Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

THỊ TRƯỜNG nội tệ LIÊN NGÂN HÀNG mỹ và VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.81 KB, 28 trang )

THỊ TRƯỜNG NỘI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG MỸ VÀ VIỆT NAM
****************************
NỘI DUNG
Phần 1: Khái niệm chung về Thị trường nội tệ liên ngân hàng
1-Khái niệm
2-Các chủ thể tham gia
3-Các giao dịch chủ yếu
4-Lãi suất
5-Phương thức thanh toán
6-Vai trò của thị trường nội tệ liên ngân hàng
Phần 2: Thị trường nội tệ liên ngân hàng Mỹ
1-Văn bản pháp lí và cơ cấu tổ chức
2-Các chủ thể tham gia
3-Hàng hóa và giá cả
4-Các giao dịch và nhân tố ảnh hưởng
5-Thị trường thực tế từ 2008 đến nay
a.
b.
c.
d.
e.

2008
2009
2010
2011
2012
6-Đánh giá thị trường, vai trò NHTW
Phần 3: Thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam
1-Các văn bản pháp lí liên quan
2-Các chủ thể tham gia


3-Lãi suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam
4-Thị trường thực tế từ 2008 đến nay

a.
b.
c.
d.
e.

2008
2009
2010
2011
2012
5-Đánh giá và đề xuất nâng cao hoạt động của thị trường


Kết luận
Lời mở đầu
Tháng 7 năm 1993 Thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam chính thức
đi vào hoạt động và đã đem lại sự điều hòa vốn giữa các tổ chức tín dụng với
nhau, góp phần hoàn thiện hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam. Thị trường tiền tệ
liên ngân hàng được chia thành 2 thị trường chính: Thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng và thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Trong thời gian gần đây, lãi suất trên thị trường có những biến động mạnh
do tác động của các yếu tố trong và ngoài nước, kéo theo đó là sự biến động của
lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, đặc biệt là thị trường nội tệ liên
ngân hàng. Sau một thời gian ảnh hưởng của lạm phát và lãi suất tăng cao thì
trong năm 2012 chủ trương của Ngân hàng Nhà nước là hạ lãi suất và tái cấu trúc
lại hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, chúng ta đã từng chứng kiến việc lãi suất thị

trường nội tệ liên ngân hàng cao gấp đôi, thậm chí nhiều hơn (năm 2010) thì với
việc hạ lãi suất nhanh chóng của Ngân hàng Nhà nước, liệu thị trường nội tệ liên
ngân hàng có ổn định hơn ?
Việt Nam là một nước có thị trường tiền tệ đi sau rất nhiều nước, và còn
kém hơn rất nhiều nước phát triển, tuy nhiên đã có những chính sách “học hỏi”
thế giới để hoàn thiện hệ thống. Mỹ là một trong những nước có thị trường tiền tệ
hoạt động sôi động nhất hiện nay, vậy những chính sách điều hành và vấn đề thị
trường nội tệ liên ngân hàng ở Mỹ có gì nổi bật hơn so với các nước khác ?

Phần 1: Khái niệm chung về thị trường nội tệ liên ngân
hàng
1- Khái niệm

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là nơi các Ngân hàng thương mại hoặc
các tổ chức tín dụng vay mượn nhau khoản dự trữ dư thừa nhằm bù đắp nhu cầu
ngân quỹ tạm thơi cho các nghĩa vụ tài chính thường xuyên.
2- Các chủ thể tham gia
 Ngân hàng thương mại: Là chủ thể chính tham gia thị trường để đáp ứng nhu cầu

thanh khoản của mình và sinh lời.
 Các tổ chức nhận tiền gửi khác.
 Công ty môi giới (Brokers) và công ty kinh doanh trên thị trường
tiền tệ và thị trường liên ngân hàng (Dealers).
 Ngân hàng trung ương: Không tham gia trực tiếp nhưng tác động ảnh hưởng tới

thị trường để thể hiện vai trò điều tiết và ổn định thị trường.
3- Các giao dịch chủ yếu trên thị trường
Kỳ hạn
Qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng. Hầu hết là dưới 1



tháng.
Phương thức giao dịch



Điện thoại, fax hợp đồng….
Sử dụng hệ thống Reuters dealing

Các giao dịch chủ yếu trên thị trừơng nội tệ liên ngân hàng.


Interbank deposits contract. – việc thay đổi tiền cơ bản MB thông

qua hợp đồng tiền gửi/vay liên ngân hàng.


Repo contract.- việc thay đổi tiền cơ bản MB thông qua hợp đồng

mua bán có kì hạn.


Outright trade ot financial security.- việc thay đổi tiền cơ bản MB

thông qua hợp đồng mua bán hẳn các công cụ tài chính.


Money market derivatives.- giao dịch liên ngân hàng thỏa thuận tại

thời điểm hiện tại nhưng lại được thực hiện trong tương lai.

4- Lãi suất

Lãi suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng.
-Cách hình thành lãi suất liên ngân hàng: Lãi suất do hai bên thỏa thuận:
hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu, quan hệ đối tác, xếp hạng…
Ý nghĩa của lãi suất thị trường liên ngân hàng:
 Sự thay đổi lãi suất liên ngân hàng qua đêm gây ra những thay đổi cùng chiều của






5-

mặt bằng lãi suất kinh doanh của các TCTD theo lý thuyết cấu trúc kỳ hạn của lãi
suất.
Những dự tính của thị trường về sự thay đổi mức lãi suất liên ngân hàng do
NHTW chi phối sẽ quyết định chiều hướng biến động của các mức lãi suất thị
trường khác.
Sự thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá và giá chứng khoán từ đó ảnh hưởng
đến mức xuất khẩu ròng cũng như tình trạng tài chính của các chủ thể kinh tế,
hành vi và chi tiêu của họ.

Phương thức thanh toán

Trên thị trường liên ngân hàng, các giao dịch liên ngân hàng đựơc
thanh tóan liên ngân hàng hoặc qua hệ thống Chips ( Clearing House Interbank
Payments System). Đây là hệ thống thanh tóan được vi tính hóa với chủ sở hữu là
các ngân hàng thanh tóan bù trừ lớn.


Thông thường thanh tóan giữa 2 ngân hàng liên quan đựơc thực
hiện thông qua Tung tâm thanh tóan bù trừ ( Clearing House). Đây là một tổ chức
mà tại đó các ngân hàng duy trì một lượng tiền trên tài khỏan của các ngân hàng
khác nhằm thanh toán những giao dịch liên ngân hàng.

Cũng có thể thực hiện thanh tóan liên ngân hàng qua hệ thống
Swipt ( có từ năm 1977) và thay thế cho bưu điện và điện tín. Hệ thống này được


liên kết với nhau bằng vệ tinh và các bức điện được chuyển hóa giữa các ngân
hàng đựơc tiêu chuẩn hóa nhằm tối đa hóa các sai sót do tập quán và ngôn ngữ.
Hầu hết các ngân hàng trên thế giới, kể cả Nga, các nước Đông Âu, Việt Nam…
đều đã tham gia thị trường này.
6- Vai trò
a. Đối với NHTM:

Đảm bảo cho nguồn vốn của toàn hệ thống NH được điều hoà và
phân bổ có hiệu quả.

Thị trường liên NH tạo tính lỏng cho các khoản ngân quỹ nói riêng
và các khoản mục tài sản khác của NHTM

Tác động tích cực đến yêu cầu quản lý vốn khả dụng của hệ thống
NHTM

Giảm chi phí cơ hội của việc duy trì dự trữ thường xuyên cho các
NHTM
b. Đối với NHTW


TTTT liên ngân hàng là nơi cung cấp thông tin về tình trạng vốn
khả dụng của hệ thống các TCTD

Tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền
kinh tế

Phần 2: Thị trường nội tệ liên ngân hàng Mỹ
-Cấu trúc của công nghiệp NH Mỹ khác so với cấu trúc của công nghiệp
ngân hàng các nước khác. Mỹ là nước duy nhất không có một hệ thống ngân hàng
quốc gia đich thực, trong đó các ngân hàng có chi nhánh ở khắp nơi.
1-

Các văn bản pháp lí và cơ cấu tổ chức

Ngày 23 Tháng 12, 1913, Hệ thống Dự trữ Liên bang (Fed_
federalreserve) , phục vụ như ngân hàng trung ương của quốc gia, được tạo ra bởi
quyết định của Quộc hội . Hệ thống bao gồm một Hội đồng thành viên bảy của
Thống đốc với trụ sở chính tại Washington, DC, và 12 ngân hàng dự trữ nằm ở
các thành phố lớn trên khắp Hoa Kỳ.
Đại diện: Chỉ có 1 thành viên của Hội đồng quản trị có thể được lựa chọn
từ bất kỳ một trong mười hai ngân hàng dự trữ liên bang.
Trách nhiệm: Trách nhiệm chính là xây dựng chính sách tiền tệ. Bảy thành
viên Hội đồng tạo thành một nhóm _Liên bang thị trường mở (FOMC_Federal
Open Market Committee) ảnh hưởng quan trọng đến cung tiền và tín dụng trong
nền kinh tế. Năm thành viên khác của FOMC là Chủ tịch Ngân hàng dự trữ, một
trong số đó là Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang của New York. Chủ tịch
Ngân hàng phục vụ một năm trên cơ sở luân phiên. Theo quy chế FOMC quyết
định tổ chức riêng của mình, và truyền thống bầu Chủ tịch Hội đồng Thống đốc là
Chủ tịch và Chủ tịch của Ngân hàng New York là Phó Chủ tịch. Hiện nay Ben S.
Bernanke là chủ tịch (chairman), Janet L. Yellen phó chủ tịch.



Liên bang Ủy ban Thị trường mở (FOMC) là cơ quan hoạch định chính
sách tiền tệ quan trọng nhất của Hệ thống Dự trữ Liên bang. Nó có trách nhiệm
xây dựng một chính sách được thiết kế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, việc làm
đầy đủ, giá cả ổn định, và một mô hình bền vững của thương mại quốc tế và các
khoản thanh toán. FOMC đưa ra những quyết định quan trọng liên quan đến việc
tiến hành các thị trường mở hoạt động mua và bán hàng của chính phủ Mỹ và các
cơ quan liên bang chứng khoán có ảnh hưởng đến việc cung cấp dự trữ để tổ chức
lưu ký, và trong đó, chi phí và sẵn có của tiền và tín dụng trong nền kinh tế Mỹ .
FOMC cũng chỉ đạo các hoạt động hệ thống bằng ngoại tệ.
Ngân hàng dự trữ liên bang
Được thành lập bởi Quốc hội là cánh tay hoạt động của hệ thống ngân
hàng trung ương của quốc gia. Nhiều dịch vụ được cung cấp bởi mạng này cho
các tổ chức lưu ký và chính phủ tương tự như dịch vụ được cung cấp bởi các ngân
hàng và các tổ chức tiết kiệm cho khách hàng doanh nghiệp và cá nhân. Dự trữ
ngân hàng nắm giữ dự trữ tiền mặt của các tổ chức lưu ký và cho vay đối với họ.
Họ di chuyển tiền tệ và đồng tiền vào và ra khỏi lưu thông, thu thập và xử lý hàng
triệu kiểm tra mỗi ngày. Họ cung cấp kiểm tra tài khoản Kho bạc cho các vấn đề,
và mua lại chứng khoán chính phủ, và hành động theo những cách khác như là đại
lý tài chính cho chính phủ Mỹ. Họ giám sát và kiểm tra các ngân hàng thành viên
về an toàn và lành mạnh. Ngân hàng dự trữ cũng tham gia vào các hoạt động đó là
trách nhiệm chính của Hệ thống Dự trữ Liên bang, các thiết lập của chính sách
tiền tệ.
Với mục đích thực hiện các hoạt động này hàng ngày của Hệ thống Dự trữ
Liên bang, quốc gia đã được chia thành mười hai ngân hàng Dự trữ Liên bang,
với các ngân hàng ở Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond,
Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, và San Francisco.
25 chi nhánh của các ngân hàng phục vụ các khu vực cụ thể.
Hội đồng quản trị

Để thực hiện các hoạt động hàng ngày của hệ thống dự trữ liên bang-quốc
gia của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ được chia 12 ngân hàng (cục) Dự trữ Liên
bang (Federal Reserve Districts),với một Ngân hàng Dự trữ. Dự trữ ngân hàng
cung cấp nhiều dịch vụ cho các tổ chức lưu ký và công cộng, chẳng hạn như xử lý
thanh toán điện tử, tiền tệ, và kiểm tra. Họ thực hiện nhiều trách nhiệm của hệ
thống giám sát ngân hàng. Họ cũng giúp đỡ trong khung chính sách tiền tệ, một
phần bằng cách báo cáo về phát triển kinh tế trong khu vực của họ.
Theo yêu cầu của Đạo luật Dự trữ Liên bang năm 1913, mỗi Ngân
hàng dự trữ được giám sát bởi một hội đồng quản trị 9 giám đốc người đã quen
thuộc với các điều kiện kinh tế và tín dụng trong khu vực. Tương tự như vậy, mỗi
25 Chi nhánh Ngân hàng dự trữ có một hội đồng quản trị của 5 hoặc 7 giám đốc
người đã quen thuộc với điều kiện trong khu vực bao phủ bởi Chi nhánh.


2-

Chủ thể tham gia

a. Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)

Fed đưa ra thiết chế, điều luật cho thị trường tiền tệ nhằm đảm bảo một thị
trường tiền tệ năng động , có hiệu quả ,trôi chảy và có tổ chức.
Thực thi các chính sách tiền tệ quốc gia bằng cách tác động các điều kiện
tiền tệ và tín dụng.
Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng đảm bảo hệ thống tài chính
và ngân hàng quốc gia an toàn, vững vàng và đảm bảo quyền tín dụng của người
tiêu dùng.
Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị,
các tổ chức nước ngoài và chính phủ Hoa Kỳ, đóng vai trò chru chốt trong hệ
thống vận hành chi trả quốc gia.

Fed không phát hành tiền mà thay vào đó là bộ tài chính.
Cơ cấu tổ chức: Hội đồng thống đốc  Uỷ ban thị trường  Các ngân
hàng của FED  Các ngân hàng thành viên.
Mỗi ngân hàng FED khu vực và ngân hàng thành viên của cục dự trữ liên
bang tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc (7 thành viên được chỉ định bởi
tổng thống Hoa Kỳ và phê chuẩn bởi quốc hội)
b. Các tổ chức tín dụng

Ngân hàng thương mại là 1 trung gian họat động chính trên thị
trường tiền tệ. Mục đích họat động là để duy trì khả năng thanh toán của các ngân
hàng thương mại khi cần thiết ,để sinh lời tối đa đối với những khoản vốn tạm
thời nhàn rỗi
Các tổ chức phi tài chính như :chính phủ, chính quyền các bang,
các công ty thương mại…mục đích tham gia của các chủ thể này là khác nhau.
Chẳng hạn, với các doanh nghiệp tham gia thị trường thì họ lấy mục tiêu lợi
nhuận là hàng đầu. Ngoài ra còn có thể là để đảm bảo khả năng thanh toán. Họ
tham gia với tư cách là người vay vốn hay là nhà đầu tư. Đối với chính phủ, họ
tham gia với tư cách là vay vốn nhằm bù đắp phần thâm hụt ngân sách hàng năm.
Cá nhân, hộ gia đình tham gia với tư cách là người cho vay, là thành viên tích cực
của thị trường.
c. Nhà môi giới

Để nhà kinh doanh và nhà đầu tư gặp nhau không phải lúc nào cũng xảy
ra. Trươc nhu cầu đó mà nhà môi giới xuất hiện với tư cách là người mối lái để
hai bên thỏa mãn nhu cầu của mình.
3-

Hàng hoá và giá cả của Thị trường tiền tệ liên ngân hàng ở Mỹ:



Thị trường tiền tệ liên ngân hàng là nơi chuyển giao nguồn vốn ngắn hạn
giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với Fed.
Đối tượng vay mượn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng là khoản dự trữ
tạm thời dư thừa thể hiện trên số dư tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại
NHTW có thể cả nội tệ và ngoại tệ.
a.

Hàng hoá trao đổi trên thị trường:

Thực chất là quyền sử dụng các khoản ngân quỹ dư thừa tạm thời (vốn khả
dụng của các TCTD)
b.

Giá cả trên thị trường tiền tệ liên NH

Lãi suất liên NH là lãi suất thoả thuận, nó thay đổi theo thời gian và phù
hợp với chính sách lãi suất của NHTW.
Tỷ lệ lãi suất của Mỹ thấp nhất vào năm 2003, sau đó hạ và tăng dần lên
đến mức đỉnh điểm 5,25% vào nửa cuối năm 2006 cho đến ngày 18/9/2007.

Tỷ lệ lãi suất liên bang tại Mỹ
từ năm 2003 đến năm 2008
(Nguồn: FED).
Sau đó khi thị trường tín dụng đầy khó khăn và thị trường nhà đất suy yếu,
ngày 18/9/2007 FED mở đầu đợt cắt giảm lãi suất, từ đó cho đến 2010 FED đã cắt
giảm lãi suất 5 lần, tổng mức cắt giảm là 2,25%. Nhiều khả năng FED sẽ còn tiếp
tục cắt giảm lãi suất để ngăn nguy cơ suy thoái. Một số chuyên gia lo ngại rằng
nếu FED tiếp tục cắt giảm lãi suất, sẽ có nguy cơ xảy ra bong bóng tài sản trong
tương lai.
4- Các giao dịch và nhân tố ảnh hưởng


* Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến lãi suất.


Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các
ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được xây dựng để đảm
bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn
định hơn.
Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế giới,
mỗi quyết định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu.
Giả sử FED tăng lãi suất. Theo nhận định của các chuyên gia, sẽ có những phản
ứng dây chuyền sau khi FED tăng lãi suất. Có thể thấy tác động trước mắt, là
ngân hàng Trung ương ở nhiều nước sẽ phải nâng mức lãi suất theo - tất nhiên sẽ
ở những mức độ khác nhau. Sau khi Mỹ tăng lãi suất, các ngân hàng ở các nước
sẽ phải tăng lãi suất tiết kiệm ngoại tệ, hệ quả là các khách hàng sẽ chuyển sang
gửi bằng USD.
Mỗi khi có tin FED cắt giảm hay nâng lãi suất, đó là lãi suất qua đêm
(FED Fund Rate). Đây là lãi suất các ngân hàng tính cho nhau khi vay qua đêm để
bảo đảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Quyết định nâng, giảm lãi suất chính ra là do Ủy
ban Thị trường Mở Liên bang (FEDeral Open Market Committee) đưa ra. Lãi suất
này sẽ tác động lên lãi suất chiết khấu, tức là lãi suất FED tính khi cho các ngân
hàng khác vay tiền để cho khách hàng vay lại (thường cao hơn lãi suất FED Fund
một điểm phần trăm).
Lãi suất qua đêm là một trong những công cụ để FED điều hành hệ thống
tiền tệ. FED không quyết định lãi suất mà chỉ đưa ra mức lãi suất muốn hướng
đến; sau đó dùng thị trường mở để tác động sao cho lãi suất qua đêm ứng với lãi
suất muốn có.
Để bắt đầu cho quá trình sử dụng các công cụ để điều tiết nền kinh tế, các
NHTW sẽ tiến hành các biên pháp tác động làm thay đổi dự trữ ngân hàng. Việc

này được tiến hành thông qua các hoạt động mua bán trái phiếu trên thị trường
mở, qua các chính sách tái chiết khấu, hoặc thông qua công cụ dự trữ bắt
buộc( chủ yếu là thông qua nghiệp vụ thị trường mở).

Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang
(Fed) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm
tiền trong lưu thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng.
Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt
khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng
khó khăn hơn. Như vậy, các nghiệp vụ mua bán hàng ngày trên thị trường tiền tệ
của FED làm thay đổi dự trữ của hệ thống ngân hàng và sự thay đổi này có tác
động chi phối lãi suất liên bang..

Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay
phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự
trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn
và lãi suất tăng lên.)

Thay đổi lãi suất của khoản vay từ Fed: Các ngân hàng thành
viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed


ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu ( được công bố hai tuần
một lần). Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành
viên sẽ được vay
Cục dự trữ liên bang còn thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách
định hướng "lãi suất quỹ vốn tại Fed". Đây là tỷ lệ các ngân hàng ấn định với
nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỷ lệ này
do thị trường quyết định chứ Fed không ép buộc. Tuy vậy, Fed sẽ cố gắng tác
động tỷ lệ này ở con số phù hợp với tỷ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn

chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường.
Cả hai loại lãi suất trên đều vận hành cùng chiều với nhau chi phối lãi suất
ưu đãi (là tỷ lệ mà các ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách
hàng tin cậy nhất). Khi cần thiết, tùy theo mục tiêu của chính sách tiền tệ, FED
tuyên bố thay đổi lãi suất chiết khấu, làm thay đổi phí vay từ FED. Thay đổi trong
lãi suất chiết khấu kéo theo sự thay đổi cùng chiều trong lãi suất quỹ vốn liên
bang, Và vì lãi suất vốn liên bang là lãi suất chủ đạo nên nó sẽ tác động đến lãi
suất thị trường tiền tệ..=> Tăng lãi suất chiết khấu luôn đồng nghĩa với việc tăng
lãi suất toàn nền kinh tế và thắt chặt cung ứng tiền. ngược lại, sự giảm lãi suất
chiết khấu là thông điệp chắc chắn về việc hạ toàn bộ lãi suất và tăng cung tiền.
Các ngân hàng thường lựa chọn cách vay quỹ đặt cọc tại Fed từ một ngân hàng
khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỷ lệ chiết khấu của Fed. Lý do của cách lựa
chọn này là việc vay tiền từ Fed mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú
ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang
đi vay.
5- Thị trường thực tế từ 2008 đến nay

Federal funds rate(1): (Tỷ lệ ký quỹ liên bang) là lãi suất qua đêm. Đây
là lãi suất các ngân hàng tính cho nhau khi vay qua đêm để bảo đảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc. Quyết định nâng, giảm lãi suất chính ra là do Ủy ban Thị trường Mở
Liên bang (FEDeral Open Market Committee) đưa ra. Lãi suất này sẽ tác động lên
lãi suất chiết khấu, tức là lãi suất FED tính khi cho các ngân hàng khác vay tiền
để cho khách hàng vay lại (thường cao hơn lãi suất FED Fund một điểm phần
trăm). Fed funds target rate: Lãi suất điều hòa dự trữ trong mỗi thời kỳ.
Vậy khi FED công bố lãi suất (hướng đến lãi suất) thường là Fed funds
rate chứ không phải là lãi suất cơ bản (prime rate). Điểm này khác với Việt Nam
khi mà lãi suất công bố ở Việt Nam thường là lãi suất cơ bản đồng Việt Nam.
Thường thì Fed funds rate thấp hơn prime rate từ 2,5 đến 3%.
Lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng Mỹ trong bài được hiểu là Fed
funds rate đưa ra cho USD.


a.Năm 2008
Nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Nền kinh tế lớn nhất thế giới đang ở
trong một giai đoạn u ám, với thị trường tín dụng gần như đóng băng, khiến người
tiêu dùng và các doanh nghiệp không thể vay tiền, kéo các hoạt động kinh tế co
lại. Trong khi đó, lạm phát và thất nghiệp cùng tăng cao. Trong một vài tháng đầu
năm, Mỹ đã nhiểu lần cắt giảm lãi suất nhằm cứu nguy nền kinh tế.


Diễn biến:
FED đã duy trì lãi suất cho vay qua đêm giữa các ngân hàng ở mức
1%/năm từ tháng 6/2003 và giữ ở mức 0-0,25% từ tháng 12/2008.
Ngày 16/3/2008, Quỹ Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ FED quyết định hạ lãi
suất 0,25%, tức từ mức 3,5% xuống mức 3,25%, để giúp các ngân hàng tăng khả
năng đối phó trong tình hình tài chính suy trầm do tình trạng nợ đọng trong lĩnh
vực tín dụng địa ốc gây ra và cùng lúc Ngân hàng Đầu tư Bear Stearns, một trong
những trụ cột đầu tư lớn của thị trường chứng khoán Mỹ, vừa được cho phép bán
để tránh phá sản với sự bảo kê của Quỹ Dự trự Liên bang trị giá 30 tỷ USD. Tập
đoàn J.P. Morgan Chase, một ngân hàng lớn khác của Mỹ, đã đứng đầu nỗ lực
mua lại Bear Stearns đang lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, với giá 260
triệu USD trong khi trị giá hồi đầu năm 2007 của Bear Stearns lên tới hơn 20 tỉ
USD.
Ngày 18/3/2008 tiếp tục giảm lãi suất tiền gửi USD ngắn hạn xuống còn
2,25% - mức thấp nhất kể từ tháng 2/2005. Đây là lần thứ 6 FED hạ mức lãi suất
kể từ tháng 9 năm 2007. Động thái cắt giảm lãi suất lần này của FED là hành
động mới nhất của tổ chức này trong series những nỗ lực nhằm chống đỡ sự sụt
giảm tăng trưởng của kinh tế Mỹ và phục hồi niềm tin vào hệ thống tài chính của
nước này.
Vào tháng 5, giảm tiếp 25 điểm phần trăm, từ mức 2,25% xuống mức
2%/năm và giữ nguyên cho tới những tháng sau đó.

Đến 22/9/2008 tiếp tục ban hành chính sách cho vay dựa trên thương
phiếu được bảo đảm bằng tài sản. Ngày 1/10/2008 ban hành chính sách trả lãi cho
dự trữ bắt buộc. Và đến 27/10/2008 đã thành lập Quỹ thương phiếu.
Tháng 10/2008, , Cục Dự trữ Liên bang hạ thấp tỷ lệ quỹ liên bang, tỷ lệ
cho vay qua đêm chuẩn mà các ngân hàng cho vay với nhau, 50 điểm cơ bản tới
1% .Trong một cuộc bỏ phiếu nhất trí, FOMC quyết định giữ Fed funds rate
không thay đổi trong một phạm vi từ 0% đến 0,25%.
Ngày 18/12/2008, FED đã đưa về mức lãi suất Fed funds rate thấp nhất
chưa từng có là 0-0.25% . FED cũng hạ lãi suất chiết khấu áp dụng với các khoản
vay trực tiếp từ FED cho các ngân hàng và các công ty chứng khoán từ mức
1,25% xuống còn 0,5%. Mức dự trữ bắt buộc của các ngân hàng thương mại cũng
giảm từ mức 1% xuống còn 0,25%.


Biểu đồ lãi suất FED funds rate ở Mỹ từ 2007 - Nguồn: Reuters.
Để tránh tình trạng đổ vỡ dây chuyền, cuối năm 2008 Chính phủ Mỹ đã
trình Quốc hội thông qua gói hỗ trợ khẩn cấp trị giá 787 tỷ USD và Chương trình
tăng chi tiêu Chính phủ, giảm thuế cho người dân, doanh nghiệp.

b.Năm 2009
FED thừa nhận kinh tế Mỹ vẫn đang trong tình trạng đình đốn, đồng thời
khẳng định sẽ giữ nguyên lãi suất ở mức thấp kỷ lục 0-0,25% theo quyết định hồi
tháng 12/08 trong một thời gian nữa, đúng như dự đoán của thị trường. Bên cạnh
đó, FED cũng lãi suất chiết khấu không đổi ở mức 0,5%.
Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC) đã thông báo rằng giao dịch thị
trường mở (Open Market Trading Desk ) sẽ bắt đầu một chương trình mua TP
Kho bạc lên đến $ 300 tỷ USD để giúp cải thiện điều kiện trong thị trường tín
dụng tư nhân.



Biểu đồ lãi suất từ 1982 đến 2010
Xu hướng lãi suất đi xuống đều và cận mức 0. Lãi suất ở mức thấp này sẽ
duy trì trong một thời gian nữa trước khi xu thế tăng lãi suất trở lại.
Trong tháng 1-2/ 2009 có 9 Ngân hàng Mỹ phá sản. Đến tháng 2 Quốc hội
đã thông qua và thực hiện gói hỗ trợ khẩn cấp trị giá 787 tỷ USD.
Thâm hụt ngân sách trong 9 tháng đầu năm là 953 tỷ USD, tăng gấp 3.5
lần 2008.
Ngày 7/05/2009, Mỹ công bố kết quả sát hạch của 19 ngân hàng lớn nhất ,
trong đó có 9 ngân hàng hoạt động vững chắc, 10 ngân hàng cần thêm 75 tỷ USD.

c.Năm 2010
Tháng 2/2010.FED nâng lãi suất tái chiết khấu áp dụng đối với các khoản
vay trực tiếp dành cho các ngân hàng thêm 0,25 điểm phần trăm lên mức 0,75%
và tuyên bố động thái này sẽ khuyến khích các tổ chức tài chính tìm đến thị
trường tiền tệ nhiều hơn là Ngân hàng Trung ương để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản ngắn hạn của mình. việc tăng lãi suất khấu chiết không ảnh hưởng trực
tiếp đến các hoạt động kinh tế, theo nghĩa, đây là lãi suất mà Ngân Hàng Trung
Ương cho các ngân hàng thương mại vay tiền, để cấp tín dụng cho tư nhân.
FED đã cung cấp hàng trăm tỷ USD để hỗ trợ tín dụng cho các ngân
hàng, các bên kinh doanh trái phiếu, bên vay thương phiếu và các tổ chức tài
chính.Trong suốt cả năm 2009, lãi suất chiết khấu ở mức 0,5% còn lãi suất Fed
funds rate ở mức 0-0,25%. mục đích đầu tiên của FED khi tăng lãi suất chiết khấu
là để hai lãi suất này có một mức chênh lệch nhất định như thông lệ xưa nay và để
hoạt động cho vay của FED về trạng thái bình thường.


Một khi chưa phải lo về lạm phát, FED ắt sẽ duy trì lãi suất thấp gần 0%
trong cả năm nay để duy trì mức tăng trưởng kinh tế Mỹ, dự báo sẽ tăng chừng
2,8-3,5% trong năm 2010.


d.Năm 2011
Năm 2011, Mỹ tiếp tục chứng kiến những thách thức lớn phải đương đầu.
Tăng trưởng yếu, thất nghiệp cao, thâm hụt ngân sách và nợ công khổng lồ chỉ là
vài trong số những khó khăn mà nền kinh tế lớn nhất thế giới này đang chật vật
giải quyết.
Nhiều hệ thống ngân hàng tiếp tục trở thành nạn nhân của thời hậu khủng
hoảng. Theo phân tích của Financial Times, năm 2011 là năm đầu tiên trong nhiều
thập kỷ qua kể từ năm 1984, Mỹ không có một ngân hàng mới hoàn toàn nào
được ra đời. Bởi theo các chuyên gia, thời điểm này dễ dàng có thể mua lại một
ngân hàng vỡ nợ.
Năm 2011 có 198 nhà băng sáp nhập, 92 ngân hàng phá sản. Năm 2011,
lần đầu tiên trong vòng 70 năm, xếp hạng tín dụng của Mỹ bị cơ quan xếp hạng
tín dụng quốc tế Standard & Poor (S&P) hạ từ mức AAA xuống AA+, kèm theo
triển vọng đánh giá tiêu cực. Đây được cho là cú sốc lớn giáng vào hệ thống ngân
hàng, tài chính cũng như nền kinh tế Mỹ. Tổ chức Standard & Poor’s (S&P) đã
hạ bậc tín dụng đối với một loạt ngân hàng lớn, trong đó có không ít đại gia Mỹ
như Citigroup, Goldman Sachs, JPMorgan Chase…
Vào tháng 11, FED công bố kế hoạch trị giá 600 tỷ USD để mua vào trái
phiếu kho bạc kỳ hạn dài để hỗ trợ cho nền kinh tế. Kế hoạch của FED đã vấp
phải sự chỉ trích từ nhiều phía như tạo rủi ro lạm phát lớn, có nguy cơ phá giá
gián tiếp đồng USD…
Trong các nền kinh tế lớn của thế giới, Nước Mỹ cùng Nhật Bản có mức
lãi suất thấp nhất thế giới, 0,25% ở Mỹ và 0,01% ở Nhật Bản. Đây là mức lãi suất
nước Mỹ đã ban hành suốt thời gian sau khủng khoảng năm 2008 đến nay.
Triển vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ xấu đi, trong nửa đầu năm 2011 chỉ
tăng trưởng khoảng 0,4-1,3%, lạm phát tăng mạnh, thâm hụt ngân sách và tỷ lệ
thất nghiệp vẫn còn cao (9,1% trong tháng 7 và tháng 8/2011).
Có thể FED tiếp tục duy trì chính sách lãi suất ở gần mức 0% trong hai
năm nữa (2011-2013) và để ngỏ khả năng can thiệp vào thị trường tài chính - tiền
tệ.

Bất chấp căng thẳng chính trị và thị trường về lạm phát tại Mỹ, bài học
của năm 2010 cho thấy triển vọng lạm phát/tăng trưởng có thể thay đổi chóng mặt
theo hướng cần thêm chính sách hỗ trợ.

e.Năm 2012
Nền kinh tế Mỹ tiếp tục tăng trưởng ở mức độ trung bình trong khoảng từ
giữa tháng 1. Hiện FED vẫn duy trì mức lãi suất thấp kỷ lục 0-0,25% kể từ tháng
12/2008 nhằm hỗ trợ đà phục hồi kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008-


2009. Mức lãi suất này được coi là tiêu chuẩn cho các hoạt động cho vay liên
ngân hàng tại Mỹ.
Nếu tốc độ phục hồi của nền kinh tế Mỹ gia tăng, FED có thể tăng lãi suất
Fed funds rate USD thêm 1% từ mức 0 - 0,25% hiện nay. OECD dự báo, lãi suất
cơ bản đồng bạc xanh có thể đạt mức 2,25% vào cuối năm 2012. Tỷ lệ lạm phát
vẫn chưa về được mực 8.5%.
Một số ý kiến của giới phân tích bày tỏ sự lo ngại rằng kỳ vọng lạm phát
và lạm phát thực tế sẽ tăng một khi FED tiếp tục kéo dài chính sách tiền tệ lỏng
lẻo. Tuy nhiên, Chủ tịch FED Ben Bernake đã liên tục khẳng định rằng FED luôn
ở thế sẵn sàng hành động một khi lạm phát trở thành nguy cơ trong nền kinh tế
Mỹ.

Biểu đồ mức lãi suất thực tế so với lãi suất mục tiêu 2012
Target rate: Tỷ lệ lãi suất mục tiêu
Daily effective rate: Tỷ lệ hiệu quả hàng ngày
6- Đánh giá thị trường và vai trò của FED

Ngày 20/9/2011, IMF đã điều chỉnh tăng trưởng GDP năm 2012 của Mỹ
từ 2,7% xuống còn 1,8%. Đầu tháng 11/2011, FED dự báo tăng trưởng GDP năm
2012 của Mỹ tương đối lạc quan hơn IMF như có thể đạt mức từ 2,5% tới 2,9%.

Tuy nhiên ngày 13/12/2011 FED đã phải thừa nhận rằng do kinh tế toàn cầu còn
nhiều nhân tố không xác định, nên tăng trưởng kinh tế Mỹ năm 2012 không thể
lạc quan và đang bị thách thức nghiêm trọng.
Quan chức FED cho rằng nếu tình hình kinh tế thế giới tiếp tục xấu đi thì
khả năng sử dụng biện pháp mới có thể là sự lựa chọn của Mỹ. Dư luận cho rằng
“vũ khí mới” như FED nói chỉ có thể là hai biện pháp: Một là, giảm lãi suất Quỹ
dự phòng. Hai là sử dụng gói giải pháp kích cầu QE3. Trưởng ban kinh tế Ngân
hàng Chartered cho rằng FED có thể áp dụng gói kích cầu QE3 vào nửa đầu năm
2012. Có thể trong năm 2012 kinh tế Mỹ vẫn “dậm chân tại chỗ”.


Phần 3:Thị trường nội tệ liên ngân hàng Việt Nam
Ở Việt Nam, từ 7.1993 thị trường liên ngân hàng đã chính thức đi vào
hoạt động và ngày càng thể hiện rõ khả năng điều hoà vốn cho các tổ chức tín
dụng là ngân hàng. Cùng với xu hướng phát triển chung trong hoạt động ngân
hàng, thị trường có hình thức và nội dung hoạt động phản ánh sự hội nhập và phát
triển
1- Các văn bản pháp lí:

Cơ sở pháp lý của thị trường liên ngân hàng Việt Nam là các văn bản pháp
luật do Ngân hàng Nhà nước ban hành, có thể thay đổi cho phù hợp về mục đích
và yêu cầu trong từng thời kỳ.
Qui chế tổ chức và hoạt động của Thị trường liên ngân hàng (Ban
hành kèm theo Quyết định 114/QĐ-NH14 ngày 21.6.1993 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước).
Nội qui hoạt động của Thị trường liên ngân hàng (Ban hành kèm
theo Quyết định 114/QĐ-NH14 ngày 21.6.1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước).
-


Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16 tháng 5 năm 2008

Cụ thể:
a.

Tổ chức và điều hành thị trường:

Ngân hàng Nhà nước là người tổ chức và điều hành thị trường liên
ngân hàng, điều này được lý giải bởi chính mục đích tồn tại
của thị trường.
Chủ tịch thị trường do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ định,
là người có nhiệm vụ liên quan mật thiết đến việc hoạch định, thực hiện chính
sách tín dụng. Chủ tịch thị trường chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các qui chế
và nội qui hoạt động của thị trường, chịu trách nhiệm về các hoạt động của thị
trường.
b.

Đối tượng giao dịch tại thị trường.
Thị trường liên ngân hàng thực hiện hai loại cho vay:

Thứ nhất, cho vay bù đắp khả năng thanh toán bù trừ đối với ngân
hàng Nhà nước. Hoạt động thanh toán bù trừ được thực hiện bởi Ngân hàng Nhà
nước. Trường hợp các ngân hàng trung gian không đảm bảo khả năng thanh toán
cho bạn hàng, có thể được Ngân hàng Nhà nước cho vay bù đắp. Đây cũng là liệu
pháp hạn chế trong hoạt động ngân hàng bởi lẽ hoạt động cho vay thanh toán bù
trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng làm thay đổi cơ cấu tiền trong
lưu thông. Đối với các khoản cho vay thanh toán chủ yếu do Ngân hàng Nhà nước
thực hiện đối với các thành viên còn lại nên pháp luật các nước còn có thể gọi đây
là các khoản "cho vay dọc".
Thứ hai, cho vay để mở rộng tín dụng ngắn hạn. Khi thực hiện hoạt

động kinh doanh ngân hàng, tổ chức tín dụng có thể không cân đối được khả năng


và nhu cầu vốn của khách hàng, tổ chức tín dụng có cơ hội vay vốn tại thị trường.
Việc vay vốn này được thực hiện trong khoảng thời gian ngắn nhất, với chi phí
thấp nhất.. Các khoản cho vay ngắn hạn chủ yếu do các ngân hàng thành viên
thực hiện, ngân hàng Nhà nước hạn chế tối đa hoạt động cho mở rộng tín dụng.
Hoạt động cho vay này nếu so sánh với cho vay thanh toán thì có thể được hiểu là
quan hệ cho vay "theo chiều ngang". Nếu muốn "bơm" tiền vào lưu thông Ngân
hàng Nhà nước có thể thực hiện thông qua biện pháp tái cấp vốn hoặc thực hiện
nghiệp vụ thị trường mở với các tổ chức dụng.
2- Chủ thể tham gia thị trường liên ngân hàng.
Chủ thể tham gia thị trường là các ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước và các
ngân hàng trung gian.
Ngân hàng Nhà nước ngoài nhiệm vụ tổ chức và điều hành thị trường với
tư cách là chủ thể quản lý, còn là thành viên, là bên cho vay trên thị trường đối
với các khoản cho vay thanh toán.
Ngân hàng trung gian, khi có đủ điều kiện, có thể trở thành thành viên thị
trường. Các điều kiện đó là:
- Có quyền tham gia thanh toàn bù trừ. Điều kiện này gắn liền với
mục đích cho vay của thị trường đồng thời đảm bảo cho việc thanh toán các
khoản vay ngắn hạn đối với các thành viên khác.
- Có tài khoản tiền gửi, tiền vay tại Sở giao dịch hoặc chi nhánh
Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh. Điều kiện này thực tế cũng gây
khó khăn cho các ngân hàng trung gian, đặc biệt là các ngân hàng nông thôn bởi
tính phân tán về địa điểm của các ngân hàng này.
- Có phương tiện thông tin (máy điện thoại, telex, máy tính nối
mạng hoặc các phương tiện truyền thông khác) dành riêng để liên lạc với thị
trường (Trung tâm).
- Có đại diện đăng ký giao dịch (liên lạc) với Trung tâm. Những

điều kiện kiên quan đến thông tin liên lạc và người đăng ký liên lạc xuất phát từ
phương pháp giao dịch của thị trường.
Ngoài những điều kiện cơ bản này, các ngân hàng còn phải tuân
thủ trình tự và thủ tục xin gia nhập thị trường.
-

Thanh toán trên thị trường nội tệ liên ngân hàng:

Trên thị trường liên ngân hàng, các giao dịch liên ngân hàng đựơc thanh
tóan liên ngân hàng hoặc qua hệ thống Chips ( Clearing House Interbank
Payments System). Đây là hệ thống thanh tóan được vi tính hóa với chủ sở hữu là
các ngân hàng thanh tóan bù trừ lớn.
3-

Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng:

Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ngày càng có quan hệ chặt chẽ với
lãi suất huy động, cho vay trên thị trường.


Lãi suất liên ngân hàng thường cao do vay nóng với một khoản tiền lớn
trong thời hạn giao dịch ngắn ( qua đêm từ 2- 3 % )
Lãi suất thị trường liên ngân hàng phụ thuộc:
+ Lãi suất thị trường mở nằm trong khoảng chênh lệch giữa 2 loại lãi suất:
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Lãi suất thị trường mở đóng vai trò điều
tiết lãi suất thị trường liên ngân hàng, từ đó tác động trở lại đối với lãi suất kinh
doanh của TCTD.
+ Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu được điều chỉnh dần để hình
thành khung lãi suất định hướng lãi suất thị trường. NHNN đã thực hiện phân bổ
hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng. Qua đó, nghiệp vụ chiết khấu được điều

hành như một kênh hỗ trợ vốn thường xuyên với giá rẻ từ NHNN. Khi lãi suất tái
cấp vốn và lãi suất chiết khấu cao NHTM sẽ vay trên thị trường liên ngân hàng và
làm cho lãi suất liên ngân hàng tăng.
4-

Thực trạng thị trường nội tệ liên ngân hàng từ năm 2008 tới

nay:
*Tổng quát chung về thị trường nội tệ liên ngân hàng.
Đơn vị: nghìn tỷ đồng

Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn NHNN.


Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có sự tăng lên đáng kể
qua các năm. Doanh số giao dịch các kì hạn ngắn nhỏ hơn 1 tháng chiếm tỉ trọng
lớn trong doanh số giao dịch.

Thị trường liên ngân hàng đã cung cấp nguồn vốn thanh khoản cho
các ngân hàng thương mại, góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng.
Việc các ngân hàng vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng sẽ giúp ngân hàng
bù đắp thiếu hụt tạm thời một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Nghiệp vụ trường mở.
Năm

Khối lượng dự
kiến

200 2.006.100
7


Khối lượng
đăng kí hợp lệ

Mua

Bán

718.578

60.495

356.844

2008

1.359.823

4.030.675

947.206

88.860

2009

1.113.000

3.613.330


966.811

100

2010

2.905.300

4.039.045

2.101.420

7295

Khối lượng giao dịch trên thị trường mở của NHNN. Nguồn NHNN.
Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) là công cụ mạnh nhất của NHNN. Nó
đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín
dụng. Tỉ trọng doanh số giao dịch mua có kì hạn qua nghiệp vụ thị trường mở
trong tổng doanh số hỗ trợ vốn của NHNN qua các kênh như cầm cố, chiết khấu
GTCG ngày càng tăng.
Với hiệu quả rõ rệt của NVTTM trong việc đáp ứng nguồn vốn khả dụng
của các TCTD, số lượng thành viên tham gia NVTTM cũng ngày càng tăng. Năm
2007 tổng số thành viên tham gia là 44 TCTD. Tới năm 2011 số thành viên là 60
TCTD.
NVTTM đã phát huy vai trò tích cực trong thực thi CSTT, góp phần làm
ổn định lãi suất liên ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh khoản cho các TCTD, an
toàn và bền vững cho hệ thống ngân hàng.
Dựa vào doanh số giao dịch trên thị trường mở của NHNN trong năm
2008 doanh số mua và bán khá lớn, là do đầu năm với chính sách thắt chặt tiền tệ
nhưng tới cuối năm để hạ nhiệt lãi suất liên ngân hàng NHNN đã tăng cường việc

mua vào các GTCG. Trong năm 2009, 2010 mục tiêu là kiềm chế lạm phát do đó
doanh số bán đã giảm mạnh.

a.Năm 2008:


Năm 2008 là năm có trải qua rất nhiều biến động trên thị trường. Do chịu
khủng hoảng kinh tế từ Mỹ, Việt Nam cũng bị ảnh hưởng rất lớn.
-

Chính sách điều hành:

+ Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm
2008 chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm.
+ Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi
suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ
lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm.
Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Diễn biến
Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền với
sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy động
VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong
tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân
hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm. Trước tình hình đó, NHNN đã
đẩy mạnh các giải pháp chính sách theo hướng nới lỏng tiền tệ. Từ tháng 9/2008
đến những tháng đầu năm 2009, lãi suất các kỳ hạn trên thị trường liên ngân hàng
đã giảm mạnh và dần đi vào ổn định.

Dựa vào biểu đồ có thể nhận thấy, từ tháng 2 tới tháng 6 lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất chiết khấu tăng lên, làm cho việc vay vốn từ NHTW của các

NHTM sẽ khó khăn hơn do đó làm cho lãi suất liên ngân hàng cũng tăng lên.
Nhưng trong những tháng cuối năm lãi suất suất này đã được giảm cụ thể tới


tháng 12 lãi suất tái cấp vốn còn 9,5% giảm 5,5% so với mức lãi suất cao nhất vào
tháng 6 là 15%. Việc giảm này có tác động khá lớn vào thị trường nội tệ liên
ngân hàng trong giai đoạn cuối năm 2008. Thị trường liên ngân hàng đã khá ổn
định.

b.Năm 2009:
Ngược lại năm 2008, các chính sách tiền tệ năm 2009 được cho là ổn định
với 2 lần điều chỉnh lãi suất cơ bản. Cụ thể đầu tháng 2/2009, lãi suất cơ bản bằng
đồng Việt Nam giảm từ 8,5%/năm xuống 7%/năm; lãi suất cho vay tối đa của các
tổ chức tín dụng bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng giảm từ 12,75%/năm
xuống 10,5%/năm.
Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tháng 2/2009 (đơn vị: %/năm):
Kỳ

1 tuần

2 tuần

1 tháng

3 tháng

6 tháng

12 tháng


VND 6.20

7.08

7.35

6.78

8.04

-

-

USD 0.54

1.04

0.80

0.92

2.24

-

-

hạn


Qua đêm

Mức lãi suất nói trên duy trì đến hết tháng 11/2009 và kể từ 1/12/2009, lãi
suất cơ bản được điều chỉnh tăng lên 8%/năm, kéo theo mức lãi suất cho vay tối
đa của các tổ chức tín dụng với khách hàng tăng từ 10,5% lên 12%/năm.
Cùng với lãi suất cơ bản, biên độ tỷ giá cũng được điều chỉnh 2 lần, gồm
nới rộng từ +/-3% lên +/-5% từ 24/3/2009 và thu hẹp lại từ +/-5% xuống +/-3% từ
ngày 26/11/2009. Riêng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu được điều
chỉnh 3 lần, tỷ lệ dự trữ bắt buộc điều chỉnh 1 lần.


Biểu đồ lãi suất năm 2008 và 2009 (nguồn: NHNN Việt Nam)

Tại thời điểm cuối tháng 12/2009, lãi suất bình quân qua đêm là 10,8%, kỳ
hạn 1 tuần là 11,6%, các kỳ hạn khác dao động quanh mức từ 11,3 đến
11,6%/năm.

c.Năm 2010:
Cuối tháng 3/2010, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam công bố lãi
suất cơ bản vẫn giữ ở mức 8% trong tháng 4/2010 như từ tháng 12/2009 do từ
26/2/2010, NHNN đã chính thức hoá lãi suất cho vay ở mức 16 - 20%/năm thông
qua Thông tư số 07/2010/TT-NHNN về áp dụng lãi suất thoả thuận cho các khoản
tín dụng trung và dài hạn.
Số liệu 3 tháng đầu năm 2010 cho thấy vốn huy động đến cuối tháng
3/2010 chỉ tăng 1,45% so với cuối tháng 12/2009 (2 tháng đầu năm 2010 vốn huy
động thậm chí đã giảm 0,17% trong khi vốn tín dụng lại tăng 1,4% so với cùng kỳ
năm 2009) cho thấy việc huy động vốn tiếp tục khó khăn nếu tiếp tục duy trì trần
lãi suất làm méo mó thị trường tín dụng ngân hàng. Trong tổng vốn huy động, huy
động vốn VND tăng 1,82% so với cuối tháng 12/2009.
Năm 2010, xuất hiện đợt tăng mạnh vào tháng 9 của lãi suất liên ngân

hàng, lãi suất cho vay cao nhất lên tới 18%/năm. Tổng doanh số giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng tuần từ 3 - 9/9 đạt xấp xỉ 147.750 tỷ VND, bình quân đạt
khoảng 16.417 tỷ VND. Các giao dịch VND chủ yếu phát sinh đối với các kỳ hạn
ngắn (qua đêm và 1 tuần và 2 tuần). Doanh số giao dịch qua đêm VND đạt 55.728
tỷ, chiếm tỷ trọng 38% so với tổng doanh số giao dịch cả tuần.
Lãi suất bình quân thị trường liên ngân hàng tuần từ 3/9 - 9/9/2010(đơn vị: %)
Qua đêm 1 tuần
2 tuần
1 tháng 3 tháng 6 tháng 12 tháng
VN
7,16
7,70
8,18
9,09
9,94
13,30
11,26
D
USD

0,32

0,51

0,61

0,70

0,87


1,51

1,99

KKH
2,60
-


Sau khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng với các biện pháp
điều hành tiền tệ linh hoạt của NHNN cuối năm 2010, lãi suất huy động và cho
vay VND của các NHTM đã giảm dần với lãi suất huy động VND không vượt
quá 14%/ năm; lãi suất cho vay bình quân 15,27%/năm. Bên cạnh đó, chênh lệch
giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động bình quân VND chỉ còn khoảng
2,5%/năm, thấp hơn so với mấy năm trước (con số này là 4,62%/năm năm 2008;
4,45%/năm trong năm 2007; 4,63%/năm trong năm 2006 và 3,42%/năm trong
năm 2005)

d.Năm 2011:
Chính sách điều hành:
Bám sát Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, chặt chẽ và thận trọng
nhằm hiện mục tiêu kiểm soát tốc độ tăng tín dụng dưới 20%, tổng phương tiện
thanh toán tăng khoảng 15-16%, lãi suất và tỷ giá ở mức hợp lý, phù hợp với các
điều kiện vĩ mô; đồng thời tập trung ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản
xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh
nghiệp nhỏ và vừa; giảm tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất đặc
biệt là trên thị trường nội tệ liên ngân hàng.



Năm 2011, NHNN đã 2 lần tăng lãi suất chiết khấu (từ 7% năm 2010 lên
13%), 4 lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% lên 15%), 5 lần tăng lãi suất OMO( lãi
suất trên thị trường mở) (từ 8% lên 15%). Lãi suất cơ bản đã được giữ nguyên 9%
kể từ năm 2010.

Việc tăng lãi suất chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn làm cho lãi suất
liên ngân hàng tăng từ đó làm cho lãi suất trên thị tường tăng.
Và lãi suất bắt đầu leo thang kể từ đầu tháng 5/2011, có thời điểm huy
động VND lên đến 20%/năm, lãi suất cho vay nông nghiệp nông thôn lên 16,520%/năm, cho vay phi sản xuất từ 25-28%/năm. Quy định trần lãi suất 14%/năm
khiến các NHTM gặp khó về thanh khoản và phải đi vay trên thị trường liên ngân
hàng với lãi suất cao. Cá biệt, có những giao dịch lãi suất lên tới mức 3040%/năm kỳ hạn 1 tháng. Do đó cần có sự can thiệp của NHNN.
Khi NHNN chủ trương hạ lãi suất vào những tháng cuối năm 2011, lãi
suất liên ngân hàng đã hạ nhiệt nhờ NHNN bơm một lượng vốn đáng kể trên thị
trường OMO. NHNN đã bơm ròng một lượng tiền trên 30.000 tỉ đồng kể từ đầu
tháng 10 nhằm hỗ trợ thanh khoản cho một số ngân hàng.

Sau khi có sự can thiệp của NHNN lãi suất qua đêm trên thị trường liên
ngân hàng đã giảm đáng kể. Đầu tháng 10, mức lãi suất là 20,5%. Sau khi có
lượng tiền bơm ra của NHNN giảm xuống 14% và cuối năm 2011 lãi suất liên
ngân hàng tương đối ổn định.
Trong tuần trước Tết dương lịch, doanh số giao dịch của các NHTM trên
thị trường liên NH đạt doanh số 127.122 tỉ VND, bình quân đạt khoảng 31.780 tỉ


VND. Cũng như nhiều tuần trước đó, các giao dịch kỳ hạn qua đêm vẫn chiếm
doanh số lớn, cụ thể doanh số VND qua đêm đạt 40.610 tỉ đồng.
Những tháng đầu năm 2012:
Hiện nay lãi suất cơ bản là: 9%, lãi suất tái chiết khấu là 12% và lãi suất
tái cấp vốn là 14%. Nhìn chung các lãi suất này không tăng nhiều so với năm
2011 và lãi suất bình quân liên ngân hàng vẫn khá ổn định và không tăng mạnh so

với năm 2011.
Tính tới thời điểm hiện nay 4/4/2012 thì lãi suất bình quân liên ngân hàng
qua đêm là 10,76%, kì hạn 12 tháng là 13%.
5-

Đánh giá thị trường liên ngân hàng Việt Nam hiện nay:

5.1

Thành tựu:

- Có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo được một hành lang pháp
lý cần thiết cho sự hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam.
- Thị trường tiền tệ Việt Nam được hình thành tương đối đồng bộ với một
hệ thống các công cụ tài chính khá phong phú, số lượng thành viên tham gia thị
trường tăng lên qua các năm, các nghiệp vụ cơ bản của thị trường tiền tệ cũng đã
được áp dụng.
- Quy mô giao dịch của thị trường tiền tệ ngày càng tăng, quy tắc ứng xử
của các thành viên trên thị trường đang tiến gần tới các thông lệ quốc tế. -NHNN với tư cách vừa là người tham gia vừa là người tổ chức hoạt động đã thể
hiện kinh nghiệm điều hành khá linh hoạt và đưa ra các phản ứng chính sách kịp
thời để điều tiết hoạt động của thị trường liên ngân hàng.
5.2 Nhược điểm.
- Hoạt động của thị trường tiền tệ vẫn chưa mang tính chuyên nghiệp, trên
thị trường thường diễn ra tình trạng một chiều, cùng thừa hoặc cùng thiếu vốn khả
dụng, do đó nhiều khi dẫn đến tình trạng đóng băng thị trường do có cầu thì thiếu
cung, hoặc có cung thì không có cầu.
- Hệ thống văn bản pháp luật tạo cơ sở cho hoạt động của thị trường tiền
tệ chưa đồng bộ, nhiều quy định còn bất cập, không nhất quán.
- Công tác thu thập xử lý thông tin, số liệu về thị trường tiền tệ của các
NHTM còn yếu khiến cho việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN còn

nhiều bất cập.
- thông tin thị trường tiền tệ do NHNN công bố trên website của NHNN
còn nghèo nàn và chưa kịp thời, nhất là về thị trường liên ngân hàng.
- NHNN chưa xây dựng được một lãi suất chuẩn đóng vai trò là lãi suất
mục tiêu để định hướng thị trường
Về công tác điều hành chính sách tiền tệ:
yếu

Công tác dự báo của NHNN về vốn khả dụng của các TCTD còn


NHNN hiện tại điều tiết khối lượng là chủ yếu để kiểm soát tốc độ
tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán do đó thường gây biến động
lớn cho lãi suất liên ngân hàng mỗi khi có thiếu hụt vốn khả dụng của các TCTD,
gây mất ổn định của lãi suất liên ngân hàng
Trong nhiều trường hợp, việc sẵn sàng đáp ứng thanh khoản cho
các TCTD lại vô tình không khuyến khích những TCTD tìm đến thị trường liên
ngân hàng;
Việc áp dụng trần lãi suất cho vay nhằm mục tiêu giữ ổn định lãi
suất thị trường khiến cho lãi suất liên ngân hàng không phản ánh đúng nhu cầu
vốn trên thị trường;
Trong thực tế, nhiều thời điểm lãi suất liên ngân hàng cao hơn lãi
suất tái cấp vốn do NHNN công bố khiến cho những lãi suất này mất đi vai trò
của mình là duy trì lãi suất thị trường ổn định trong phạm vi một hành lang lãi
suất.
5.3 Các giải pháp duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ Việt Nam
-

Phát triển thị trường tiền tệ.


-

Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt.

-

Đẩy mạnh công tác thanh tra giám sát.

-

Phối hợp đồng bộ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.

a.

Phát triển thị trường tiền tệ:

- Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý: NHNN cần rà soát các văn bản phát luật
hiện hành liên quan đến thị trường tiền tệ để sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới,
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đầy đủ hàng hóa và các chủ thể tham gia
thị trường;
- Xây dựng một thị trường liên ngân hàng tập trung: Một thị trường ngân
hàng tập trung sẽ giúp NHNN thu thập đấy đủ và xử lý thông tin chính xác về
hoạt động của thị trường rất quan trọng này. Một sàn giao dịch điện tử tập trung
do NHNN xây dựng và cung cấp sẽ mang lại nhiều lợi ích cho tất cả các thành
viên tham gia mà trong đó có NHNN với tư cách là người chịu trách nhiệm truyền
tải chính sách tiền tệ đến nền kinh tế;
- Tăng cường nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở cần được
tiếp tục hoàn thiện để đóng vai trò là công cụ điều tiết chủ yếu của Ngân hàng
Nhà nước, được sử dụng một cách thường xuyên và linh hoạt nhất. Theo đó,
NHNN cần rà soát lại khung khổ pháp lý để bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với

điều kiện phát triển của thị trường; cần coi nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động
thường xuyên nhất của NHNN, một kênh bổ trợ và liên kết chặt chẽ với thị trường
liên ngân hàng;
- Phát triển thị trường repo: cần xây dựng một hợp đồng chuẩn áp dụng
thống nhất cho các giao dịch mua lại giấy tờ có giá với tất cả các thành viên thị
trường; cần rà soát và xây dựng một khung khố pháp lý cho hoạt động của thị


×