đáp ứng nhu cầu vay vốn của
các chủ đầu tư, kể cả việc chủ động từ chối các chủ đầu tư có dự án không đảm bảo
chất lượng

Với tất cả nội dung và mục đích đó, chính sách cho vay đối với các DAĐT là cơ sở để
hình thành nên quy trình cho vay đối với các DAĐT, là một hướng dẫn nội bộ của NH về
trình tự xử lý các bước trong một quá trình cấp tín dụng cho các DAĐT xin vay vốn, nhằm
đảm bảo tính thống nhất thực hiện trong toàn bộ NH và tuân thủ các quy định có liên quan
của pháp luật.
Quy trình cho vay đối với các DAĐT phải nêu rõ tất cả các bước tác nghiệp cũng như
kết quả của tất cả các bước tác nghiệp, bao gồm các bước: thẩm định cho vay, ra quyết
định cho vay, giải ngân, theo dõi sau cho vay, giám sát toàn bộ quá trình cho vay, theo dõi
đặc biệt một số khoản vay, xử lý các món vay có vấn đề… Tại tất cả các khâu trong bước
tác nghiệp có khả năng gây ra rủi ro đều phải được đặt các chốt kiểm tra. Các chốt kiểm tra
trong quy trình cho vay đối với các DAĐT phải được bố trí một cách phù hợp, nếu nhiều
quá có thể tăng khả năng quản lý rủi ro nhưng tốn kém và mất thời gian, nếu ít quá mặc dù
có thể giảm được chi phí nhưng có thể gây rủi ro cao hơn. Vấn đề là NHTM phải tìm được
điểm cân bằng trong vấn đề này để quy trình cho vay đối với các DAĐT đảm bảo mọi việc
được xử lý một cách đầu đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền.
1.2.4.4 Kiểm tra, giám sát các khoản vay của các DAĐT:
Trong quan hệ tín dụng giữa NH và chủ đầu tư, một trong những khả năng dễ dẫn đến
rủi ro là rủi ro đạo đức. Một khi khoản vay đã được thực hiện – hợp đồng tín dụng đã được

kí kết và NH đã tiến hành giải ngân cho chủ đầu tư, thay vì đầu tư vào dự án xin cấp tín
dụng như trong hợp đồng, chủ đầu tư có thể mang số tiền đó đầu tư vào những hoạt động
khác, rủi ro lớn nhưng mang lại lợi nhuận cao cho bản thân. Để hạn chế rủi ro đạo đức này,
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
người ta thường dùng cơ chế giám sát để đảm bảo chắc chắn rằng chủ đầu tư đang sử dụng
khoản vay vào đúng mục đích cam kết với NH. Trong có chế giám sát, NH thường thực
hiện việc kiểm tra sử dụng vốn vay sau khi giải ngân, kiểm tra hoạt động đầu tư dự án của
chủ đầu tư theo định kì. Đây là yêu cầu bắt buộc trong quy trình cho vay đối với các
DAĐT của bất cứ NHTM nào.
Ngày nay, các NH sử dụng rất nhiều các biện pháp khác nhau để kiểm tra, giám sát các
khoản vay đối với các DAĐT, tuy nhiên, có thể kể đến một số biện pháp cơ bản đang được
áp dụng ở hầu hết các NH là:
- Tiến hành kiểm tra, giám sát tất cả các DAĐT đã cho vay vốn theo định kì nhất
định, thường là theo chu kì 30, 60, 90 ngày.
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận trọng,
chi tiết, đảm bảo rằng những khía cạnh quan trọng nhất của các khoản vay phải
được kiểm tra
- Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường kiểm
tra giảm sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liến quan đến khoản
vay
- Trong trường hợp tốc độ của nền kinh tế suy giảm hay các DAĐT thuộc các ngành
chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục cho vay của NH phải đối mặt với những vấn đề
lớn như sự xuất hiện của đối thủ cạnh tranh hay sự thay đổi công nghệ tạo ra nhu
cầu mới… thì NH cần phải tăng cường các biện pháp kiếm soát tín dụng
Kiểm tra, kiểm soát đối với những khoản vay của các DAĐT không bao giờ là công
việc thừa, lãng phí mà nó có vai trò hết sức quant rọng đối với một chương trình cho vay
lành mạnh của NH. Nó không chỉ giúp các nhà quản lý NH phát hiện ra những khoản vay
có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được các cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng
chính sách cho vay của NH hay không, từ đó các nhà quản lý trong NH có thể đánh giá

toàn bộ rủi ro tiềm tàng của NH và nhu cầu vốn cùa nó trong tương lai. Chính vì lí do này
cũng như để tăng cường tính khách quan trong quá trình kiểm soát tín dụng, rất nhiều các
NH lớn đã tách đội ngũ cán bộ kiểm soát tín dụng ra khỏi phòng tín dụng.
Một khía cạnh khác của hoạt động kiểm tra, giám sát các khoản vay của các DAĐT là
công tác kiểm tra giám sát nội bộ. Công tác kiểm tra giám sát nội bộ trong hoạt động cho
vay các DAĐT là một công cụ vô cùng quan trọng, thông qua hoạt động này có thể phát
hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cấp tín
dụng đối với các DAĐT xin vay vốn nói riêng và nghiệp vụ tín dụng nói chung của NH.
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng góp phần ngăn chặn phát hiện những rủi ro đạo
Nguyễn Phương Thảo – Lớp Đầu tư 48A 25

×