Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Thu Hien Nguyen Thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.26 KB, 19 trang )

Bài Tập
LỜI MỞ ĐẦU
Một xã hội phát triển toàn diện đòi hỏi không chỉ tăng trưởng kinh tế đơn thuần
mà còn cần tới sự phân phối công bằng hơn. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là
những vấn đề lớn mà bất cứ xã hội nào cũng đều phải quan tâm đến. Tăng trưởng nhanh
và thực hiện phân phối công bằng là những mục tiêu mà nhiều quốc gia đều mong muốn
đạt được. Giữa tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập có sự liên quan mật thiết với
nhau. Tuy nhiên, cũng tồn tại nhiều cách nhìn nhận khác nhau đối với mối liên hệ này.
Do đó, cho đến nay chưa có một quốc gia nào xây dựng được một mô hình giải quyết
hoàn hảo mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Việt Nam là một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải
kết hợp chặt chẽ tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Qua hơn 20 năm
đổi mới theo nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập vào khu vực và thế giới, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu rất ấn tượng. Đó là tăng trưởng kinh tế cao so với
một số nước trong khu vực và thế giới, trong khi tỷ lệ đói nghèo ngày càng giảm. Việt
Nam ngày càng được biết đến như một nền kinh tế năng động hàng đầu trong các nước
đang phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế thị trường sẽ tạo ra sự
chênh lệch về trình độ và phát triển từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng và nếu vượt quá một
giới hạn nào đó sẽ là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự mất ổn định. Và
Việt Nam cũng không bị loại trừ khỏi quy luật đó, cùng với quá trình tăng trưởng kinh
tế, nhiều vấn đề của xã hội ngày càng trở nên bức xúc: khoảng cách thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư ngày càng lớn, phân hoá giàu nghèo ngày càng gay gắt… Chính vì vậy,
yêu cầu của sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay vẫn đòi hỏi bức thiết trong việc
thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đặc biệt là công bằng trong phân phối thu nhập.
Do đó việc nghiên cứu lý luận tăng trưởng kinh tế, phân phối thu nhập trong nền kinh tế
thị trường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cần thiết, cấp bách và có ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi
quyết định chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu
nhập: thực trạng và giải pháp ở Việt Nam. ”
Với đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu những lý thuyết về tăng trưởng, bất
bình đẳng và những tác động của tăng trưởng kinh tế đối với phân phối thu nhập, từ đó


liên hệ thực tiễn Việt Nam. Tôi hi vọng khi nắm vững được những cơ sở

lý thuyết này, có thể áp dụng vào nền kinh tế Việt Nam giúp các nhà quản lý đưa
ra các chính sách thích hợp để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế
Việt Nam.
Đề tài gồm có 3 mục tiêu sau:
1. Hệ thống húa lý thuyết về tác động của phân phối thu nhập
đến tăng trưởng kinh tế.
SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 1 /
Bài Tập
2. Phân tích thực trạng kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và thực
hiện công bằng trong phân phối thu nhập ở Việt Nam trong
thời gian qua.
3. Đề xuất các chính sách cần thực hiện nhằm thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng nhanh và bền vững đi đôi với việc thực hiện
công bằng xã hội.
Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu mà đề tài sử dụng là các phương pháp
nghiên cứu chung và đặc thù như phân tích tổng hợp, lụgớc và lịch sử...























SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 2 /
Bài Tập
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BèNH ĐẲNG THU NHẬP
1.1.Những vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà mọi quốc gia trên thế giới đều theo
đuổi là duy trì mức tăng trưởng kinh tế thích hợp. Nhận thức đúng đắn về tăng trưởng
kinh tế và sử dụng có hiệu quả những kinh nghiệm về nghiên cứu, hoạch định chính
sách tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng. Các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng,
tăng trưởngkinh tế trước hết là một vấn đề kinh tế, song nú còn mang tính chính trị, xã
hội sâu sắc.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về sản lượng hay thu nhập thực tế được tính cho
toàn bộ nền kinh tế (của một quốc gia, một vùng hay một ngành) trong một khoảng thời
gian nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt
đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ tăng trưởng). Trongphân tích kinh tế,
để phản ánh mức độ mở rộng quy mô của nền kinh tế, khái niệm tốc độ tăng trưởng
kinh tế thường được dùng. Đó là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng tăng thêm của thời kỳ
nghiên cứu so với mức sản lượng của thời kỳ trước đó hoặc thời kỳ gốc.

1.1.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh
tế. Do đó nhìn chung, tăng trưởng kinh tế được tính bằng phần trăm thay đổi của mức
sản lượng quốc dân.

trong đó:
g
t
là tốc độ tăng trưởng của thời kỳ t.
Y là GDP thực tế của thời kỳ t.
GDP là thước đo được chấp nhận rộng rói về mức sản lượng của một nền kinh
tế.Ngoài ra tăng trưởng kinh tế còn được tính bằng phần trăm thay đổi của GDP thực tế
bình quân đầu người của thời kỳ nghiên cứu so với thời kỳ trước - thông thường tính
cho một năm.
trong đó:
g
pc
t
là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người của thời kỳ t.
y là GDP thực tế bình quân đầu người.
1.1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
1.1.3.1.Nhân tố kinh tế
SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 3 /
Bài Tập
Nhân tố kinh tế là những nhân tố tác động trực tiếp đến các biến đầu vào và đầu ra
của nền kinh tế. Các nhân tố kinh tế bao gồm 4 yếu tố chủ yếu: vốn, lao động, tài
nguyên thiên nhiên, tiến bộ công nghệ.
Vốn: là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng
kinh tế.Ở các nước đang phát triển sự đóng góp của vốn sản xuất vào tăng trưởng kinh
tế thường chiếm tỷ trọng cao nhất.

Lao động: là yếu tố đầu vàokhông thể thiếu của sản xuất.Trước đây chỉ quan
niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào,được xác định bằng số lượng dân số nguồn lao
độngmỗi quốc gia.Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đó nhấn mạnh
đến khía cạnhphi vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực, đó là các lao động có kỹ
năng sản xuất,có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế… Hiện nay
tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp bởi quy mô (số lượng)
lao động, còn yếu tố vốn con người có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng nguồn
nhân lực của các nước này còn thấp.
Tài nguyên thiên nhiờn: là một trong những yếu tố sản xuất cổ điển, được đưa vào
sử dụng để tạo ra sản phẩm cho xã hội càng nhiều càng tốt nhưng phải đảm bảo chúng
được sử dụng có hiệu quả, không lóng phí. Việc sử dụng tài nguyên là vấn đề có
tính chiến lược, lựa chọn công nghệ để có thể sử dụng hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên
quốc gia là vấn đề sốngcòn của phát triển. Tài nguyên thiên nhiên có vai trò quan trọng
để phát triển kinh tế.Nú tạo điều kiện thuận lợi cho các nước được thiên nhiên ưu đãi có
được những lợi thế so sánh.Từ đó phát triển các mặt hàng là thế mạnh của nước mình.
Tiến bộ công nghệ là nhân tố tác động này càng mạnh đến tăng trưởng ở các nền
kinh tế ngày nay. Yếu tố công nghệ cần được hiểu đầy đủ theo hai dạng: thứ nhất, đó là
những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những
nguyên lý, thử nghiệm và cải tiến sản phẩm, quy trình công nghệ

hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai, là sự áp dụng phổ biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm
vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất.Công nghệ sản xuất
cho phépquá trình sản xuất có hiệu quả hơn. Công nghệ phát triển ngày càng nhanh
chóng và ngày nay công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới...
có những bước tiến như vũ bão góp phần gia tăng hiệu quả của sản xuất.
1.1.3.2. Nhân tố phi kinh tế
Khác với các yếu tố kinh tế, các nhân tố phi kinh tế có tính chất và nội dung tác
động khác. Ảnh hưởng của chúng là gián tiếp và không thể lượng hoá cụ thể được mức
độ tác động của nú đến tăng trưởng kinh tế.Các nhân tố phi kinh tế không tác động một
cách riêng rẽ mà mang tính tổng hợp, đan xen, tất cả lồng vào nhau tạo nên tính chất

đồng thuận hay không đồng thuận trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Có
rất nhiều nhân tố phi kinh tế tác động đến tăng trưởng kinh tế như:
Đặc điểm văn hoá xã hội: đây là nhân tố quan trọng có tác động nhiều đến quá
trình phát triển.Nhân tố văn húa- xã hội bao trùm nhiều mặt, từ tri thức phổ thông đến
SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 4 /
Bài Tập
những tích lũy tinh hoa của văn minh nhõn loại về khoa học, công nghệ, văn học, lối
sống, phong tục,tập quán, …Trình độ văn hoá mỗi dân tộc là một nhân tố cơ bản để tạo
ra các yếu tố về chất lượng lao động, của kỹ thuật,của trình độ quản lý kinh tế-xã hội.
Nhân tố thể chế chính trị-xã hội: Các nhân tố thể chế chính trị-xã hội được thừa
nhận tác động đến quá trình phát triển đất nước theo khía cạnh tạo dựng hành lang pháp
lý và môi trường xã hội cho các nhà đầu tư. Một thể chế chính trị- xã hội ổn định và
mềm dẻo sẽ tạo điều kiện để đổi mới liên tục cơ cấu và công nghệ sản xuất phù hợp với
những điều kiện thực tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Ngược lại,
một thể chế không phù hợp sẽ gây ra cản trở, mất ổn định, thậm chí đi đến chỗ phá vỡ
những quan hệ cơ bản làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái hoặc gây ra xung
đột xã hội.
Vai trò của Nhà nước: Việc mở rộng kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự can
thiệp của Nhà nước. Bằng những công cụ chính sách của mình,Chính phủ đưa ra những
định hướng cơ bản về phát triển kinh tế và những hướng ưu tiên cần thiết cho từng thời
kỳ như có những chính sách duy trì công ăn, việc làm; thực hiện phân phối lại thu nhập
thông qua các loại thuế; thực hiện các hoạt động phúc lợi công cộng, bảo trợ xã hội
nhằm phát triển kinh tế một cách bền vững.

Ngoài ra còn có một số nhân tố như cơ cấu dân tộc, tôn giáo, sự tham gia của cộng
đồng…cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế tuỳ thuộc vào chính sách của chính
phủ. Nói chung, một đất nước càng đa dạng về thành phần tôn giáo và sắc tộc thì đất
nước càng tiềm ẩn bất ổn về chính trị và xung đột, bạo lực trong nước,thậm chí là các
cuộc nội chiến, dẫn tới tình trạng lãng phí các nguồn lực quý giá đáng ra phải sử dụng
để thúc đẩy các mục tiêu phát triển khác.

1. 2.Những vấn đề lý luận về bất bình đẳng thu nhập
1. 2.1. Khái niệm về bất bình đẳng thu nhập
Bất bình đẳng xã hội là sự không ngang bằng nhau về các cơ hội hoặc lợi ích đối
với những cá nhân khác nhau trong nhóm hoặc nhiều nhóm xã hội.Từ đó ta có thể hiểu
bất bình đẳng thu nhập là sự không ngang bằng nhau về thu nhập, của cải của những cá
nhân khác nhau trong xã hội.Bất bình đẳng về thu nhập tức là người giàu sẽ giàu hơn
còn người nghèo sẽ lạinghốo thêm. Sự phân phối thu nhập cho người giàu nhiều hơn
người nghèo.Người nghèo sẽ ít được hưởng lợi từ sự phát triển của xã hội và việc tiếp
cận về giáo dục và y tế đối với người nghèo sẽ ngày càng khó khăn.
1.2.2. Nguyên nhân gây ra sự bất bình đẳng thu nhập
1. 2.2.1.Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ tài sản
Trong nền kinh tế thị trường,một bộ phận thu nhập của các cá nhân được phân
phối theo sở hữu các nguồn lực.Tuỳ theo các yếu tố sản xuất mà mỗi người có được
cũng như việc định giá các yếu tố đó trên thị trường cạnh tranh mà chúng có ảnh hưởng
đến mức thu nhập của mỗi cá nhân.Cách phân phối như vậy gọi là phân phối theo sở
SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 5 /
Bài Tập
hữu các nguồn lực hay còn gọi là phân phối thu nhập từ tài sản.Tài sản của mỗi cá nhân
có được là do nhiều nguồn hình thành khác nhau.
Thứ nhất, bất bình đẳng thu nhập do được thừa kế tài sản. Nhiều cá nhân sinh ra đã
là người giàu vì họ được thừa kế một tài sản lớn. Sự bất công về thu nhập do của cải
thừa kế tập trung vào tay một số ít người đã gây nhiều sự phản đối và một cách được
Chính phủ áp dụng để hạn chế sự bất bình đẳng này là đánh thuế cao vào tài sản thừa kế
và quà tặng.
Thứ hai, bất bình đẳng thu nhập do hành vi tiêu dùng và tiết kiệm khác nhau của các
cá nhân ảnh hưởng lớn đến sự khác nhau về của cải tích luỹ được. Có những người tiết
kiệm nhiều để tích lũy một lượng của cải khi về hưu, tức là thu nhập của họ sẽ tăng
trong tương lai so với những người sẵn sàng tiêu dùng hết trong hiện tại.

Thứ ba, bất bình đẳng thu nhập do kết quả kinh doanh. Thực tế cho thấy nhiều người

giàu có vốn lớn, họ giám chấp nhận rủi ro, mạnh dạn đầu tư kinh doanh vào những lĩnh
vực lợi nhuận cao đồng thời rủi ro cũng cao như đầu tư chứng khoán, bất động sản, …
thì họ càng giàu hơn và tạo ra sự bất bình đẳng thu nhập với những người nghèo không
có vốn làm ăn.
1.2.2.2.Bất bình đẳng trong phân phối thu nhập từ lao động
Lao động là điều kiện cơ bản tạo ra thu nhập.Tuy nhiên với kỹ năng lao động, điều
kiện lao động và tính chất nghề nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến thu nhập khác nhau.Một số
nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng thu nhập từ lao động như:
Khỏc nhau về khả năng và kỹ năng lao động dẫn đến khác nhau về thu nhập: Xu
hướng chung là những người có thể lực khỏe mạnh, có trình độ học vấn cao và có kỹ
năng lao động giỏi thì nhận được mức thu nhập cao hơn, những người nghèo là những
người có trình độ học vấn thấp nên ít cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Học vấn
thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến đầu tư, kinh doanh, giáo dục, sinh
đẻ…; điều đó không những ảnh hưởng đến thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai. Do
đó, Nhà nước cần có những chính sách đầu tư vào các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Khác nhau về cường độ làm việc: Ngay cả khi cơ hội làm việc của các cá nhân là như
nhau nhưng cường độ làm việc của họ khác nhau thì cũng sẽ dẫn đến mức thu nhập
không bằng nhau
Khỏc nhau về nghề nghiệp và tính chất công việc: Đây là yếu tố quan trọng quyết
định sự khác biệt về tiền lương. Những công việc phổ thông đòi hỏi ít kỹ năng thường
được trả lương thấp; còn những công việc chuyên môn, có hàm lượng chất xám nhiều sẽ
được hưởng mức lương cao hơn.
Ngoài ra bất bình đẳng thu nhập từ lao động còn có những nguyên nhân khác như sự
phân biệt đối xử trong xã hội,xuất phát điểm của các cá nhân hay sự không hoàn hảo của
thị trường lao động, ảnh hưởng của thiên tai và các rủi ro khác đều có liên quan đến sự
khác biệt về tiền lương của các cá nhân, gây nên tình trạng chênh lệch thu nhập.
1.2.3. Đo lường bất bỡnh đẳng trong phân phối thu nhập
SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 6 /
Bài Tập
Các thước đo bất bình đẳng phụ thuộc vào mức thu nhập/tiêu dùng trung bình trong

một nước và sự phân phối thu nhập/ tiêu dùng trung bình đó. Một số thước đo bất
bình đẳng thu nhập điển hình:

ngưỡng chi phí chuẩn của giáo dục. Vì vậy, đầu tư vào nguồn vốn nhân lực là thấp.
Và nếu tăng trưởng dựa vào đầu tư vào nguồn vốn nhân lực thì sự tăng trưởng cũng sẽ
rất thấp. Phân phối lại làm tăng tổng sản lượng và dẫn đến tăng trưởng bởi vì nú cho
phép người nghèo đầu tư vào nguồn vốn nhân lực. Nếu thị trường vốn có xu hướng cải
thiện như là một nền kinh tế phát triển, thì các hiệu ứng liên quan đến thị trường vốn-
không hoàn hảo trong những nền kinh tế còn nghèo sẽ quan trọng hơn trong những nền
kinh tế giàu có. Vì vậy, dự báo các tác động của bất bình đẳng đến tăng trưởng kinh tế
trong những nền kinh tế còn yếu kém sẽ lớn hơn nhiều so với những nền kinh tế giàu
có.Lưu ý rằng thị trường tín dụng đối số hoàn hảo thực sự phù hợp hơn để giải thích
mối quan hệ giữa cộng đồng cũng như tỷ lệ đói nghèo và tăng trưởng kinh tế. Trong khi
sự bất bình đẳng cao không phải luôn luôn hàm ý rằng một phần lớn dân số là quá
nghèo để được tiếp cận đến tín dụng, tỷ lệ đói nghèo cao đồng nghĩa với việc có nhiều
người hơn bị hạn chế tín dụng. Ví dụ, tình trạng bất bình đẳng trong một nền kinh tế có
thể rất cao, cho dù tất cả mọi người trong nền kinh tế tương đối thỏa mãn đi chăng nữa.
Vì vậy, chúng ta nên mong đợi một mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ đói nghèo và tăng
trưởng kinh tế.
1.3.4. Lý thuyết liên kết của Benabou (1996)
Mô hình này cung cấp một khuôn khổ tích hợp trong đó các tác động của việc tái
phân phối đến sự tăng trưởng không nhất thiết là tuyến tính. Có tác động hai chiều: Tái
phân phối là tốt nếu công khai chi tiêu cho tài chính giáo dục trong một thế giới với thị
trường vốn không hoàn hảo, và sẽ là xấu nếu như nú chỉ chuyển khoản thu nhập từ
người giàu sang người nghèo vì nú làm giảm lợi nhuận ròng để đầu tư của những người
giàu. Do đó, tốc độ tăng trưởng là hình chữ “U ngược’ đối với tái phân phối và phân
phối là hình chữ U đối với bất bình đẳng.
1.3.5. Lý thuyết bất ổn định về chính trị xã hội của Alesina(1996); Benhabib và
Rustichini (1996); Grossman và Kim(1996); Fay (1993)
Mô hình này nhấn mạnh những hệ quả của sự bất bình đẳng đến sự bất ổn định

chính trị và tình trạng bất ổn định xã hội. Theo mô hình bất ổn kinh tế chính trị, bất bình
đẳng là một yếu tố quan trọng quyết định sự bất ổn của chính trị-xã hội. Và điều này đã
tác động tiêu cực đến tăng trưởng thấp hơn dự kiến thông qua đầu tư trở lại. Cụ thể,
mâu thuẫn bất bình đẳng xã hội trầm trọng thêm và lần lượt làm cho quyền sở hữu trở
nên ít an toàn hơn và làm giảm tăng trưởng. Hơn nữa, sự tham gia của người nghèo
trong công tác chống tội phạm và các hành động chống lại xã hội

SVTH : Nguyễn Thị Thu Hiền 7 /

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×