Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

ĐẢM bảo CHẤT LƯỢNG GIÁO dục đại học ở VIỆT NAM, THỰC TRẠNG và GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (494.08 KB, 11 trang )

ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Ở VIỆT NAM, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
LÊ HOÀNG VŨ
Ban ISO – Trường ĐH Công nghiệp thực phẩm Tp.HCM

TÓM TẮT
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đứng trước nhiều cơ hội để phát triển, đồng thời
cũng phải đối mặt nhiều nguy cơ và thách thức. Nền giáo dục Việt Nam cũng không nằm
ngoài qui luật khách quan đó. Khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Quốc tế (WTO) vào năm 2007 thì sức ép đặt trên nền kinh tế nói chung và
nền giáo dục càng lớn. Bởi vì, chất lượng giáo dục là nhân tố quyết định chất lượng nguồn
nhân lực để phát triển toàn diện mọi mặt của mỗi nước từ văn hóa, xã hội, kinh tế, an ninh
quốc phòng... Ngày nay, chất lượng giáo dục đại học luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của
toàn xã hội vì tầm quan trọng của nó với sự nghiệp phát triển đất nước trong xu thế quốc tế
hóa và toàn cầu hóa; làm thế nào để đảm bảo chất lượng giáo dục đang là chủ đề được
quan tâm và thúc đẩy phát triển. Tuy nhiên, công tác đảm bảo chất lượng giáo dục đại học
hiện nay chưa được quan tâm đúng mức và chưa thành hệ thống; đa phần chỉ dừng lại ở
hình thức kiểm soát chất lượng. Do đó, việc đẩy mạnh hoạt động đảm bảo chất lượng giáo
dục và đưa ra những giải pháp thích hợp là hết sức cần thiết.

QUALITY ASSURANCE OF HIGHER EDUCATION IN VIET
NAM, THE STATE AND SOLUTIONS
ABSTRACT
Entering the twenty-first century, humanity faces many opportunities to grow and
also faces many threats and challenges. Education in Vietnam is no exception to that rule
objectively. Especially since Vietnam became an official member of the World Trade
Organization ( WTO ) in 2007, the pressure placed on the general economy and the greater
education. Because the quality of education as factors that determine the quality of human
resources to develop all aspects of a comprehensive water from cultural, social, economic,
national security,… Today, the quality of education higher education is always the top
concern of the whole society on the importance of telling the country's development in the


trend of internationalization and globalization, how to ensure the quality of education is is
the subject of interest and promoting. However, the quality assurance of higher education
is not currently and has not paid adequate attention to the system, mostly limited to the
form of quality control. Therefore, promoting activities and provide appropriate solutions
is essential.


1. Đặt vấn đề
Giáo dục đại học trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đang đứng trước
một bài toán hóc búa là giải quyết mâu thuẫn giữa việc vừa gia tăng kiến thức, vừa phải
nâng cao chất lượng đào tạo phù hợp với yêu cầu xã hội đang biến đổi từng ngày. Xu
hướng mới cần cắt giảm thời gian đào tạo, đồng thời tạo điều kiện để người học được học
theo học chế tín chỉ, học liên thông, học đồng thời nhiều ngành, nhiều cấp học, nhiều bằng,
bậc học,… theo yêu cầu xã hội, hội nhập quốc tế và yêu cầu sở thích cá nhân.
Chất lượng giáo dục đại học là một trong những nền tảng quan trọng đối với sự phát
triển của các quốc gia trên thới giới. Để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, mỗi quốc
gia có hàng loạt các giải pháp toàn diện như chú trọng đến sự phát triển của cơ sở vật chất
của trường đại học, phát triển lực lượng nghiên cứu khoa học và giảng viên, nâng cao chất
lượng dạy và học, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ,
nâng cao năng lực quản lý giáo dục đại học… Bên cạnh đó, một trong những giải pháp
được nhiều nước trong khu vực quan tâm nhầm nâng cao chất lượng giáo dục đó là việc áp
dụng các mô hình quản lý và đảm bảo chất lượng (kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất
lượng, quản lý chất lượng tổng thể, đánh giá chất lượng…). Hiện nay, áp dụng mô hình
đảm bảo chất lượng cho việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học với công cụ là đánh giá
chất lượng (QA- Quality assurance) là xu hướng được nhiều nước sử dụng và việc này đã
tạo nên những bước chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng giáo dục đại học.

2. Quá trình đảm bảo chất lượng ở Việt Nam
Quá trình ĐBCL bắt đầu từ sự quản lý chất lượng bên trong cơ sở giáo dục đại học.
Việc thiết kế và đưa ra các quy trình, cơ chế đảm bảo chất lượng vào thực hiện, mặc dù có

sự hỗ trợ của các cơ quan bên ngoài, vẫn chủ yếu là trách nhiệm của các trường đại học.
Các cơ sở giáo dục đại học đánh giá kết quả đầu ra, chất lượng sản phẩm theo các chuẩn
mực nhất định và hiệu quả của các quy trình, cơ chế quản lý chất lượng. Để thực hiện đánh
giá ngoài, cơ sở giáo dục đại học phải tự đánh giá trước khi có sự tham gia của tổ chức bên
ngoài. Từ quá trình tự đánh giá phục vụ đảm bảo chất lượng, công khai hóa sự chịu trách
nhiệm và hướng tới mục tiêu đạt được quyền tự chủ nhiều hơn, các trường chứng minh
rằng họ có khả năng chịu trách nhiệm đối với người tài trợ, người sử dụng dịch vụ và toàn
bộ xã hội.
Sau khi có kết quả tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học, đoàn đánh giá ngoài sẽ
xem xét để kiểm nhận. Chứng nhận kiểm nhận có thể được cấp cho một chương trình đào
tạo hoặc cho cả đơn vị trường. Quá trình dảm bảo chất lượng theo quy trình này được trình
bày tóm tắt trong Sơ đồ sau:


Sơ đồ 1. Quá trình đảm bảo chất lượng (GS.TS Nguyễn Lộc)

Cơ sở GDĐT,
chương trình đào tạo
QLCL nội bộ

DẠY

Tự
đánh
giá

HỌC

Cải tiến
chất lượng


Thông tin
đại chúng

Quyết định kiểm định
/ không kiểm định

ĐÁNH
GIÁ
NỘI
BỘ

Báo cáo
đánh giá

ĐÁNH
GIÁ
NGOÀI

Báo cáo
thẩm định

Tổ chức kiểm
định
(Chứng nhận)
Cơ quan quản
lý GDĐH
(Công nhận)

ĐÁNH GIÁ NGOÀI

(chương trình đào
tạo, hoặc cơ sở GD
ĐT)

Đoàn đánh giá
độc lập

Như vậy, đảm bảo chất lượng là sự phối hợp trách nhiệm giữa cơ sở giáo dục đại học
với các cơ quan bên ngoài, nhưng trách nhiệm chính vẫn thuộc về các trường đại học. Chất
lượng chỉ có thể được duy trì và nâng cao nhờ hoạt động giảng dạy, học tập và quản lý chất
lượng trong nhà trường; là kết quả của sự tự đánh giá và điều chính trong hoạt động của cơ


sở giáo dục đại học. Nói cách khác, hoạt động quản lý chất lượng bên trong nhà trường là
điểm xuất phát, nền tảng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng giáo dục đại học của một
trường.

3. Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học trên thế giới
3.1. Ở Mỹ
Đảm bảo chất lượng là một quá trình hoạch định có hệ thống dùng để đánh giá
chương trình hoặc một trường đại học nhằm xác định chuẩn mực giáo dục. Các trường đại
học ở đây chủ yếu kết hợp tự điều chỉnh với sự kiểm định của các tổ chức chuyên môn phi
chính phủ (kiểm định các khóa học) và các hiệp hội kiểm định vùng (kiểm định các trường
đại học).
Một số đặc điểm cơ bản ở Mỹ là kiểm định luôn luôn gắn liền với công tác tự đánh
giá. Thông qua tự đánh giá, trường được kiểm định cung cấp thông tin và các tài liệu cần
thiết cho công tác kiểm định. Về quy trình kiểm định, việc kiểm định luôn gắn liền với
đánh giá đồng cấp, tức là những người có cùng chuyên môn tham gia đánh giá. Đối với
chuẩn mực đánh giá thì các chuẩn mực đánh giá ở đây thường mềm dẻo và được biến đổi
cho phù hợp với sứ mạng của từng trường.

Quá trình kiểm định gồm các thành tố sau: Các chỉ số thực hiện, tự đánh giá và đánh
giá ngoài với tập hợp các tiêu chí và các chỉ số đánh giá.
Thành tố 1, Các chỉ số: Là các dữ liệu định lượng về nguồn lực và việc thực hiện,
gồm: nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị, thư viện; các mô tả về toàn bộ sinh
viên, các chỉ số lựa chọn sinh viên nhập học, tình trạng duy trì tổng số sinh viên và tỷ lệ tốt
nghiệp.
Thành tố 2, Tự đánh giá (đánh giá trong): Là mức độ thành tích đạt được so với các
chuẩn mực và sự tham vọng của nhà trường (mục đích, mục tiêu của trường). Đánh giá của
phần này chủ yếu dựa vào thành tố 1 (các chỉ số thực hiện) và các yếu tố chủ quan.
Thành tố 3, Đánh giá ngoài: Là đánh giá của các chuyên gia về thành tích của
trường, dựa vào những chuẩn mực. Báo cáo của đánh giá này được cấp cho hai đơn vị đó
là trường đại học và cơ quan kiểm định.
Đặc điểm quan trọng đối với kiểm định ở Mỹ là mục đích của kiểm định chất lượng
không chỉ đảm bảo trường có trách nhiệm với chất lượng đào tạo mà còn mang lại động
lực cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình đào tạo. Về nội dung kiểm định chương
trình, ở Mỹ đã xác định việc kiểm định không chỉ tập trung đánh giá các yếu tố đầu vào mà
còn chú trọng cả quá trình đào tạo và chất lượng sinh viên tốt nghiệp ra trường.
Trường Đại học Standford (Đại học danh tiếng của Mỹ), Quá trình đảm bảo chất
lượng được áp dụng một tập hợp có chủ ý ở mỗi cấp độ thực hiện, gồm: Quá trình phê
chuẩn chương trình và chương trình học mới, đánh giá chương trình theo định kỳ, đánh giá
liên tục và thu thập dữ liệu. Các quá trình này liên quan đến quá trình chuẩn y, theo dõi kết
quả theo thời gian, và sử dụng kết quả đánh giá này để xem lại và cải thiện cấu trúc, các
quá trình, chương trình học và chương trình GD học.


3.2. Ở Úc
Các chính sách, thái độ, hành động và quy trình cần thiết để đảm bảo chất lượng đang
được duy trì và nâng cao. Cơ quan chất lượng của đại học Úc (AUQA-Australian Universities
Quanlity Agency), hoạt động như một quốc gia một cách độc lập, có nhiệm vụ kiểm tra, giám
sát, kiểm toán và báo cáo về hoạt động đảm bảo chất lượng của các trường đại học Úc. AUQA

được điều hành bời Hội đồng Bộ (với sáu thành viên), hoạt động độc lập với chính phủ, nhưng
lại dưới sự chỉ đạo của Hội đồng Giám đốc (có năm thành viên, do Chủ tịch hiệp hội các trường
đại học). Mục tiêu chính là cũng cố lòng tin của công chúng và thị trường quốc tế về chất lượng
của các trường đại học Úc. AUQA tiếp cận cơ bản nhằm đánh giá chất lượng của các trường đại
học dựa vào hệ thống kiểm soát bên trong của các trường kết hợp với sử dụng kiểm toán ngoài.
Thêm vào đó, có một cơ quan quốc gia riêng chịu trách nhiệm về kiểm toán độc lập ngoài các hệ
thống bên trong của nhà trường.
Trường Đại học Queenland (Học viện đứng đầu ở Úc về giảng dạy và nghiên cứu), cam
kết cung cấp khung mẫu cho quản lý và đảm bảo chất lượng. Tất cả các thành viên trong cộng
đồng các trường đại học có thể đóng góp vào việc cải thiện liên tục thông qua một chu kỳ nối
tiếp nhau: lập chiến lược, báo cáo và đánh giá. đảm bảo chất lượng và quản lý của trường là hoạt
động nỗ lực tiếp cận các quá trình ở mọi cấp độ đều có động lực thúc đẩy và nâng cao chất
lượng, gắn với văn hóa tổ chức của nhà trường.
3.3. Ở Thái Lan
Đảm bảo chất lượng được giới thiệu qua hệ thống kiểm tra của nhà trường, kiểm toán chất
lượng bên ngoài và kiểm định công nhận. Chú trọng các mục tiêu giáo dục đại học, sự thực hiện,
các kết quả hay chỉ số học tập và cải tiến chất lượng. Cơ cấu đảm bảo chất lượng gồm hai mảng
độc lập nhưng gắn kết chặt chẽ với nhau: Đảm bảo chất lượng bên trong do Bộ Công tác Đại học
(MUA-the Ministry of University Affairs) quản lý, còn đảm bảo chất lượng bên ngoài do Cục
tiêu chuẩn GD và đánh giá chất lượng quốc gia (ONESQA-Office for National Educational
Standards and Quanlity Assessments) quản lý.
Chức năng của ONESQA là thăm trường, cung cấp thông tin cho trường và Bộ Công tác
đại học, viết báo cáo đánh giá, giám sát chất lượng đào tạo của các đơn vị.
Chức năng của MUA là đẩy mạnh phong trào chất lượng trong toàn quốc, như: xây dựng hệ
thống đảm bảo chất lượng hoạt động thường xuyên, hỗ trợ các trường/khoa nghiên cứu về đảm bảo
chất lượng quốc tế, xã hội hóa công tác đảm bảo chất lượng, liên kết các trường, các tổ chức đảm bảo
chất lượng quốc tế. MUA còn yêu cầu các trường phải có hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong,
đồng thời cung cấp cho các trường đại học hướng dẫn 9 lĩnh vực chuyên môn bên trong, gồm: sứ
mệnh, mục tiêu, kế hoạch; giảng dạy và học tập; các hoạt động vui chơi giải trí của sinh viên; nghiên
cứu; dịch vụ GD phục vụ xã hội; giữ gìn văn hóa và nghệ thuật; quản lý hành chính; ngân sách; đảm

bảo và nâng cao chất lượng.
Hệ thống đảm bảo chất lượng ở các trường đại học của Thái Lan dựa trên nguyên tắc là
một mô hình “Đầu vào-Quá trình-Đầu ra” và đều phải tập trung vào việc dạy và học. Điểm chủ
yếu trong hệ thống đảm bảo chất lượng ở đây là các trường phải thành lập, có dẫn chứng bằng tài


liệu, thực hiện, duy trì và liên tục cải tiến hệ thống của mình. Hệ thống đảm bảo chất lượng gồm:
Đánh giá trong (do các trường ĐH chịu trách nhiệm) 2 năm đánh giá một lần và đánh giá ngoài
(do ONESQA thực hiện năm năm một lần, nếu đạt sẽ được cấp giấy chứng nhận).
Trường Đại học Chulalongkorn (lớn nhất Thái Lan, xếp hạng 78 của hệ thống các trường
đại học trên thế giới), hệ thống đảm bảo chất lượng có ý tưởng từ năm 1996, việc tự đánh giá
được thông qua các cuộc thăm viếng của các chuyên gia trên cơ sở ba kiểu hoạt động căn bản
(được coi là cơ sở cho hệ thống đảm bảo chất lượng của trường): Kiểm soát, hỗ trợ và thanh tra
chất lượng giáo dục. Tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng của trường cơ bản là: “Giảng dạy-học tập,
nghiên cứu, điều hành và hỗ trợ, các dịch vụ học thuật”. Điều này thể hiện quan điểm của trường
trong việc đảm bảo chất lượng ở cấp trường, khoa và bộ môn ở cả ba giai đoạn: đầu vào, quá
trình, đầu ra. Trong tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng giảng dạy-học tập thì phải hình thành các
hoạt động dạy-học, bao gồm: chương trình đào tạo, đội ngũ, quá trình giảng dạy-học tập, sinh
viên, các yếu tố hỗ trợ cần thiết cho các hoạt động GD nhằm tạo những sinh viên tốt nghiệp có
chất lượng cao.

4. Thực trạng đảm bảo chất lượng và quản lý chất lượng giáo dục đại học ở Việt
Nam
4.1. Chất lượng giáo dục đại học thấp so với yêu cầu thực tiễn
Giáo dục đại học nước ta, bên cạnh những thành tựu đạt được, thì chất lượng đầu ra còn
thấp so với yêu cầu do các điều kiện đầu vào và quá trình dạy học còn nhiều bất cập. Dư luận
trong và ngoài hệ thống giáo dục đại học đều cho rằng chất lượng giáo dục đại học không chỉ
thấp so với chuẩn mực quốc tế, khu vực mà còn ngay cả yêu cầu thực tiễn trong nước. Theo bảng
xếp hạng của Webometric các trường đại học ở Việt Nam năm 2012. Mỹ thống trị 3263 trường
được xếp hạng, trường đại học top đầu với đại học Havard thì Việt Nam chỉ có 117 trường đại

học Việt Nam không có trường nào nằm trong tốp 1000.
Bảng 1. Top 20 trường đại học Việt Nam do Webometrics xếp hạng năm 2012

Đại học

Mức độ
Hiện
diện
(Presence
Rank)

Mức độ
Tác động
(Impact
Rank)

Mức độ
Tiếp cận
mở
(Opennes
Rank)

Mức độ
Xuất sắc
(Excellence
Rank)

1051

Đại học Quốc gia Hà Nội


500

1755

953

2171

2

1104

Trường đại học Cần Thơ

1903

738

1317

2662

3

1806

Trường đại học Khoa học
& Công nghệ Hà Nội


858

2908

3234

2262

4

1923

Trường đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh

3117

1749

5408

1787

Xếp
hạng
ở Việt
Nam

Xếp
hạng ở

Thế
giới

1


5

1949

Trường đại học Thuỷ lợi

6227

240

4557

4606

6

1998

Trường đại học Nông
Lâm TP. Hồ Chí Minh

2155

2594


2842

2790

7

2227

Trường đại học Bách
khoa, đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh

1437

2046

1993

5230

8

2744

Trường đại học Huế

5996

3378


2892

3320

9

3171

Trường đại học Đà Nẵng

3170

4411

2538

4606

10

3470

Trường đại học Sư phạm
TP. Hồ Chí Minh

1187

2944


6038

5230

11

3597

Trường đại học Hà Nội

3470

3736

4691

4606

12

3653

Trường đại học Khoa
học tự nhiên

1019

4858

4217


5230

13

3736

Trường đại học Mở TP.
Hồ Chí Minh

4220

2368

5861

5230

14

3984

Trường đại học Giáo
dục (đại học Quốc gia
Hà Nội)

3877

4324


7125

3320

15

4089

Trường đại học Y dược
TP. Hồ Chí Minh

4457

6011

5694

3086

16

4157

Trường đại học Kinh tế
Quốc dân

7426

4607


6038

3238

17

4175

Trường đại học Duy Tân

1204

6529

3852

5230

18

4205

Trường đại học Y tế
công cộng

5798

3055

8345


3656

19

4466

Trường đại học Công
nghệ TP. Hồ Chí Minh
(HUTECH)

3594

3367

6754

5230

20

4650

Trường đại học Giao
thông vận tải Hà Nội

8296

4277


4159

5230

Nguồn: o/en/Asia/Vietnam
Chú thích: Bảng xếp hạng Webometrics là gì?


“Bảng xếp hạng trang web các trường đại học trên toàn thế giới” (Webometrics Ranking of World
Universities) là sáng kiến của phòng nghiên cứu Cybermetrics, thuộc Consejo Superior de
Investigaciones Científicas (CSIC), trung tâm nghiên cứu công lớn nhất của Tây Ban Nha (2). Bảng xếp
hạng Webometrics được công bố vào năm 2004 và được cập nhật định kỳ mỗi năm hai lần vào tháng 1 và
tháng 7 sau một tháng hoàn tất thu thập dữ liệu (3).
Mục tiêu của Webometrics là “khuyến khích và thúc đẩy việc đăng tải thông tin trên mạng internet”. Mục
đích chính là hỗ trợ các sáng kiến Tiếp cận Mở (Open Access initiatives) nhằm nâng cao khả năng tiếp
cận các thông tin về nghiên cứu khoa học và tài liệu học thuật xuất bản dưới dạng điện tử. Do đó bảng
xếp hạng không đánh giá các yếu tố về thiết kế trang web hay số lượng truy cập (4). Như vậy, kết quả xếp
hạng của Webometrics chỉ hướng đến đánh giá về nội dung và mức độ hiện diện ở môi trường mạng
internet của các trường đại học thông qua trang web chứ không phải là bảng xếp hạng các trường đại
học như Newsweek, Times Higher Education World University Rankings v.v…

Tuy nhiên, những thứ hạng mà các trường đại học Việt Nam đạt được trong thời gian vừa
qua đã thể hiện những sự thay đổi tương đối mạnh mẽ trong nhận thức và hoạt động của các
trường về những cơ hội và thách thức mà môi trường internet mang lại.
Đối với Việt Nam, sự quan tâm đến các bảng xếp hạng quốc tế là cần thiết để có thể xác
định được vị trí của giáo dục đại học Việt Nam so với thế giới. Tuy nhiên, để sự so sánh này có ý
nghĩa, chúng ta cần hiểu rõ về các tiêu chí và phương pháp xếp hạng của từng hệ thống. Sự hiểu
biết này cho phép ta lựa chọn một bảng xếp hạng phù hợp để giúp ta biết vị trí của mình, đồng
thời xác định những đối tác quốc tế có điều kiện tương tự với Việt Nam nhưng có được vị trí tốt
hơn để có thể học hỏi và cải thiện. Qua bảng xếp hạng trên có thể thấy chất lượng giáo dục đại

học Việt Nam đang ở “vùng trũng” trên bản đồ GD thế giới, công tác đảm bảo chất lượng chưa
được chú trọng. Trong nhiều năm qua, giáo dục đào tạo gặp khó khăn nhiều nhất vẫn là việc
đánh giá và kiểm tra do chúng ta cứ luẩn quẩn với cách đánh giá truyền thống, nêu thành tích, ít
tìm ra nguyên nhân tồn tại của chính mình. Do vậy, mặc dù hàng năm mỗi trường đều có rất
nhiều loại tổng kết, báo cáo nhưng vẫn không tìm ra nguyên nhân của yếu kém, lạc hậu. Có
nhiều nguồn minh chứng nhận định rằng chất lượng đầu ra (người tốt nghiệp), cũng như chất
lượng đào tạo của hệ thống chưa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội và chưa đáp ứng
được kỳ vọng của người sử dụng các dịch vụ mà các trường đại học cung cấp.
4.2. Thiếu một hệ thống chỉ số thực hiện và chuẩn mực chất lượng
Các cơ sở giáo dục đại học lạm dụng quyền tự chủ, như: Hạ chuẩn tuyển sinh; tuyển số
sinh viên nhiều hơn khả năng đào tạo mà không tính đến số lượng, chất lượng giảng viên, cơ sở
vật chất; mở thêm ngành đào tạo ồ ạt mà không theo một chiến lược nào, đổ xô vào ngành “hot”
mà bất chấp khả năng, mục tiêu, sứ mạng của mình, làm mất cân đối lớn trong xã hội. Nguyên
nhân của vấn đề trên là giáo dục đại học vẫn chưa đưa vào sử dụng hệ thống chỉ số thực hiện và
chuẩn mực chất lượng làm cơ sở pháp lý.
Một số trường đại học tư thục đang hoạt động trong điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị chưa
đủ (đi thuê của các trường khác) và sử dụng đội ngũ giảng viên cơ hữu từ các trường công lập
nên việc chủ động làm việc cho các trường tư thực không thường xuyên. Mặt khác, các trường tư
thục không có đủ thư viện, tài liệu và sách vở phục vụ cho việc dạy và học.


Thực trạng chất lượng giáo dục đại học chưa được đánh giá thông qua các chỉ số đầu vào,
chỉ số quá trình đào tạo và chỉ số kết quả đầu ra. Hầu như các trường đại học chưa có thói quen
sử dụng hệ thống thông tin quản lý, các thông tin chưa được xây dựng trên cơ sở số liệu thống kê
mà chỉ tính toán theo chỉ số thực hiện. Một vấn đề khác nữa là hệ thống giáo dục đại học nước ta
chưa hình thành nề nếp nhận thông tin định kỳ từ các cơ sở giáo dục đại học theo các chỉ số quy
định, và các trường cũng không có thói quen nhận thông tin phản hồi từ người tốt nghiệp và
người sử dụng lao động để có cơ sở điều chỉnh chương trình, quy trình đào tạo hiện hành; việc sử
dụng hệ thống các chỉ số thực hiện và xác định các chuẩn mực chất lượng tối thiểu là cần thiết và
cấp bách.

4.3. Bộ máy, cơ chế và cán bộ chưa thay đổi phù hợp với phương thức quản lý mới
Hiện nay, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học vẫn còn làm thay công việc
của các trường, (mặc dù hệ thống đang chuyển sang hướng phi tập trung hóa) mà chưa tập trung
vào việc ban hành các chính sách và quy chế đã được thông qua.
Các cơ sở giáo dục đại học, một mặt vẫn yêu cầu nhiều quyền tự chủ hơn, nhưng chưa
chủ động thực hiện các công việc quản lý của mình và nhất là chưa thể hiện sự chịu trách nhiệm
về chất lượng, giáo dục đại học đào tạo. Tính chịu trách nhiệm chưa cao thể thiện ở sự công khai
với nhà nước, cán bộ, sinh viên và xã hội những hoạt động của nhà trường theo các quy trình, cơ
chế được xây dựng và pháp lý hóa.

5. Các giải pháp góp phần nâng cao công tác đảm bảo chất lượng giáo dục đại học ở
Việt Nam
- Các trường ĐH tổ chức nghiêm túc nhiệm vụ tự đánh giá (đánh giá nội bộ) và đổi mới
hoạt động đào tạo, nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ giáo dục. Phải tạo được sự ủng hộ và cam
kết mạnh mẽ của lãnh đạo; phát triển mạng lưới chuyên gia nắm được kỹ thuật, phương pháp và
tổ chức đánh giá; có nguồn tài chính phù hợp và có động lực đánh giá nhằm cải tiến và nâng cao
chất lượng.
- Sớm phát triển hệ thống đánh giá ngoài bằng cách thành lập các tổ chức đảm bảo chất
lượng độc lập như: Trung tâm đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, các tổ chức đảm bảo chất
lượng của các hiệp hội liên quan để tham gia đánh giá đôc lập trường ĐH. Đây sẽ là các tổ chức
chuyên môn, chịu trách nhiệm tổ chức đánh giá chất lượng.
- Thành lập các tổ chức, hiệp hội về kiểm định chất lượng các trường đại học Việt Nam,
trên cơ sở hoạt động của các hiệp hội sẽ giúp cho các trường có điều kiện thay đổi, nâng cao
trình độ kiểm định, chất lượng đội ngũ đánh giá viên, thông qua việc trao đổi, chia sẻ kinh
nghiệm trong nước và trên thế giới. Mặt khác, hiệp hội sẽ có tiếng nói khách quan và trọng lượng
đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học cũng như vấn đề liên quan đến chất lượng đào
tạo.


KẾT LUẬN

Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học là vấn đề mới triển khai trong vòng 10 năm trở lại
đây ở Việt Nam, nên thực trạng vẫn chưa được các cấp quản lý nhà nước về giáo dục, các trường
ĐH quan tâm đúng mức và chưa đi vào hệ thống. Chất lượng giáo dục luôn là mối quan tâm
hàng đầu của xã hội vì tầm quan trọng của nó đối với sự nghiệp phát triển đất nước. Đất nước
suy, yếu hay mạnh, phụ thuộc phần lớn vào chất lượng sản phẩm của GD. Đối với giáo dục đại
học nước ta đã, đang phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo, và xác định là nhiệm vụ quan trọng
nhất, đang tìm những giải pháp rút ngắn khoảng cách về thứ hạng trên thế giới.
Làm thế nào để nâng cao vị thế cũng như chất lượng giáo dục Việt Nam. Đây là một câu
hỏi lớn cần có cái nhìn toàn diện mới có thể giải đáp được. Những nhà quản lý giáo dục ở các cơ
sở giáo dục đại học, và các cấp quản lý nhà nước về giáo dục cần nhanh chóng có biện pháp cải
thiện chất lượng giáo dục. Những yếu kém chủ yếu là công tác đảm bảo chất lượng giáo dục của
chúng ta chưa được quan tâm đúng mức, chưa đồng bộ và quyết liệt tổ chức thực hiện.
Để việc nghiên cứu lý luận và áp dụng vào thực tiễn hoạt động tự đánh giá trong đảm bảo
chất lượng giáo dục ở các trường đại học được quan tâm đúng mức và thành hệ thống mang tính
khoa học liên tục phát triển ở nước ta, các cấp quản lý hệ thống phải thành lập tổ chức chịu trách
nhiệm đánh giá ngoài; xây dựng cơ chế đánh giá ngoài... đảm bảo chất lượng giáo dục là công
việc quan trọng cần được tập trung triển khai đồng bộ trong thời gian tới; cần phổ biến rộng rãi
cơ chế và hệ thống đảm bảo chất lượng trong các cơ sở giáo dục đại học; cần chuẩn bị đội ngũ
đáp ứng được hoạt động đảm bảo chất lượng của các cơ sở giáo dục đại học và toàn hệ thống.
Tóm lại, nhiệm vụ quan trọng của các cơ sở giáo dục đại học nước ta bây giờ, và trong
tương lai là phải quyết tâm nâng cao chất lượng giáo dục, tiến gần đến chuẩn chất lượng của các
nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, công tác đảm
bảo chất lượng giáo dục ở các cơ sở giáo dục đại học cần phải được hình thành và phát triển, phù
hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, đồng thời là giải pháp thiết thực nâng cao chất
lượng đào tạo của các trường đại học. Việc học hỏi kinh nghiệm từ các trường đại học ở các
nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới là rất cần thiết trong tiến trình hình thành, xây dựng
hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lộc. GS.TS (2009), Quản lý chất lượng giáo dục (sơ thảo), Viện Khoa học

Giáo dục Việt Nam.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, NXB Chính
trị quốc gia.
3. Quốc hội 10 (2004), Nghị quyết số 37/2004/QH10 của Quốc hội chuyên đề về GD&ĐT.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định ban hành Quy định về tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng GD trường đại học, Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020.


6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020, Hà
Nội, 2011.
7. Nhóm chuyên gia nghiên cứu cải tổ trường học của trường giáo dục thuộc đại học
Harvard-HGSE (2006), Cẩm nang cải tổ trường học (A Practical Guide to Transforming Our
Schools, NXB Trẻ).
8. Nguyễn Quang Giao (đại học Ngoại ngữ), Đảm bảo chất lượng GD và kinh nghiệm của
một số trường đại học trên thế giới, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, số 4(33), 2009.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Tài liệu dùng cho cán bộ quản lý trường phổ thông,
giám sát, đánh giá trong trường học, NXB Hà Nội.
10. International Conference (June 28-29, 2012), Responding to the 21st century demands
for Educational Leadership and Management in Higher Education, Ho Chi Minh city.
11. Asian Network for Quality Congress 2013, Program and Abstract Book Swissotel
Le Concord, Bangkok, Thailand, October, 2013.



×