Website: Email : Tel : 0918.775.368
trờng Đại học Kinh tế Quốc dân
khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành quản trị kinh doanh quốc tế
chuyên đề thực tập tốt
nghiệp
Đề tài
THU HúT ĐầU TƯ TRựC TIếP NƯớC NGOàI VàO PHáT
TRIểN LĩNH VựC DịCH Vụ TRONG BốI CảNH
VIệT NAM Là THàNH VIÊN CHíNH THứC CủA WTO
Giáo viên hớng dẫn : pgs.ts. nguyễn THị HƯờNG
Sinh viên thực hiện : nguyễn thị quỳnh th
Lớp : KDQT A
Khóa : 46
Hệ : Chính quy
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Hµ Néi - 2008
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính tất yếu của đề tài
Thu hút FDI là một tất yếu khách quan, bắt nguồn từ sự phát triển của
thương mại quốc tế, liên kết kinh tế quốc tế. Trong thời đại ngày nay, không một
quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, đặc biệt là các nước chậm và đang phát triển lại
không cần FDI và coi đó là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Ngay
các cường quốc trên thế giới như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU….cũng rất cần FDI.
Dòng vốn FDI chủ yếu chảy vào các nước phát triển nhất. Khả năng vốn đầu tư
của thế giới hiện nay không lớn, nhưng nhu cầu về vốn đầu tư của tất cả các
quốc gia đều rất lớn và vượt xa các nguồn cung cấp. Do vậy, đã diễn ra một
cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước để tìm kiếm vốn. Quốc gia nào có môi
trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng, sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả
hơn sẽ giành được những ưu thế lớn hơn trong cuộc cạnh tranh này. Thu hút FDI
mang tính quy luật chung đối với tất cả các nước. Quy luật này càng bức bách
hơn đối với các nước đang phát triển và thiếu vốn như nước ta. Nước ta tiến
hành quá trình CNH – HĐH đất nước với xuất phát điểm thấp, các nguồn vốn
cho phát triển tích luỹ từ nội bộ rất eo hẹp. Do đó, giải pháp chiến lược giải
quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn lớn và nguồn vốn trong nước eo hẹp chỉ có
thể là khai thác các nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là FDI. FDI được coi là
chìa khoá của sự phát triển, phá vỡ vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Việc Việt
Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO)
càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút FDI từ các nước phát triển nhằm
phát triển toàn diện nền kinh tế đất nước, đặc biệt là trong dịch vụ giáo dục –
dịch vụ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của nền kinh tế
Trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, cách
nhìn chung của phần đông những người hoạt động trong ngành giáo dục đều coi
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
giáo dục là một phúc lợi xã hội hoạt động theo nguyên tắc phi thương mại.
Nhưng trong quá trình đàm phán để gia nhập WTO, Việt Nam đã theo đuổi lập
trường tích cực, chủ động và đã cam kết thực hiện Hiệp định chung về thương
mại dịch vụ (GATS) đối với tất cả 12 ngành dịch vụ, trong đó có giáo dục. Điều
này cũng có nghĩa là sau khi gia nhập WTO, giáo dục là một dịch vụ trong hoạt
động thương mại.
Thị trường giáo dục đại học ở Việt Nam đang được các nhà đầu tư nước
ngoài đánh giá là một thị trường tiềm năng do hệ thống các trường đại học của
Việt Nam hiện nay, cũng như trong trung hạn, hoàn toàn không có đủ khả năng
đáp ứng yêu cầu đại chúng hóa và nâng cao chất lượng giáo dục đại học theo
tinh thần của Nghị quyết 14-2005. Các nhà cung ứng giáo dục nước ngoài của
Mỹ, Anh, Úc, Nhật, Pháp... cũng như các nhà cung ứng giáo dục nước ngoài của
Trung Quốc, Ấn Độ, Singapore, Thái Lan... đang có nhu cầu lớn về xuất khẩu
giáo dục sang Việt Nam. Theo xu thế hiện nay, việc đầu tư xây dựng trường mới
sẽ không có nhiều, nhưng các cơ sở liên kết chắc chắn sẽ phát triển rất sôi động.
Vì vậy, sau khi thực hiện cam kết về GATS như trên, bức tranh giáo dục đại học
Việt Nam sẽ có biến động mạnh mẽ với sự ra đời của khá nhiều cơ sở giáo dục
nước ngoài, chủ yếu là các cơ sở giáo dục liên kết.
Với những lý do nêu trên, đề tài “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
phát triển lĩnh vực dịch vụ trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của
WTO” được chọn làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích:
Đề xuất giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch
vụ nói chung và dịch vụ giáo dục nói riêng trong bối cảnh Việt Nam là thành
viên chính thức của WTO
Nhiệm vụ:
• Hệ thống hoá cơ sở lý luận về thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo
dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
• Phân tích thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục tại Việt
Nam từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, trên cơ sở đó
tìm ra nguyên nhân của những tồn tại trong việc thu hút FDI vào phát
triển dịch vụ giáo dục Việt Nam.
• Kiến nghị các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là
thành viên chính thức của WTO
3.Đối tượng, phạm vi và giác độ nghiên cứu
Đối tượng của đề tài là thu hút FDI vào phát triển các dịch vụ ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung nghiên cứu việc phát triển dịch
vụ giáo dục ở Việt Nam.
Giác độ nghiên cứu: vĩ mô.
4.Kết cấu đề tài
Đề tài được chia làm 3 chương như sau:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực
dịch vụ và sự cần thiết phải thu hút FDI vào phát triển dịch vụ
giáo dục
Chương II: Thực trạng thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong
bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
Chương III: Một số định hướng và giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI
vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh Việt Nam là
thành viên chính thức của WTO
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THU HÚT FDI VÀO PHÁT TRIỂN LĨNH
VỰC DỊCH VỤ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI THU HÚT FDI VÀO PHÁT
TRIỂN DỊCH VỤ GIÁO DỤC
1.1.Những vấn đề lý luận về thu hút FDI
1.1.1.Khái luận chung về FDI
1.1.1.1.Khái niệm FDI và dự án FDI
Theo IMF, FDI là một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó,
một tổ chức trong nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ
một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực
tiếp là muốn có những ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền
kinh tế đó. Lợi ích lâu dài ở đây ngụ ý sự tồn tại của mối quan hệ dài hạn giữa
nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp có vốn FDI và tác động đáng kể của nhà
đầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp đó.
Hội nghị Liên hợp quốc tế về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cũng
đưa ra một định nghĩa về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung
cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp
nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư nước ngoài nhận
được từ doanh nghiệp FDI. FDI có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư
và các khoản vay trong nội bộ công ty.
Theo Luật Đầu tư của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam số 59/2005/QH11 ban hành ngày 29/11/2005 và bắt đầu có hiệu lực từ
ngày 1/7/2006 thì “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành các hoạt động
đầu tư”. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư
vào Việt Nam.
Từ các định nghĩa trên có thể hiểu một cách khái quát về FDI như sau:
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
“FDI là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài tự
mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào một đối tượng
nhất định, trực tiếp quản lý điều hành để thu lợi nhuận trong kinh doanh. Hoạt
động FDI được thực hiện thông qua dự án gọi là dự án FDI”.
Dự án FDI là những dự án đầu tư do các tổ chức kinh tế và cá nhân ở
nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân ở nước tiếp
nhận đầu tư bỏ vốn đầu tư, trực tiếp quản lý điều hành để thu lợi nhuận trong
kinh doanh.
1.1.1.2.Đặc điểm của dự án FDI
Các dự án FDI trước hết cũng là dự án đầu tư nên cũng có đầy đủ các đặc
trưng cơ bản của một dự án đầu tư nói chung, đó là:
• Đầu tư là một hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước
hết là quyết định tài chính.
• Đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài (chiến lược).
• Đầu tư là hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi
ích lâu dài.
• Đầu tư là hoạt động mang nặng rủi ro.
Ngoài các đặc trưng chung nói trên, các dự án FDI còn có các đặc trưng
mang tính chất đặc thù so với các dự án đầu tư nước ngoài. Đó là các đặc trưng
sau:
• Nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp tham gia hoặc tự mình quản lý điều
hành đối tượng bỏ vốn.
• Các bên tham gia vào dự án FDI có quốc tịch khác nhau, đồng thời
sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau.
• Dự án FDI chịu sự tác động đồng thời của nhiều hệ thống pháp luật,
bao gồm luật pháp của quốc gia nước sở tại và pháp luật, thông lệ quốc tế.
Quá trình tự do hóa thương mại và đầu tư quốc tế đòi hỏi các quốc gia
phải tiến hành cải tiến hệ thống pháp luật của mình cho phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
• Có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá
trình hoạt động của dự án.
• Các dự án FDI được thực hiện thông qua nhiều hình thức đầu tư có
tính chất đặc thù. Đó là việc hình thành các pháp nhân mới có yếu tố nước
ngoài, hoặc là sự hợp tác có tính đa quốc gia trong các hình thức hợp đồng
hợp tác kinh doanh hoặc BOT, hoặc là tạo ra các khu vực đầu tư tập trung
đặc biệt có yếu tố nước ngoài.
• “Cùng có lợi” là phương châm chủ đạo của các bên, là nguyên tắc
cơ bản để giải quyết quan hệ giữa các bên trong mọi giai đoạn của dự án
FDI.
Tóm lại, các đặc trưng cơ bản trên của các dự án FDI đã cho thấy, dự án
FDI về bản chất là sự hợp tác theo nguyên tắc thỏa thuận của nhiều quốc gia với
quốc tịch, ngôn ngữ, văn hóa, trình độ phát triển khác nhau. Chính sự khác nhau
nhiều mặt trong quá trình hợp tác đầu tư giữa các Bên đã làm cho dự án FDI trở
nên phức tạp trong quá trình soạn thảo, triển khai và vận hành. Các đặc trưng
này đòi hỏi các Bên trực tiếp hợp tác đầu tư và các quốc gia cần chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà đầu tư nước ngoài một
cách hữu hiệu nhất và hạn chế ở mức cao nhất những rủi ro có thể xảy ra trong
quá trình hợp tác đầu tư với các quốc gia khác.
1.1.1.3.Các hình thức của FDI
Để thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ở nước ngoài, các nhà đầu tư có
thể xây dựng một cơ sở sản xuất hoàn toàn mới hay mua lại các cơ sở sản xuất
đang hoạt động tại nước sở tại. Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo nhiều
hình thức khác nhau, trong đó có những hình thức áp dụng phổ biến, bao gồm:
• Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
• Doanh nghiệp liên doanh
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
• BT, BOT, BTO
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Tùy vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, các hình thức đầu tư trên
được áp dụng ở mức độ khác nhau.
1.1.2.Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI
1.1.2.1.Khái niệm thu hút FDI
Thu hút FDI có thể coi là quá trình xây dựng môi trường đầu tư trực tiếp
nước ngoài nhằm tạo điều kiện không những cho vốn đầu tư nước ngoài mà cả
vốn đầu tư trong nước cũng được đưa vào thực hiện một cách thuận lợi với tư
cách là phần vốn góp của nước sở tại trong liên doanh. Về bản chất, thu hút FDI
là hình thức nhập khẩu tư bản (đối với nước tiếp nhận đầu tư) và xuất khẩu tư
bản (đối với nhà đầu tư ra nước ngoài), một hình thức cao hơn xuất nhập khẩu
hàng hóa. Cùng với hoạt động ngoại thương, thu hút FDI trên thế giới ngày càng
phát triển mạnh mẽ, hợp thành dòng chảy chính trong trào lưu có tính quy luật
liên kết hợp tác kinh tế thế giới.
1.1.2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI
1.1.2.2.1.Nhóm nhân tố kéo
Sự ổn định chính trị và an ninh quốc gia là nhân tố đầu tiên mà các nhà
đầu tư xem xét trước khi quyết định đầu tư hay không đầu tư vào một quốc gia
nào đó do nhân tố này đảm bảo cho tính mạng và tài sản của các nhà đầu tư khỏi
những rủi ro chính trị.
Sự thân thiện của chính quyền địa phương qua các thủ tục hành chính đối
với nhà đầu tư. Hệ thống dịch vụ công minh, minh bạch, hiệu quả và công bằng
qua việc cấp giấy phép, thủ tục hải quan, mức thu thuế... có hiệu quả và không
tham nhũng.
Sự ổn định, nhất quán, bình đẳng của các chính sách quản lý đối với các
dự án đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài.
Kế hoạch, quy hoạch các vùng, các ngành nghề, lĩnh vực địa bàn... của
bên nhận đầu tư để hoạch định chương trình, kế hoạch cho công ty khi đầu tư.
Nhu cầu về vốn FDI để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
đất nước của các nước đang phát triển là rất lớn, tạo nên lực hút mạnh mẽ đối
với vốn FDI.
1.1.2.2.2.Nhóm nhân tố đẩy
Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa thúc đẩy quá trình
tự do hóa thương mại và đầu tư. Quá trình hội nhập của các nền kinh tế quốc gia
đã làm cho các nước dỡ bỏ sự kiểm soát chặt chẽ đối với hàng hóa, nhân công,
luồng vốn lưu chuyển trên thị trường của mình. Nền kinh tế thế giới, khu vực
dần trở thành một chỉnh thể thống nhất. Nguồn vốn được vận động theo đúng
quy luật của nó, chảy vào những nơi có khả năng sinh lợi cao.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin
đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước tạo nên sự
dịch chuyển vốn giữa các quốc gia.
Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên
lực đẩy đối với vốn FDI.
Quan hệ cung cầu về vốn đầu tư là quan hệ cơ bản chi phối mức độ cạnh
tranh giữa các quốc gia, khu vực về vốn FDI. Hiện nay đang diễn ra một cuộc
cạnh tranh khốc liệt giữa các quốc gia để tìm kiếm nguồn vốn. Quốc gia nào có
môi trường đầu tư hấp dẫn hơn và có khả năng sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả
hơn thì sẽ có lợi thế hơn trong cuộc cạnh tranh này.
1.1.2.3.Nội dung thu hút FDI trên giác độ vĩ mô
1.1.2.3.1.Xác định mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục
Hợp tác giáo dục với các nước trong khu vực và thế giới là nhu cầu hướng
tới nền giáo dục hiện đại và hội nhập. Trong thời đại ngày nay, tri thức nhân loại
đã ở giai đoạn phát triển cao và lan tỏa nhanh trên toàn cầu. Giáo dục là cầu nối
truyền tải mọi tri thức và công nghệ tiên tiến giữa các quốc gia. Ngày nay, trên
thế giới đã có nhiều hình thức dịch vụ giáo dục đa quốc gia phát triển mang lại
lợi ích to lớn cho các nền kinh tế thế giới. Để thụ hưởng được tri thức nhân loại
nhanh chóng, chúng ta không thể bỏ rơi cơ hội hợp tác với các trường, các
chương trình quốc tế chất lượng cao để phát triển nền giáo dục nước nhà. Do
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
vậy, tăng cường lựa chọn hợp tác với các nước trong khu vực và thế giới về giáo
dục một cách tối ưu, chất lượng và hiệu quả đang là đòi hỏi của dân tộc ta trong
tiến trình hội nhập và cạnh tranh quốc tế. Để tăng cường và mở rộng hợp tác
quốc tế, chúng ta cần có chiến lược hiện đại hóa giáo dục trên cơ sở quy hoạch
lại mạng lưới trong hệ thống giáo dục quốc dân và đầu tư xây dựng các cơ sở vật
chất kỹ thuật cần thiết cho nền giáo dục hiện đại. Thu hút FDI vào phát triển
dịch vụ giáo dục là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược hiện
đại hóa giáo dục. Mục tiêu thu hút FDI là tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm
quản lý giáo dục của các nước phát triển nhằm phát triển dịch vụ giáo dục của
Việt Nam.
1.1.2.3.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư thuận lợi cho việc phát
triển dịch vụ giáo dục
Đây là vấn đề có tính then chốt trong việc tổ chức thu hút FDI. Môi
trường đầu tư là tổng thể các bộ phận mà ở đó chúng tác động qua lại lẫn nhau
và chi phối mạnh mẽ đến các hoạt động đầu tư, buộc các nhà đầu tư phải tự điều
chỉnh các mục đích, hình thức, phạm vi hoạt động cho thích hợp, tạo điều kiện
cho hoạt động kinh doanh và đưa đến hiệu quả cao trong kinh doanh. Khi xem
xét môi trường đầu tư, các nhà kinh doanh và nhà quản lý cần phải thấy một số
đặc điểm cơ bản trong quá trình tạo dựng và đánh giá môi trường đầu tư.
Thứ nhất, môi trường đầu tư không phải là cố định mà luôn biến đổi
không ngừng do sự thay đổi của các yếu tố cấu thành tức là môi trường thành
phần. Do đó, khi phân tích đánh giá môi trường đầu tư phải đứng trên quan điểm
rộng. Tính chất của môi trường đầu tư luôn thay đổi là do mối tương quan giữa
môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư của các nước khác. Không
có một môi trường đầu tư cố định.
Thứ hai, sự thay đổi trong từng môi trường thành phần kéo theo và tác
động đến sự thay đổi trong môi trường đầu tư. Điều này đòi hỏi khi phân tích
đánh giá môi trường đầu tư phải xem xét một cách tổng thể trong mối quan hệ
chặt chẽ và với một mối tương quan cụ thể giữa các môi trường thành phần.
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Thứ ba, ngày nay, xu thế hội nhập không ngừng gia tăng, các doanh
nghiệp không chỉ kinh doanh trong nước mà còn hướng ra nước ngoài. Các nhà
đầu tư cần đánh giá cả môi trường đầu tư trong nước và môi trường đầu tư của
những nước bên ngoài và tương quan giữa môi trường đầu tư các nước. Môi
trường đầu tư phải là một sân chơi bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư.
Đối với dịch vụ giáo dục thì càng cần xây dựng một môi trường đầu tư
công bằng, bình đẳng, lành mạnh với khung pháp lý rõ ràng nhằm tạo điều kiện
cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào dịch vụ giáo dục – lĩnh vực không
nằm ngoài quỹ đạo của xu hướng toàn cầu hóa.
1.1.2.3.3.Xác định các yêu cầu cần thiết đối với việc phát triển dịch vụ giáo
dục
Hội nhập quốc tế về giáo dục phải làm cho giáo dục Việt Nam phát triển
nhanh về số lượng, vững chắc về chất lượng, đảm bảo yêu cầu phát triển của đất
nước, phục vụ mục tiêu chính trị cơ bản của Đảng và nhân dân ta là giữ vững
chủ quyền quốc gia, định hướng xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Bảo đảm mục tiêu phát triển con người toàn diện, có năng lực thích ứng
với tình hình mới. Đồng thời phải xem giáo dục là quyền và lợi ích của nhân
dân. Nhà nướcphải bảo đảm để mọi người dân có điều kiện học tập, có cơ hội
phát triển, quan tâm đến nhân dân lao động và người nghèo. Giáo dục là sự
nghiệp của toàn dân. Hội nhập về giáo dục cũng là công việc của nhân dân, vì
vậy, cần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân
dân trong nước cũng như của kiều bào ở nước ngoài.
Phát huy tối đa nội lực, độc lập và chủ động trong quá trình hội nhập giáo
dục. Mở rộng hợp tác đi đôi với quản lý chặt chẽ. Tích cực chuẩn bị tốt các điều
kiện để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro. Cần
mạnh dạn phát huy các lợi thế, tận dụng các cơ hội, đồng thời phải quản lý tốt
quá trình hội nhập.
Cạnh tranh trong hội nhập quốc tế xét đến cùng là cạnh tranh về giáo dục
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
đào tạo. Đây là cuộc đấu tranh gay go phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng.
Nắm vững cam kết, tham khảo kinh nghiệm các nước, đồng thời căn cứ vào chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xác định nội dung và lộ trình hội
nhập quốc tế, làm rõ cái gì phải tích cực khai thác, cái gì phải bảo vệ, cái gì cần
ngăn chặn.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý
của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển hội nhập giáo dục
quốc tế.
1.1.2.3.4.Xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư vào
dịch vụ giáo dục
Việc xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các nhà đầu tư vào dịch
vụ giáo dục cũng tương tự như việc xét duyệt và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho
các dự án có vốn FDI, cụ thể: Dự án đầu tư có quy mô vốn dưới 300 tỷ đồng
Việt Nam và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện sẽ thuộc diện được đăng
ký cấp giấy chứng nhận đầu tư. Nội dung và thủ tục đăng ký đầu tư:
Hồ sơ đăng ký đầu tư trong trường hợp không gắn với thành lập tổ chức
kinh tế: Trong trường hợp đăng ký dự án có vốn đầu tư nước ngoài không gắn
với thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư phải nộp một bộ hồ sơ đến cơ quan nhà
nước quản lý đầu tư, bao gồm các tài liệu sau:
• Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh đối với hình thức đầu tư theo Hợp đồng hợp
tác kinh doanh;
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách
nhiệm).
Hồ sơ đăng ký đầu tư trong trường hợp gắn với thành lập tổ chức kinh tế:
Trong trường hợp đăng ký dự án có vốn đầu tư nước ngoài có gắn với thành lập
tổ chức kinh tế, nhà đầu tư phải nộp một bộ hồ sơ đến cơ quan nhà nước quản lý
đầu tư, bao gồm các tài liệu sau:
• Bản đăng ký/đề nghị cấp giấy chứng nhận đầu tư đối với trường hợp gắn
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
với thành lập tổ chức kinh tế
• Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu
trách nhiệm).
• Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan
• Hợp đồng liên doanh đối với hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
liên doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam phải có dự án
đầu tư và làm thủ tục đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư tại cơ quan quan nhà
nước quản lý đầu tư để cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Thủ tục đăng ký đầu tư: Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được hồ sơ đăng ký đầu tư và hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ, cơ quan nhà
nước quản lý đầu tư kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký đầu tư, hồ sơ đăng
ký kinh doanh (đối với trường hợp thành lập tổ chức kinh tế gắn với dự án đầu
tư) và cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
1.1.2.3.5.Xúc tiến đầu tư nhằm thu hút FDI vào lĩnh vực dịch vụ giáo dục
Xúc tiến đầu tư thực chất là hoạt động đối ngoại nhằm quảng bá hình ảnh
môi trường đầu tư hấp dẫn trong nước ra các nước trên thế giới, qua đó kêu gọi
đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
1.1.2.3.6.Các chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động thu hút FDI
Có nhiều chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động thu hút FDI. Sau đây là các
chỉ tiêu cơ bản:
Quy mô vốn FDI: Đây là tổng vốn FDI đã thu hút được trong một khoảng
thời gian nhất định. Chỉ tiêu này thường được xem xét trước tiên khi đánh giá
kết quả thu hút FDI. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
Số lượng các dự án FDI: Hoạt động FDI được thực hiện thông qua các dự
án FDI. Vì thế, về cơ bản, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Tuy nhiên, việc xem
xét chỉ tiêu này cần phải đi kèm với việc đánh giá quy mô, tính khả thi và hiệu
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
quả của dự án.
Số vốn bình quân của một dự án FDI: Chỉ tiêu này cho biết quy mô bình
quân của mỗi dự án. Mặc dù có được nhiều dự án FDI nhưng nếu số vốn bình
quân của một dự án nhỏ thì tổng lượng vốn FDI thu hút được sẽ không lớn và
hiệu quả kinh tế xã hội tạo ra sẽ không nhiều. Do vậy, bất kỳ quốc gia nào cũng
mong muốn chỉ tiêu này cao.
Tốc độ thu hút FDI: Chỉ tiêu này cho biết quy mô vốn FDI tăng hay giảm
và tăng, giảm nhanh hay chậm. Dựa vào chỉ tiêu này có thể so sánh được kết quả
thu hút FDI ở thời kỳ này so với thời kỳ khác.
Cơ cấu FDI: Có nhiều loại cơ cấu FDI: cơ cấu FDI theo lĩnh vực, theo
vùng, theo đối tác đầu tư và theo hình thức đầu tư. Cơ cấu FDI cho biết sự phân
bố, xu hướng vận động, phát triển của FDI, từ đó nước sở tại có những điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và quy hoạch của đất nước.
Trên đây là một số chỉ tiêu cơ bản dùng để đánh giá kết quả thu hút FDI.
Việc tính toán các chỉ tiêu trên cho từng quốc gia qua các năm cho thấy quy mô,
tốc độ, xu hướng FDI thu hút được vào các ngành, các vùng, hình thức đầu tư,
đối tác đầu tư... Cần phải xem xét tất cả các chỉ tiêu để có được cái nhìn toàn
diện về hiệu quả hoạt động thu hút FDI cả về mặt chất và mặt lượng.
1.1.3.Những cam kết đối với việc phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch
vụ giáo dục nói riêng của WTO
Theo cam kết, Việt Nam phải mở cửa 110 phân ngành thuộc 11 ngành
dịch vụ cho các thành viên WTO. Những cam kết này liên quan đến chế độ đầu
tư, hình thức thành lập doanh nghiệp, thuê đất, các biện pháp về thuế, trợ cấp
cho doanh nghiệp trong nước... Riêng về giáo dục thì tại khoản 3, điều 10 Hiệp
định chung về thương mại dịch vụ của WTO có nói về giáo dục: trừ hoạt động
giáo dục có nguồn tài trợ triệt để của Quốc gia; còn lại tất cả các hoạt động giáo
dục có thu học phí, hoặc mang tính thương mại đều thuộc phạm trù thương mại
giáo dục. Trong 12 nhóm thương mại dịch vụ, thì dịch vụ giáo dục thuộc nhóm
thứ 5. Dịch vụ nhóm này bao gồm: dịch vụ giáo dục tiểu học, dịch vụ giáo dục
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
trung học, dịch vụ giáo dục đại học và cao đẳng, dịch vụ giáo dục cho người lớn
và các dịch vụ giáo dục khác. GATS là phần quan trọng trong hiệp định WTO,
gồm 3 bộ phận: Hiệp định chung; các văn bản phụ lục; bảng giảm nhượng của
các nước. Tùy theo điều kiện phát triển giáo dục và luật pháp của nước ta mà có
thể đề xuất những lĩnh vực tham gia, giảm nhượng và mở cửa. Thương mại dịch
vụ khác với thương mại hàng hóa chủ yếu ở chỗ: dịch vụ là hàng hóa vô hình,
thương mại dịch vụ giữa các nước là trao đổi hàng hóa vô hình giữa các nước.
Giáo dục được xem là một loại hình dịch vụ cá nhân trong 12 nhóm ngành
dịch vụ thương mại nói chung. Vì vậy, giáo dục đương nhiên cũng sẽ hoạt động
theo 4 phương thức được quy định sẵn trong Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ: cung ứng xuyên quốc gia, tiêu thụ ngoài lãnh thổ, hiện diện thương mại,
hiện diện thể nhân.
Cung ứng xuyên quốc gia: một thành viên có thể cung ứng dịch vụ từ
nước mình đến bất kỳ quốc gia nào trong WTO. Với giáo dục chủ yếu là cung
ứng dịch vụ đào tạo, chương trình, giáo trình và giáo dục từ xa.
Tiêu thụ ngoài lãnh thổ: quốc gia thành viên có thể cung cấp dịch vụ từ
nước mình cho người tiêu thụ ở bất kỳ quốc gia nào trong WTO. Với giáo dục
chủ yếu là dịch vụ du học.
Hiện diện thương mại: việc cung cấp dịch vụ của một quốc gia thành viên
có thể cung cấp dịch vụ tới các quốc gia khác thông qua hiện diện thương mại.
Với giáo dục thể hiện ở chỗ một tổ chức giáo dục của một quốc gia thành viên
có thể mở hoạt động giáo dục, đào tạo của mình tại các quốc gia thành viên
khác.
Hiện diện thể nhân: việc cung cấp dịch vụ của nước thành viên có thể
cung cấp dịch vụ thông qua sự lưu chuyển công dân tự do đến bất cứ nước thành
viên khác. Với giáo dục, chủ yếu sẽ được thực hiện thông qua di chuyển hoạt
động giảng dạy, đào tạo, nghiên cứu giữa các trường, viện, học viện, các cơ sở
GD-ĐT, các công ty giáo dục khác trong tất cả các nước thành viên.
1.1.4.Đặc điểm của những cam kết về dịch vụ giáo dục của nước ta với WTO
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Giáo dục phổ cập, giáo dục quốc phòng, an ninh, Đảng, đoàn thể, một số
tổ chức xã hội không nằm trong dịch vụ giáo dục, còn lại mở dịch vụ mua, bán
tri thức cho người học. Tạo điều kiện để hệ thống giáo dục quốc dân nước ta ứng
phó và thích nghi chủ động, tự tin trước sự tác động mạnh mẽ của dịch vụ giáo
dục của các nước thành viên, đồng thời mở ra những cơ hội mới, nguồn đầu tư
mới trong hợp tác phát triển giáo dục với nước ngoài.
Dịch vụ cung ứng giáo dục xuyên quốc gia: chỉ nên cam kết về các lĩnh
vực khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh tế, nông, ngư nghiệp... Một số lĩnh vực
khác trong giáo dục mà về nội dung giáo dục và quản lý giáo dục khó có thể
khống chế, kiểm soát được những gì có hại đến an ninh quốc gia, đến con người
Việt Nam thì nhất định không cam kết.
Cam kết mở rộng và đầy mạnh tiêu thụ ngoài lãnh thổ để có thể tăng số
lượng công dân Việt Nam đi du học nước ngoài, đồng thời có chiến lược thu hút
học sinh, sinh viên nước ngoài đến Việt Nam học tập.
Phương thức hiện diện thương mại của dịch vụ giáo dục: Hạn chế việc
cho phép đơn phương tổ chức giáo dục nước ngoài được mở trường hoặc cơ sở
giáo dục tại Việt Nam. Mở rộng và tăng cường tổ chức hợp tác giáo dục giữa ta
và các nước thành viên và có thể để các nước thành viên hưởng đa số quyền lợi.
Tuy nhiên, để làm được việc này cần lập được danh mục những lĩnh vực, ngành
nghề nào ta cần phát triển, còn thiếu nhân lực, thiếu những người tài giỏi, để có
chính sách khuyến khích. Mặt khác, cần nhanh chóng hoàn thành và hoàn thiện
các văn bản pháp quy phù hợp với tình hình nước ta và những quy tắc, quy định
của WTO.
Sự hiện diện của thể nhân: Tất cả công dân các nước thành viên muốn đến
cung ứng dịch vụ giáo dục tại Việt Nam cần được các trường, các tổ chức giáo
dục khác ở nước ta mời, hoặc thuê... Người đến cung ứng dịch vụ giáo dục phải
có bằng đại học trở lên, có đủ bằng cấp, chức danh nghề nghiệp tương ứng và đã
có ít nhất 2 năm kinh nghiệm sau khi ra trường.
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
1.2.Thu hút FDI vào phát triển lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ giáo
dục nói riêng trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
1.2.1.Khái niệm dịch vụ
Trong nền kinh tế ngày nay, không chỉ đơn thuần có các sản phẩm vật
chất cụ thể (hàng hóa) mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Cả
hàng hóa và dịch vụ đều là sản phẩm của quá trình lao động, sản xuất của con
người nhằm phục vụ các nhu cầu của con người. Chúng cùng có giá trị và giá trị
sử dụng song hàng hóa là sản phẩm hữu hình còn dịch vụ là sản phẩm vô hình.
Khái niệm dịch vụ được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau do sự đa
dạng về chủng loại và tính vô hình của nó. Chính vì vậy, cho tới nay vẫn chưa
có một khái niệm thật sự thống nhất về dịch vụ.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thì thường định nghĩa dịch vụ
gắn liền với quá trình sản xuất. Các Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền
kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một
sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao
của con người thì dịch vụ phát triển”. Qua định nghĩa này, Các Mác đã chỉ ra
được nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ.
Cho đến những năm đầu của thế kỷ XX, nền kinh tế thị trường tại các
nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển rất mạnh khiến cho dịch vụ phát triển khá
nhanh và trở thành một ngành kinh tế quan trọng của các quốc gia, là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành kinh tế - xã hội như: kinh tế học, xã hội học, khoa
học quản lý... Lúc này, khái niệm dịch vụ cũng được hiểu theo các nghĩa rộng và
hẹp khác nhau, tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phương pháp luận kinh
tế của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng như phương pháp luận, đối
tượng và mục đích nghiên cứu của các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau.
Theo cách hiểu thứ nhất:
Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là một ngành kinh tế thứ ba ngoài công
nghiệp và nông nghiệp. Điều này có nghĩa là những lĩnh vực, hoạt động nằm
ngoài ngành công nghiệp và nông nghiệp đều được coi là dịch vụ.
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho khách
hàng trước, trong và sau khi bán.
Theo cách hiểu thứ hai:
Theo nghĩa rộng, khái niệm dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả
của nó không tồn tại dưới hình thái vật thể. Điều này có nghĩa là hoạt động dịch
vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh vực, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh
tế - xã hội, môi trường của từng quốc gia, từng khu vực cũng như toàn cầu.
Ngày nay, dịch vụ không chỉ bao gồm các lĩnh vực truyền thống như vận tải,
giao nhận, truyền thông, ngân hàng, du lịch, bảo hiểm... mà còn bao gồm những
lĩnh vực mới khác như dịch vụ văn hóa, dịch vụ hành chính, dịch vụ tư vấn pháp
luật, tư vấn hôn nhân...
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là làm một công việc đáp ứng một nhu cầu nào
đó của con người hoặc xã hội như vận chuyển, cung cấp, sửa chữa, bảo dưỡng
các máy móc, thiết bị, công trình. Một cách tiếp cận khác thì dịch vụ là một hoạt
động hay lợi ích cung ứng qua trao đổi chủ yếu là vô hình nhằm thỏa mãn nhu
cầu của con người, và không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện
dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất
Mặc dù các định nghĩa về dịch vụ chưa đạt được tới tính thống nhất chung
nhưng tựu trung lại dịch vụ là sản phẩm của quá trình lao động của con người
này nhằm thỏa mãn nhu cầu của những con người khác. Nó không tồn tại dưới
hình thái vật thể và không dẫn đến việc chuyển giao quyền sở hữu như các sản
phẩm hữu hình.
1.2.2.Đặc điểm của dịch vụ
Dịch vụ là các sản phẩm vô hình nên khó xác định: Khác với hàng hóa, sản
phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất hay vật phẩm cụ thể, không thể
nhìn thấy hay chạm vào dịch vụ trước khi tiêu dùng nó. Chính vì vậy, các công
tác lượng hóa, thống kê, đánh giá chất lượng và quy mô cung cấp dịch vụ trở
nên khó khăn hơn rất nhiều so với hàng hóa. Bên cạnh đó, vì không tồn tại dưới
dạng vật thể nên sẽ không xác lập được quyền sở hữu trên dịch vụ. Do đó, trong
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
quan hệ mua – bán dịch vụ sẽ không có việc chuyển giao quyền sở hữu dịch vụ
từ người bán sang người mua như quan hệ mua bán hàng hóa. Chủ thể của quan
hệ dịch vụ có một số khác biệt so với trong quan hệ hàng hóa. Đó là trong quan
hệ dịch vụ, chủ thể không quan tâm đến lợi ích sở hữu dịch vụ, không định đoạt
dịch vụ mà chỉ quan tâm tới quyền sử dụng và chất lượng dịch vụ.
Dịch vụ có tính không đồng nhất, khó tiêu chuẩn hóa: Các chủ thể tham
gia quan hệ mua bán thỏa thuận với nhau để thực hiện một công việc nào đó như
sửa chữa điện thoại, nhà cửa... Bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo
thỏa thuận và nhận tiền công. Thước đo để đánh giá chất lượng công việc phụ
thuộc vào mức độ “hài lòng” của bên yêu cầu dịch vụ và quá trình thực hiện
công việc của bên cung ứng dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ không thể tạo ra
được những dịch vụ như nhau trong những thời gian làm việc khác nhau. Bên
cạnh đó, khách hàng lại đánh giá chất lượng dịch vụ dựa vào cảm nhận của họ,
mà trong những thời gian khác nhau, sự cảm nhận của khách hàng là khác nhau,
và khách hàng khác nhau có những cảm nhận khác nhau. Bởi vậy, chất lượng
dịch vụ dao động trong một khoảng rất rộng, tùy thuộc vào hoàn cảnh tạo ra
dịch vụ.
Dịch vụ có tính không tách rời giữa quá trình sản xuất và tiêu dùng: Xét
dưới góc độ kinh tế, tính không tách rời được hiểu là việc sản xuất, cung ứng,
lưu thông, tiêu dùng dịch vụ là một quá trình liên hoàn, không có độ trễ về mặt
thời gian giữa các công đoạn, hay nói cách khác, quá trình sản xuất (cung ứng)
dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Ví dụ, trong dịch vụ tư vấn tài
chính, khi chuyên gia cung cấp dịch vụ tư vấn thì đồng thời khách hàng cũng
tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn đó. Với đặc trưng này, dịch vụ khác
hàng hóa ở chỗ: sản xuất hàng hóa tách khỏi lưu thông và tiêu dùng nên khi
được sản xuất ra, hàng hóa có thể được lưu kho bãi và không nhất thiết phải
tham gia ngay vào quá trình lưu thông, tiêu dùng. Sau quá trình tiêu dùng dịch
vụ, các giá trị và giá trị sử dụng của dịch vụ được chuyển tải vào các giá trị vật
chất khác, còn bản thân dịch vụ không tồn tại.
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Dịch vụ không thể cất trữ và lưu kho bãi: Do quá trình sản xuất và tiêu
dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và cất
trữ, lưu kho bãi, sau đó mới tiêu dùng được. Vì vậy, dịch vụ là sản phẩm không
lưu trữ được và không tồn tại khái niệm tồn kho hay dự trữ sản phẩm trong hoạt
động cung ứng dịch vụ.
Trên đây là những đặc trưng cơ bản của dịch vụ nói chung so với hàng
hóa hữu hình, tuy nhiên chúng không mang tính tuyệt đối mà vẫn còn tồn tại
một số ngoại lệ. Ví dụ, một số loại hình dịch vụ khi kết thúc quá trình cung ứng
sẽ tạo ra sản phẩm có hình thái vật chất như bản photocopy trong dịch vụ
photocopy. Hay hệ thống dịch vụ trả lời điện thoại tự động xét trên khía cạnh
nào đó có thể coi là dịch vụ lưu trữ được. Như vậy, có thể thấy sự phân biệt giữa
dịch vụ và hàng hóa thực ra chỉ mang tính chất tương đối.
1.2.3.Đặc trưng của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục
Giáo dục Việt Nam hiện đại có các đặc trưng sau:
Về mục tiêu giáo dục
Giáo dục phải đào tạo những con người Việt Nam vừa có những phẩm
chất tốt đẹp của dân tộc vừa có năng lực, bản lĩnh để thích ứng với mọi biến đổi
đa dạng và nhanh chóng của thị trường.
Trong bối cảnh thời đại và đất nước hiện nay, để tồn tại và phát triển, con
người phải học tập suốt đời, xã hội phải là một xã hội đào tạo. Giáo dục phải
thỏa mãn những nhu cầu học tập khác nhau của các đối tượng khác nhau, do đó
phải tiến hành đa dạng hóa trong giáo dục từ loại hình đến nội dung, phương
thức giáo dục và đa dạng hóa phải được thực hiện trên cơ sở chuẩn hóa. Thực
hiện xã hội hóa giáo dục là giải pháp cơ bản để xây dựng xã hội học tập.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, hội nhập quốc tế về giáo dục không chỉ
là xu thế và đòi hỏi khách quan mà còn là động lực quan trọng để phát triển giáo
dục.
Về tính chất giáo dục
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Là nền giáo dục tiến bộ, giàu tính nhân văn theo định hướng xã hội chủ
nghĩa vì sự phát triển toàn diện của con người. Đây là nền giáo dục thực sự của
dân, do dân và vì dân là sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền giáo
đục nhân văn.
1.2.4.Nội dung của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối
cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
1.2.4.1.Mục tiêu thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục trong bối cảnh
Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
Thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết với WTO. Sau khi gia
nhập WTO, Việt Nam phải chịu sức ép lớn về cam kết trong lĩnh vực giáo dục,
theo đó, giáo dục là một dịch vụ trong hoạt động thương mại và thương mại dịch
vụ giáo dục cần được tự do hóa.
Thu hút FDI trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo
chung của cả nước: Nghị quyết Trung ương khóa VIII đã đề ra các mục tiêu ưu
tiên của giáo dục và đào tạo nước ta: “Đào tạo nhân lực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt chú trọng nhân lực khoa học công nghệ trình
độ cao, cán bộ quản lý giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề, đào tạo nhân lực
cho các lĩnh vực công nghệ ưu tiên (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hóa), đào tạo nhân lực cho nông
thôn để thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo nhân lực cho xuất
khẩu lao động. Củng cố và nâng cao thành quả phổ cập tiểu học và xóa mù chữ.
Thực hiện và củng cố phổ cập trung học cơ sở trong cả nước”.
Trong quá trình thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục cần lựa chọn
dự án đảm bảo các định hướng chung cũng như các mục tiêu của Nhà nướcđề ra
đối với giáo dục và đào tạo trong từng thời kỳ phát triển, để khi dự án thực thi
thì quá trình phát triển của các dự án đó cùng với quá trình phát triển giáo dục
của Nhà nướccùng chung một hướng đã được hoạch định.
Nguồn vốn FDI là một nguồn vốn cần thiết, quan trọng trong tổng thể
nguồn lực chung đầu tư cho giáo dục đào tạo: Tổng nguồn vốn tập trung cho
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
phát triển giáo dục đào tạo bao gồm nguồn chi từ ngân sách Nhà nước, nguồn
vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn vốn đi vay từ trong và ngoài nước,
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn tư nhân. Trong đó, nguồn
vốn FDI có tính ưu việt hơn hẳn do nguồn vốn này là hình thức nhà đầu tư tự bỏ
vốn, tự chịu trách nhiệm kết quả đầu tư của mình nên trước khi có quyết định
đầu tư nhà đầu tư phải cân nhắc kỹ lưỡng, tính toán chi tiết cẩn thận để mang lại
hiệu quả cho mình và cho nước sở tại. Mặt khác, kèm theo quá trình đầu tư, nhà
đầu tư còn đầu tư mua sắm công nghệ hiện đại sang nước nhận đầu tư, cung cấp
giáo trình, sách, tài liệu tham khảo, truyền đạt kiến thức theo phương pháp tiên
tiến và có hiệu quả.
Giáo dục đào tạo là một lĩnh vực đặc biệt, nên thu hút FDI vào dịch vụ này
cần được quan tâm đặc biệt: Ngành giáo dục và đào tạo có đặc thù riêng được
thể hiện ở chức năng, nhiệm vụ cơ bản của ngành mà ở đó đối tượng của quá
trình giáo dục và đào tạo là con người và sản phẩm đầu ra của ngành là tri thức
và những giá trị phi vật chất. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả của dự án giáo dục
cần được nhìn nhận một cách toàn diện chứ không chỉ nhìn vào hiệu quả kinh tế
mà dự án mang lại.
1.2.4.2.Xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
Việc xây dựng và hoàn thiện môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
gồm các nội dung sau:
1.2.4.2.1.Xây dựng chính sách pháp luật
Chính phủ sẽ tập trung chỉ đạo xây dựng chiến lược, chính sách, quy
hoạch, kế hoạch phát triển; điều chỉnh chính sách đầu tư và tổ chức đánh giá
giáo dục.
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý và tăng cường công tác thanh tra,
giám sát; phối hợp hoạt động của các ngành, các cấp, các địa phương trong việc
thực hiện các chủ trương của giáo dục.
Thực hiện việc phân cấp và phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và các
điều kiện thực thi quyền hạn ở các cấp quản lý giáo dục từ Trung ương đến các
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
địa phương. Thực hiện phân cấp cho chính quyền địa phương quyết định chịu
trách nhiệm cụ thể hóa các chính sách giáo dục, huy động nguồn lực, xây dựng
và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, đảm bảo phát triển
quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục tại địa phương.
1.2.4.2.2.Xây dựng cơ chế đầu tư và tổ chức quản lý
Đối với dịch vụ giáo dục, việc xây dựng một cơ chế quản lý đặc biệt, khác
với cơ chế quản lý thông thường là một trong những nội dung quan trọng trong
việc xây dựng môi trường đầu tư. Do vậy, phải có bộ máy quản lý có đầy đủ
chức năng, quyền hạn để đưa ra những quyết định kịp thời trước những yêu cầu
của nhà đầu tư, đồng thời cũng có thể giám sát, quản lý một cách có hiệu quả
hoạt động đầu tư vào dịch vụ giáo dục. Bộ máy này phải gọn nhẹ tinh giản, hạn
chế đến mức thấp nhất tệ quan liêu, giấy tờ và tránh tình trạng nhiều cơ quan.
1.2.4.2.3.Duy trì môi trường chính trị xã hội ổn định
Môi trường chính trị xã hội biểu hiện ở các điểm: cục diện chính trị ổn
định, an ninh xã hội tốt, chính sách cởi mở, quan hệ quốc tế tốt đẹp, đối xử với
các nhà đầu tư công bằng, bình đẳng. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và đảm
bảo về vốn, tài sản và tính mạng, các nhà đầu tư không thể an tâm đầu tư ở một
quốc gia không ổn định về mặt chính trị, có chiến tranh, rối loạn trật tự xã hội
hoặc có chính sách, luật pháp thay đổi tùy tiện, thiếu thiện ý đối với người nước
ngoài. Do đó, một môi trường chính trị xã hội ổn định là yếu tố cân nhắc đầu
tiên đối với nhà đầu tư nước ngoài trước khi tiến hành hoạt động đầu tư quốc tế.
1.2.4.3.Xúc tiến đầu tư vào phát triển dịch vụ giáo dục
Đây là một trong những hoạt động đối ngoại quan trọng nhằm quảng bá
hình ảnh, môi trường đầu tư trong lĩnh vực giáo dục cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Cách thức tiến hành hoạt động này là khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng
nhìn chung đều bao gồm các công việc sau:
1.2.4.3.1.Xây dựng các danh mục thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo
dục
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
Danh mục này sẽ quy định các ngành nghề, hình thức đào tạo trong lĩnh
vực giáo dục được chính phủ khuyến khích thu hút đầu tư, không khuyến khích
thu hút đầu tư, thậm chí cấm đầu tư. Văn bản này có tác dụng định hướng hoạt
động FDI vào dịch vụ giáo dục cho các nhà đầu tư nước ngoài theo đúng quy
định của chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu
kinh tế xã hội đã đặt ra, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, kém hiệu quả.
1.2.4.3.2.Xây dựng các chương trình xúc tiến đầu tư nước ngoài hướng
vào phát triển dịch vụ giáo dục
Các chương trình xúc tiến đầu tư vào dịch vụ giáo dục bao gồm tổ chức
các buổi hội thảo giáo dục trong và ngoài nước nhằm giới thiệu thị trường giáo
dục tiềm năng cho các nhà đầu tư nước ngoài, tuyên truyền, phổ biến sức hấp
dẫn của môi trường đầu tư. Do tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến đầu tư nên
việc tiến hành hoạt động này cần phải có kế hoạch và bước đi cụ thể để đạt hiệu
quả thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục.
1.2.4.3.3.Thành lập các cơ quan chuyên trách việc xúc tiến đầu tư vào phát
triển dịch vụ giáo dục
Công tác xúc tiến đầu tư vào lĩnh vực giáo dục có vai trò quan trọng trong
thành công của việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo dục nên cần thiết
phải có các cơ quan chuyên trách có năng lực để thực hiện các công việc này
một cách khoa học, hiệu quả nhất. Các cơ quan này có thể đặt ở trong nước hoặc
ở nước ngoài.
1.2.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo
dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO
Các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI vào phát triển dịch vụ giáo
dục trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO bao gồm các
nhân tố thuộc môi trường quốc tế và các nhân tố thuộc môi trường quốc gia.
1.2.5.1.Các nhân tố thuộc môi trường quốc tế
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ sẽ tiếp tục phát triển với những
bước tiến nhảy vọt trong thế kỷ 21, đưa thế giới chuyển từ kỷ nguyên công
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: PGS.TS.Nguyễn Thị Hường
nghiệp sang kỷ nguyên thông tin và phát triển kinh tế trí thức, đồng thời tác
động tới tất cả các lĩnh vực, làm biến đổi nhanh chóng và sâu sắc đời sống vật
chất và tinh thần của xã hội. Khoảng cách giữa các phát minh khoa học - công
nghệ và áp dụng vào thực tiễn ngày càng thu hẹp lại; kho tàng kiến thức của
nhân loại ngày càng đa dạng, phong phú và tăng theo cấp số nhân.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, vừa là
quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát
triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Sự cạnh tranh kinh tế giữa các quốc gia sẽ ngày
càng quyết liệt hơn đòi hỏi phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
hàng hóa và đổi mới công nghệ một cách nhanh chóng. Các phương tiện truyền
thông, mạng viễn thông, Internet tạo thuận lợi cho giao lưu và hội nhập văn hóa,
đồng thời cũng đang diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa
dán tộc.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, sự phát triển năng động
của các nền kinh tế, quá trình hội nhập và toàn cầu hóa đang làm cho việc rút
ngắn khoảng cách về trình độ phát triển giữa các nước trở nên hiện thực hơn và
nhanh hơn. Khoa học - công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát nền
kinh tế - xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học - công nghệ,
phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò
chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực
của các thế hệ hiện nay và mai sau.
Hiện nay, ngay cả ở các nền giáo dục tiên tiến nhất thế giới cũng đang có
những biến đổi mạnh mẽ trước sức ép của xu hướng toàn cầu hóa. Nếu trước
đây, rất ít người hoạt động trong ngành giáo dục nghĩ đến khái niệm "khách
hàng" và lại càng ít bàn đến chuyện “lợi nhuận" mang lại từ chính nghề mà họ
đang làm, thì bây giờ đã khác. Bước vào nhũng năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI, giáo dục đã có những bước phát triển trên quy mô toàn cầu và đặt ra những
vấn đề chưa có tiền lệ bao giờ. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD)
cho biết, vào những năm đầu của thế kỷ này, thế giới có khoảng 2 triệu sinh viên
Nguyễn Thị Quỳnh Thư Lớp KDQT 46A
25