Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nâng cao chất lượng cho vay đối với các doanh nghiệp tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.02 KB, 87 trang )

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị
trường có quản lý của nhà nước, nước ta đã chứng kiến sự bùng nổ hàng
loạt các doanh nghiệp ở hầu hết các ngành với các loại hình đa dạng phong
phú. Doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu vay vốn để mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh và đầu tư tài sản cố định. Trong đó, nguồn vốn vay ngân
hàng là nơi doanh nghiệp hướng đến đầu tiên. Điều đó đã kéo theo sự phát
triển không ngừng cả về chất và lượng trong lĩnh vực cho vay của các ngân
hàng, góp phần điều chuyển vốn từ các nơi dư thừa vốn sang các doanh
nghiệp đang thiếu vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy
nhiên hoạt động cho vay của ngân hàng vừa là hoạt động đem lại nhiều lợi
nhuận nhất cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động đem lại rất nhiều rủi ro.
Nhất là trong thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, việc cạnh tranh trên thị
trường rất gay gắt, các doanh nghiệp không những phải cạnh tranh với các
đối thủ trong nước mà còn bị “đe dọa” bởi các tập đoàn quốc tế có vốn lớn
xâm nhập thị trường. Tình hình đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực
không ngừng nếu không có thể dẫn đến phá sản và không trả nợ được ngân
hàng. Trong khi đó, hoạt động của ngân hàng là thu hút nguồn tiền gửi của
dân cư và các tổ chức khác để cho vay, nếu xảy ra rủi ro sẽ mang lại các
hậu quả vô cùng to lớn và có thể dẫn đến việc sụp đổ cả hệ thống tài chính.
Điều đó khiến các ngân hàng luôn luôn phải đặt chất lượng cho vay lên
hàng đầu. Chính vì vậy, trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại
thương Hà Nội, được tiếp xúc với quy trình vay vốn của các doanh nghiệp
và nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng cho vay
doanh nghiệp nên em đã chọn đề tài “Nâng cao chất lượng cho vay đối
với các doanh nghiệp tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội” làm đề tài
chuyên đề tốt nghiệp của mình.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Đề tài nghiên cứu về chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp nhưng


em tập trung vào phân tích các chỉ tiêu về mục tiêu an toàn của ngân hàng
bởi đây là nội dung rất đáng được quan tâm tại Ngân hàng Ngoại thương
Hà Nội. Sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh em đã tìm hiểu được một
số nét cơ bản để thực hiện chuyên đề tốt nghiệp của mình. Cơ cấu chuyên
đề tốt nghiệp của em được chia làm ba phần:
Chương I. Tổng quan về chất lượng cho vay đối với các doanh
nghiệp tại các ngân hàng thương mại.
Chương II. Thực trạng chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp tại
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chương III. Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cho
vay đối với các doanh nghiệp tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chuyên đề tốt nghiệp của em được thực hiện dựa trên phương pháp
nghiên cứu duy vật biện chứng kết hợp với những thực tế em quan sát và
tiếp cận được tại cơ sở thực tập. Những nghiên cứu trong chuyên đề tốt
nghiệp mang tính chất khách quan và định hướng nhằm tìm cách đưa ra
những giải pháp đóng góp cho sự hoàn thiện trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội. Sau đây là những vấn đề em đã nghiên
cứu được!
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI (NHTM)

1.1. Vài nét cơ bản về doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện một, một số
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp như tính chịu
trách nhiệm, tư cách pháp lý của doanh nghiệp, hình thức sở hữu của doanh
nghiệp, quy mô...
Phân theo hình thức sở hữu của doanh nghiệp thì các doanh nghiệp ở
Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh và doanh nghiệp tư
nhân.
Phân theo quy mô thì các doanh nghiệp được phân thành doanh
nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ
được hiểu là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có
số lao động hàng năm không quá 300 người.
1.1.2. Nhu cầu vay vốn Ngân hàng của các Doanh nghiệp
Khó khăn nổi bật nhất hiện nay của các doanh nghiệp này là vấn đề
về vốn. Các doanh nghiệp hầu hết đều muốn bổ sung vốn để đầu tư vào tài
sản lưu động và tài sản cố định.
 Nhu cầu vay vốn ngắn hạn:
Do nhu cầu vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định là rất lớn nên
thông thường doanh nghiệp khó có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để đầu
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
tư vào tài sản lưu động. Khi có sự thiếu hụt về nguồn vốn ngắn hạn, các
doanh nghiệp thường sử dụng đòn bẩy tài chính – đi vay ngân hàng để bù
đắp nguồn vốn ngắn hạn bị thiếu hụt. Sự thiếu hụt vốn ngắn hạn của doanh
nghiệp có thể xảy ra do dòng tiền vào và dòng tiền ra của doanh nghiệp có
sự chênh lệnh về thời gian và doanh số hoặc do nhu cầu gia tăng đầu tư tài
sản lưu động đột biến theo thời vụ. Do vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn có
thể chia thành: nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên và nhu cầu tài trợ
ngắn hạn thời vụ.
Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thường xuyên xuất phát từ sự chênh lệch

hoặc không ăn khớp nhau về thời gian và quy mô giữa tiền vào và tiền ra
của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa và thu được tiền thì
đó là dòng tiền vào. Ngược lại khi doanh nghiệp mua nguyên vật liệu hoặc
hàng hóa dự trữ cho sản xuất kinh doanh thì đó là dòng tiền ra. Nếu tiền chi
ra lớn hơn dòng tiền vào, doanh nghiệp cần bổ sung thiếu hụt. Khoản thiếu
hụt này trước hết bổ sung từ vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả khác
mà doanh nghiệp có thể huy động được. Phần còn lại doanh nghiệp sẽ đi
vay ngân hàng.
Nhu cầu tài trợ ngắn hạn thời vụ xuất phát từ đặc điểm thời vụ của
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khiến cho nhu cầu vốn
ngắn hạn tăng đột biến. Chẳng hạn, công ty sản xuất chế biến xuất khẩu
tôm có thể có nhu cầu vốn ngắn hạn tăng đột biến vào mùa thu hoạch tôm.
Khi ấy doanh nghiệp cần tài trợ vốn ngắn hạn ngân hàng để bổ sung nhu
cầu vốn mang tính thời vụ.
• Nhu cầu vay vốn trung và dài hạn:
Doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn nhằm để tài trợ
cho việc đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư một phần vào tài sản lưu động
thường xuyên. Về nguyên tắc, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn chủ
sở hữu hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu để tài trợ cho những loại tài sản
này. Nhưng nguồn vốn chủ sở hữu có giới hạn còn phát hành cổ phiếu và
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
trái phiếu cũng gặp nhiều khó khăn nên thông thường doanh nghiệp thường
vay vốn dài hạn ngân hàng.
Thực tế cho thấy rằng đối với các doanh nghiệp hiện nay thì phương
thức bổ sung vốn bằng cách vay từ các ngân hàng thương mại là hợp lý
nhất. Vì vậy mà các ngân hàng thương mại ngày càng có vai trò quan trọng
trong việc giúp các doanh nghiệp phát triển, mở rộng hoạt động.
1.2. Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tại NHTM
1.2.1. Định nghĩa cho vay.

Cho vay là một trong bốn hình thức cấp tín dụng tại NHTM, cùng
với bảo lãnh, cho thuê và chiết khấu. Trong đó, tín dụng ngân hàng là quan
hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong
một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, trong đó tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời hạn
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
1.2.2. Phân loại cho vay
Dựa vào mục đích cho vay:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại, dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao
động, nhiên liệu, v.v.....
- Cho vay các định chế tài chính (financial institution loans) bao gồm
cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
- Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để
trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín
dụng.
Dựa vào thời hạn cho vay:
• Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn dưới một năm.
Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào

tài sản lưu động. Cho vay ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn và Ngân
hàng có thể áp dụng cho vay trực tiếp, cho vay theo món hoặc hạn mức, có
hoặc không cần đảm bảo, dưới hình thức chiết khấu, thấu chi hoặc luân
chuyển.
• Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản
cố định, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ..
• Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục
đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ đầu tư vào các dự án đầu
tư có quy mô lớn với thời gian sử dụng lâu dài. Những khoản cho vay trung
và dài hạn có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng:
• Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của
bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
• Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo
đảm cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một bên thứ ba
nào khác.
Dựa vào phương thức cho vay:
• Cho vay thấu chi:
Là hình thức cho vay qua đó NHTM cho phép người vay được chi
trội trên số dư tiền gửi thanh toàn của mình đến một hạn mức nhất định và
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu
chi. Cho vay thấu chi được thực hiện khi đặc điểm hoạt động thu và chi của
khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Do đó hình thức cho
vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng chủ động và kịp thời trong
quá trình thanh toán. Cho vay thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh
hoạt, thủ tục cho vay đơn giản, phần lớn không cần tài sản đảm bảo. Cho

vay thấu chi có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong
tháng và vài tháng trong năm với mục đích để khách hàng (doanh nghiệp)
trả lương, mua hàng và chi các khoản phải trả, phải nộp khác. Hình thức
này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng tin cậy và có thu nhập
đều đặn.
• Cho vay trực tiếp từng lần:
Là hình thức cho vay đối với khách hàng không có nhu cầu vay vốn
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Chỉ khi
có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay Ngân hàng, vốn
vay của Ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ
sản xuất kinh doanh. Nghiệp vụ cho vay trực tiếp từng lần tương đối đơn
giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Hình thứuc cho
vay này thường phải có tài sản đảm bảo và giá trị món vay được xác định
dựa vào giá trị tài sản đảm bảo.
• Cho vay theo hạn mức:
Là nghiệp vụ cho vay theo đó Ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là số dư nợ tối đa mà ngân hàng
cấp cho khách hàng tại mọi thời điểm.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay
mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Đối với hình thức này, Ngân hàng không ấn định trước
ngày trả nợ. Chỉ khi khách hàng có thu nhập, Ngân hàng sẽ thu nợ, do đó
tạo chủ động trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Tuy nhiên do các lần
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu
quả sử dụng vốn của từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề
khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
• Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của

hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể
cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. đầu năm
hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và
khách hàng thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các
nguồn cung cấp hàng háo và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể
được thoả thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn
hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách
hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tuỳ mối quan hệ giữa ngân
hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng
lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự
đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới.
Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi
khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được
trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá
đơn nhập hàng và số tiền vay cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho
người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp
pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay,
thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ
cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo đối tượng và chất lượng quan hệ nợ
nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành
vật đảm bảo cho khoản cho vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì
tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ tục vay
chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu
cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.

Dựa vào phương thức hoàn trả nợ vay:
• Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ
một lần khi đáo hạn
• Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả góp
• Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà
tuỳ khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào
Dựa vào đối tượng vay:
• Cho vay doanh nghiệp: Khách hàng vay là những doanh
nghiệp có nhu cầu về vốn để tích luỹ tư bản phục vụ cho hoạt động mở
rộng sản xuất kinh doanh của mình. Cho vay doanh nghiệp có tác dụng
đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp diễn ra liên tục và không ngừng
phát triển.
• Cho vay cá nhân: là hình thức vay vốn trong đó cá nhân là
người trực tiêp vay vốn với mục đích phục vụ cho các hoạt động của bản
thân. Cá nhân có thể vay vốn để sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng của họ.
1.2.3. Đặc điểm và nguyên tắc cho vay của NHTM
1.2.3.1. Đặc điểm của hoạt động cho vay tại các NHTM
Thứ nhất, cho vay là hoạt động kinh doanh chính của các NHTM.
Đồng thời đây cũng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân
hàng.
Khả năng cho vay đối với khách hàng chính là lý do cơ bản để các
ngân hàng được cơ quan quản lý cấp giấy phép hoạt động. Mọi người đều
mong muốn các ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của nền kinh tế thông
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
qua việc cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của các doanh nghiệp và
các cá nhân với một mức lãi suất hợp lý. Rõ ràng, cho vay là chức năng
kinh tế hàng đầu của các ngân hàng. Các NHTM chủ yếu sử dụng nguồn
tiền mà mình huy động được để thực hiện hoạt động cho vay, đồng thời lợi

nhuận chính của các ngân hàng cũng bắt nguồn từ các khoản cho vay này.
Do đó, các khoản cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có
của ngân hàng. Hiệu quả của hoạt động cho vay sẽ quyết định sự tồn tại và
phát triển của chính bản thân NHTM.
Thứ hai, cho vay là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho ngân
hàng
Bên cạnh tính sinh lời, hoạt động cho vay đem lại rủi ro rất lớn cho
ngân hàng. Rủi ro cho vay là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả
đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng
không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản
cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro do vấn đề thông tin không cân xứng xảy
ra trước và sau khi khoản vay được thực hiện. Thứ nhất, loại rủi ro về lựa
chọn đối nghịch. Ngân hàng có thể cho khách hàng không có khả năng trả
nợ vay nhưng món vay lớn và từ chối các khách hàng tiềm năng do họ chưa
chứng minh đủ các thông tin cần thiết liên quan đến phương án sử dụng
vay hay khả năng trả nợ ngân hàng. Thứ hai là rủi ro đạo đức xảy ra khi
khách hàng đã vay được vốn sau đó dùng khoản tiền vay để thực hiện sai
mục đích, gây thất thoát vốn của ngân hàng đồng thời khiến khách hàng
không trả được nợ. Ngoài ra, do các thay đổi bất thường trên thị trường
vượt quá khả năng phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá,
khủng hoảng nợ dây chuyền, những thay đổi trong quyết định của Chính
phủ cũng có thể tạo ra rủi ro trong kinh doanh của người người đi vay lẫn
ngân hàng khiến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ gặp rủi ro lớn.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Các nguyên nhân trên khiến ngân hàng đòi hỏi các khách hàng phải
có tài sản đảm bảo đối với các khoản vay hoặc các doanh nghiệp có uy tín
và mối quan hệ thân thiết với ngân hàng.
1.2.3.2. Các nguyên tắc cho vay

Việc vay vốn ngân hàng là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và là
cơ hội để ngân hàng cấp tín dụng và thu lợi nhuận từ hoạt động của mình.
Tuy nhiên, hoạt động cho vay liên quan đến việc sử dụng vốn huy động của
khách hàng nên phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Nói chung,
doanh nghiệp vay vốn ngân hàng phải đảm bảo các nguyên tắc sau:
• Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời
gian xác định:
Các khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các
khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn từ cá
nhân và các tổ chức tài chính khác. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả
cả gốc và lãi các khoản vay mượn này như đã cam kết. Do đó, ngân hàng
luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải hoản trả vốn gốc và lãi đúng với
cam kết trong hợp đồng. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát
triển, cơ sở để ngân hàng lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh của mình
trong tương lai đồng thời có hướng điều chỉnh kịp thời các hoạt động
không còn phù hợp và hiệu quả.
• Khách hàng cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã
thoả thuận trong hợp đồng:
Mục đích sử dụng vốn không trái với quy định của pháp luật và các
quy định của NHNN cũng như NHTM. Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay
vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong phạm vi ngành nghề được
phép theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề (nếu
có) của khách hàng và phục vụ hợp pháp nhu cầu đời sống của khách hàng.
• Ngân hàng cho vay phải dựa trên phương án (hoặc dự án) vay
có hiệu quả để đảm bảo khả năng thu hồi vốn (gốc) và lãi.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Thông thường, ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải có tài sản đảm
bảo hoặc phải chứng minh được dự án của khách hàng là khả thi và có khả
năng tạo ra lợi nhuận để trả nợ ngân hàng. Do các khoản cho vay có hai

đặtính là tính sinh lời và rủi ro luôn đi kèm với nhau nên ngân hàng thường
yêu cầu doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo cho Ngân hàng.
1.2.4. Nguồn vốn để cho vay
Ngân hàng huy động nguồn tiền từ doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính, các cơ quan đoàn thể và từ dân cư để cho vay và tài trợ cho nền kinh
tế thông qua các hình thức tài trợ khác như đầu tư, góp vốn kinh doanh.
Nếu phân chia theo hình thức huy động, nguồn vốn của ngân hàng được
chia thành tiền gửi, tiền vay và nguồn khác.
 Tiền gửi:
Chiếm khoảng 60% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng
năm của các ngân hàng. Do đặc tính vô danh của tiền nên ngân hàng có thể
toàn quyền sử dụng số tiền gửi của khách hàng trong thời gian khách hàng
chưa đến rút tiền để đem cho vay. Tuy nhiên, các khoản tiền gửi này phải
thanh toán với khách hàng ngay khi có yêu cầu. Đặc biệt đối với tiền gửi
ngắn hạn, thường nhạy cảm với các biến động của lãi suất, tỷ giá, chu kỳ
chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Do đó các ngân hàng thường không biết
chính xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi. Nếu ngân hàng sử
dụng một lượng lớn tiền gửi ngắn hạn để đem cho vay dài hạn sẽ rất nguy
hiểm. Nó sẽ tác động trực tiếp đến nhu cầu thanh khoản của ngân hàng.
Trong danh mục nguồn vốn của Ngân hàng thương mại, tiền gửi là
đối tượng phải trhực hiện quy chế dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí thực tế
thường cao hơn phần lãi phải trả cho người gửi tiền.
 Tiền vay:
Các khoản vay thường là với thời hạn và quy mô xác định trước, do
đó tại thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Tuy nhiên do phải dự phòng rủi
ro lớn hơn (cộng với mức thu nhập và các chi phí hoạt động hợp lý của
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
ngân hàng) nên lãi suất trả cho tiền đi vay thường lớn hơn lãi suất trả cho
tiền gửi với cùng kỳ hạn.

Các khoản vay Ngân hàng Trung ương và vay trên hệ thống liên
ngân hàng có lãi suất thấp nhưng thường là các khoản vay nóng để bảo đảm
khả năng thanh toán tức thời cho ngân hàng. Muốn mở rộng quy mô vay
trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cần vươn tới thị trường liên
ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái
đủ sức phòng tránh được những rủi ro về lãi suất và tỷ giá.
 Nguồn khác:
Các ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn thông qua việc phát
hành các giấy tờ trung vài dài hạn, đây là hình thức huy động vốn đóng vai
trò quan trọng trong việc tạo và gia tăng các nguồn vốn trung và dài hạn
cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các doanh
nghiệp và người tiêu dùng để mua sắm thiết bị và bất động sản.
1.2.5. Hoạt động cho vay doanh nghiệp tại các NHTM
Cho vay doanh nghiệp là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng
sẽ cấp tín dụng cho các khách hàng là các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn
để tích lũy tư bản phục vụ cho hoạt động mở rộng sản xuất kinh doanh của
mình. Cho vay doanh nghiệp có tác dụng đảm bảo cho hoạt động của doanh
nghiệp diễn ra liên tục và không ngừng phát triển.
1.2.5.1. Điều kiện vay
Mặc dù khi cho vay, ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải
đảm bảo các nguyên tắc chung nhưng trên thực tế không phải doanh nghiệp
nào cũng có thể tuân thủ đúng các nguyên tắc này. Do vậy, để giúp cho
việc đảm bảo các nguyên tắc vay vốn, ngân hàng chỉ xem xét cho vay khi
doanh nghiệp thỏa mãn một số điều kiện vay nhất định. Các điều kiện vay
vốn của doanh nghiệp bao gồm:
• Có tư cách pháp nhân.
• Có mục đích vay vốn hợp pháp.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
• Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.

• Có phương án sản xuất kinh doanh, phục vụ khả thi và có hiệu quả.
• Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
1.2.5.2. Hồ sơ vay vốn
Khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp gửi cho ngân hàng giấy đề nghị
vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn. Doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp
của các tài liệu gửi cho ngân hàng. Ngân hàng hướng dẫn các loại tài liệu
cho doanh nghiệp cần gửi cho ngân hàng phù hợp với đặc điểm của từng
loại doanh nghiệp, loại cho vay và khoản vay. Thông thường, bộ hồ sơ vay
vốn gồm có:
• Giấy đề nghị vay vốn.
• Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của doanh nghiệp như giấy
phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động.
• Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ hoặc dự án đầu
tư.
• Báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất.
• Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ
vay.
• Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
1.2.5.3. Thẩm định và quyết định cho vay
Để có căn cứ ra quyết định cho vay hay không, các NHTM đều xây
dựng quy trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và
phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm giữa khâu thẩm định và
cho vay. Khi thẩm định, ngân hàng sẽ xem xét, đánh giá tính khả thi, hiệu
quả của dự án đầu tư, phương thức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự
án đầu tư, phương án phục vụ đời sống và khả năng hoàn trả nợ vay của
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
doanh nghiệp để ra quyết định cho vay. Ngân hàng quy định cụ thể và niêm

yết công khai thời hạn tối đa phải thông báo quyết định cho vay hoặc
không cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp, kể từ khi nhận được đầy
đủ hồ sơ vay vốn và thông tin cần thiết của khách hàng. Trường hợp quyết
định không cho vay, ngân hàng phải thông báo cho doanh nghiệp bằng văn
bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay.
1.2.5.4. Hợp đồng tín dụng
Việc cho vay của ngân hàng và doanh nghiệp phải được lập thành
hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay,
mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời
hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ
và những cam kết khác được các bên thỏa thuận. Ngoài ra, hợp đồng tín
dụng cũng cần nêu rõ quyền và nghĩa vụ của hai bên: doanh nghiệp và ngân
hàng.
Khách hàng doanh nghiệp có quyền:
- Từ chối yêu cầu của ngân hàng không đúng với các thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
- Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định
của pháp luật.
Về mặt nghĩa vụ, khách hàng vay vốn ngân hàng có nghĩa vụ:
- Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến
việc vay vốn và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các thông
tin, tài liệu đã cung cấp.
- Sử dụng vốn vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác.
- Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những
thỏa thuận về việc trả nợ vay và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ
vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n

Về phía mình, ngân hàng có quyền:
- Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh phương án sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, khả năng tài chính của
doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay.
- Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều
kiện vay hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù
hợp với quy định của pháp luật hoặc ngân hàng không có nguồn vốn
để cho vay.
- Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của
khách hàng.
- Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện doanh
nghiệp cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
- Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo
lãnh theo quy định của pháp luật.
- Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả được nợ, nếu các bên
không có thỏa thuận khác, thì tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài
sản đảm bảo vón vay theo sự thỏa thuận trong hợp đồng để thu hồi
nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp khách hàng được bảo
lãnh vay vốn.
- Miễn giảm lãi vốn vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ thực hiện
theo quy định; mua bán nợ theo quy định của NHNN Việt Nam và
thực hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xóa nợ theo quy định của Chính
phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
Về mặt nghĩa vụ, ngân hàng có nghĩa vụ: Thực hiện đúng thỏa thuận
trong hợp đồng tín dụng; Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của
pháp luật.
1.2.5.5. Giới hạn cho vay
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n

Trong hoạt động cho vay, ngân hàng thương mại bị giới hạn cho vay
theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn. Các
giới hạn cho vay khi cho vay ngắn hạn bao gồm:
• Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá
15% vốn tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản
cho vay từ các nguồn vốn ủy thác của Chính phủ, của các tổ chức và
cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15%
vốn tự có của ngân hàng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn
từ nhiều nguồn thì các ngân hàng có thể cho vay hợp vốn theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
• Tổng dư nợ cho vay đối với một nhóm khách hàng có liên quan
không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng, trong đó mức
cho vay đối với đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của ngân hàng.
• Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng chính phủ cho phép
đối với từng trường hợp cụ thể, ngân hàng có thể cho vay vượt quá
mức giới hạn cho vay theo quy định vừa nêu.
• Việc xác định vốn tự có của các ngân hàng để làm căn cứ giới hạn
cho vay được thực hiện theo quy định của NHNN Việt Nam.
1.2.5.6. Vai trò của hoạt động cho vay
• Đối với ngân hàng:
Do mục tiêu lớn nhất của các ngân hàng thương mại là nhằm tăng
giá trị tài sản của chủ sở hữu nên các ngân hàng luôn tìm mọi biện pháp để
thu được mức lợi nhuận cao nhất. Các ngân hàng chỉ có thể đạt được mục
tiêu này một cách tốt nhất thông qua hoạt động cho vay và cung ứng dịch
vụ thanh toán cho nền kinh tế.
Thứ nhất, ngân hàng thu được lợi nhuận rất lớn từ các khoản cho vay
doanh nghiệp do nước ta là một nước đang chuyển hóa từ nền kinh tế tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường nên số lượng các doanh nghiệp
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B17

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
trên thị trường hiện nay đang gia tăng một cách chóng mặt.. Các doanh
nghiệp thường có nhu cầu vay vốn rất cao, đây lại là các khoản vay lớn nên
ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận rất lớn từ các khoản cho vay doanh
nghiệp.
Thứ hai, thông qua hoạt động cho vay, NHTM có thể điều hòa vốn,
hạn chế rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng do các doanh nghiệp kinh doanh
trên rất nhiều các lĩnh vực, sản phẩm đa dạng phong phú nên các khoản cho
vay được phân tán rủi ro. Hoạt động cho vay cũng góp phần củng cố mối
quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, hỗ trợ và cùng nhau phát triển.
• Về phía doanh nghiệp:
Việc cấp tín dụng của ngân hàng giúp doanh nghiệp bổ sung vốn
thiếu hụt đảm bảo cho doanh nghiệp có thể duy trì và mở rộng sản xuất
kinh doanh. Nguồn vốn vay ngân hàng có tác dụng như một đòn bẩy tài
chính, giúp cho doanh nghiệp cơ cấu lại nguồn vốn kinh doanh, đảm bảo
cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thông suốt. Không một doanh
nghiệp nào lại không cần đến sự huy động vốn từ bên ngoài. Có rất nhiều
kênh huy động vốn như tín dụng thương mại, phát hành cổ phiếu, trái
phiếu, vay vốn ngân hàng...Tuy nhiên, nguồn vốn vay ngân hàng luôn được
các doanh nghiệp hướng đến đầu tiên do ngân hàng có thể đáp ứng được
nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách kịp thời và nhanh chóng, nhất là
tại các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh theo mùa, nhu cầu vay
nợ ngắn hạn lớn thì nguồn vốn vay ngân hàng luôn là sự lựa chọn hàng
đầu. Còn việc thu hút vốn từ thị trường chứng khoán hay thị trường trái
phiếu sẽ gặp nhất nhiều thủ tục rườm rà, nhất là trong giai đoạn thị trường
suy giảm thì khả năng huy động vốn từ thị trường tiền tệ là bất khả thi. Do
đó, doanh nghiệp luôn ưu tiên lựa chọn nguồn vốn vay ngân hàng.
1.3. Chất lượng cho vay
1.3.1. Khái niệm chất lượng cho vay
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B18

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Đối với mỗi ngân hàng, hoạt động cho vay luôn là hoạt động
sinh lời nhiều nhất nhưng cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất cho
ngân hàng. Vì vậy các ngân hàng thường quan tâm đến việc nâng cao chất
lượng cho vay nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình. Vậy chất
lượng cho vay là gì?
Thông thường người ta hay đề cập đến khái niệm chất lượng tín
dụng. Trong đó chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức
độ đáp ứng yêu cầu về vốn của ngân hàng đối với sự phát triển của môi
trường bên ngoài, thể hiện sức mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh
tranh để tồn tại.
Tuy nhiên đề tài này chỉ xét trên khía cạnh cho vay, một khía cạnh
chính của tín dụng, nên em chỉ nghiên cứu hoạt động tín dụng của ngân
hàng đơn thuần là hoạt động cho vay và chất lượng tín dụng của ngân hàng
được đánh giá thông qua chất lượng cho vay.
Vậy chất lượng cho vay là một khái niệm vừa mang tính chất định
luợng vừa mang tính chất định tính phản ánh mức độ đáp ứng yêu cầu về
vốn của ngân hàng đối với sự phát triển của môi trường bên ngoài, nhằm
đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng có thể đáp ứng được hai mục
tiêu an toàn và sinh lời hay không.
Chất lượng cho vay được cụ thể hoá bằng các số liệu tính toán được
đồng thời cũng thể hiện một cách trừu tượng qua các yếu tố như năng lực
cán bộ tín dụng, khả năng thu hút khách hàng, đảm bảo quy trình tín dụng...
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay
1.3.2.1. Đối với ngân hàng
Mục tiêu sống còn của các ngân hàng là kinh doanh thu được lợi
nhuận nhưng phải đảm bảo an toàn cho ngân hàng, do đó việc nâng cao
chất lượng tín dụng là việc các ngân hàng luôn đặt lên hàng đầu. Khi một
khoản cho vay được đảm bảo chất lượng nghĩa là khoản cho vay đó đem lại
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B19

Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
hiệu quả tức là đem lại lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời cũng đảm bảo
an toàn cho ngân hàng.
Việc đảm bảo chất lượng cho vay sẽ tránh cho ngân hàng khỏi khả
năng lâm vào khủng hoảng có thể dẫn đến phá sản khi khách hàng không
trả được nợ. Đây là nhiệm vụ mà bất cứ ngân hàng nào cũng cố gắng thực
hiện tốt. Do việc sụp đổ của một ngân hàng sẽ dẫn tới sự ảnh hưởng tới cả
hệ thống và cả nền kinh tế, nên các ngân hàng đều nỗ lực hết mình để nâng
cao chất lượng cho vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Nhờ đảm bảo chất lượng cho vay mà ngân hàng có thể thực hiện tốt
vai trò trung gian điều tiết nền kinh tế của mình. Ngân hàng sẽ huy động
vốn từ nhiều dân cư và các tổ chức dư thừa vốn để chuyển cho những
doanh nghiệp đang thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Nâng cao
chất lượng cho vay sẽ khiến ngân hàng tự hoàn thiện mình, nâng cao chất
lượng các trang thiết bị máy móc hiện đại trong ngân hàng để phục vụ được
khách hàng tốt hơn, do đó sẽ tạo được cảm tình của khách hàng và có thể
thu hút thêm được nhiều khách hàng mới đồng thời tạo được mối quan hệ
lâu dài tốt đẹp với khách hàng cũ.
Để đảm bảo chất lượng các khoản vay, cán bộ tín dụng trong ngân
hàng phải không ngừng nâng cao năng lực nghiệp vụ thẩm định tín dụng
cũng như năng lực chăm sóc khách hàng, thu thập thông tin khách hàng.
Nhờ đó, các cán bộ tín dụng của ngân hàng ngày càng chuyên nghiệp hơn,
xử lý các món vay nhanh chóng hơn, rút gọn thời gian xử lý các hồ sơ vay
khốn, giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn nhanh hơn. Điều đó giúp
ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng và có thể cạnh tranh với các
ngân hàng khác trong khu vực.
1.3.2.2. Đối với doanh nghiệp
Việc nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng trước hết tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận và sử dụng vốn vay của ngân hàng
từ đó hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Hầu hết các doanh

§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
nghiệp đều có nhu cầu hỗ trợ vốn lớn và thường xuyên, đặc biệt là nhu cầu
vốn ngắn hạn. Đối với các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp tư nhân với đặc
điểm hạn chế về năng lực tài chính cũng như nhỏ hẹp về quy mô nên khả
năng tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng là rất khó so với các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn lớn hơn.
Khi doanh nghiệp xin vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải có
phương án sản xuất kinh doanh khả thi để có thể thuyết thục được ngân
hàng cấp tín dụng cho đơn vị. Do đó, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ
lực không ngừng, xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh phù
hợp với năng lực cũng như đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị
trường. Điều đó giúp cho doanh nghiệp có thêm được nhiều cơ hội phát
triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, khẳng định được vị thế của mình
trên thị trường. Nâng cao chất lượng cho vay ngân hàng cũng góp phần
giúp các doanh nghiệp chuyên môn hóa sản xuất. Do nguồn vốn chủ sở hữu
có phần hạn chế nên nhờ các khoản cho vay của ngân hàng mà doanh
nghiệp có cơ hội được đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh với quy mô lớn
hơn.
Khi ngân hàng nâng cao chất lượng cho vay, đồng nghĩa với việc
thời gian xử lý hồ sơ vay vốn ngân hàng sẽ được rút ngắn, giúp cho các
doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn vay nhanh chóng, kịp thời,
đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được xuyên suốt. Cùng với đó,
doanh nghiệp sẽ phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn của ngân hàng, do đó
bản thân doanh nghiệp sẽ tự mình nâng cao năng lực quản lý, kinh doanh,
phát triển sản suất. Có thể nói, việc nâng cao chất lượng cho vay đối với
doanh nghiệp của ngân hàng góp phần tạo động lực cho doanh nghiệp trong
việc nâng cao năng lực quản lý cũng như sử dụng vốn một cách hiệu quả
nhất.
Hơn nữa, dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ từ nay đến năm

2010 phải đẩy mạnh công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
trong tình hình thị trường chứng khoán đang phát triển, các doanh nghiệp
đang có xu hướng chuyển đổi sang mô hình công ty cổ phần nhiều hơn để
có cơ hội được niêm yết trên thị trường chứng khoán, tiếp cận với nguồn
vốn vay mới. Để làm được điều đó, điều đầu tiên các doanh nghiệp phải
đáp ứng được đó là phải có đủ số vốn yêu cầu. Do đó, doanh nghiệp nào
không có đủ điều kiện sẽ phải tìm cách để huy động cho đủ số vốn yêu cầu.
Khi đó, nguồn vốn tài trợ của ngân hàng sẽ đóng góp một phần quan trọng
vào việc giúp các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện đó.
Với những ý nghĩa trên, việc nâng cao chất lượng cho vay đối với
doanh nghiệp đã đóng góp vai trò to lớn vào sự phát triển của doanh
nghiệp.
1.3.3. Các chỉ tiêu đo lường chất lượng cho vay tại các NHTM
Hoạt động cho vay đạt chất lượng tốt khi nó đạt được những
mục tiêu đặt ra. Khi ngân hàng cung cấp tín dụng cho khách hàng,
ngân hàng hướng tới hai mục tiêu cơ bản là an toàn và sinh lời.
Ngoài ra, ngân hàng còn mong muốn thỏa mãn tối đa nhu cầu về vốn
của khách hàng. Vì vậy các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động
cho vay của ngân hàng cần đo lường được mức độ đạt được các mục
tiêu trên.
1.3.3.1. Các chỉ tiêu định lượng
Các chỉ tiêu đo lường mức độ an toàn:
• Tổng dư nợ tín dụng:
- Tổng dư nợ tín dụng (tổng dư nợ cho vay) là số vốn của ngân hàng
đang nằm trong tay khách hàng, bao gồm các khoản tín dụng chưa
đến hạn và các khoản nợ xấu của khách hàng.
- Tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một khách hàng không
được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng.

- Tổng mức cho vay và bảo lãnh của ngân hàng đối với một khách
hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của ngân hàng.
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
- Tổng dư nợ cho vay của ngân hàng đối với một nhóm khách hàng có
liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của ngân hàng, trong
đó mức cho vay đối với đối với một khách hàng không được vượt
quá 15% vốn tự có của ngân hàng.
- Tổng mức cho vay và bảo lãnh của ngân hàng đối với một nhóm
khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của
ngân hàng.
• Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Đây là chỉ tiêu phản ánh rõ nhất rủi ro tín dụng của ngân hàng. Trong
đó:
Tỷ lệ này phản ánh mức độ rủi ro trong các khoản tín dụng của
khách hàng. Tỷ lệ nợ xấu cao phản ánh mức độ rủi ro cao trong hoạt động
tín dụng tức là chất lượng cho vay tại ngân hàng là chưa cao. Mỗi ngân
hàng phải đảm bảo cho mình một tỷ lệ nợ xấu tối thiểu phù hợp với quy mô
của ngân hàng và quy định của NHNN. Đồng thời nó cũng gián tiếp phản
ánh một phần năng lực của các cán bộ tín dụng trong việc thực hiện quy
trình thẩm định tín dụng khi cho vay.
• Tỷ lệ nợ các nhóm từ 2 đến 5 trên Tổng dư nợ:
Chỉ tiêu này cũng phản ánh mức độ rủi ro trong các khoản tín dụng của
ngân hàng, nó chỉ rõ tỷ lệ các khoản nợ quá hạn, nợ xấu, nợ khó đòi trên
tổng dư nợ. Nếu tỷ lệ này cao chứng tỏ hoạt động cho vay của ngân hàng
đang chứa đựng rủi ro cao do khả năng mất vốn là rất lớn. Ngược lại nếu tỷ
lệ này thấp, tương ứng với đó là tỷ lệ nợ nhóm 1 trên tổng dư nợ cao, nghĩa
là các khoản cho vay tại ngân hàng được an toàn và có khả năng trả được
nợ.
• Tỷ lệ nợ có bảo đảm trên tổng dư nợ:

§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B23
Tỷ lệ nợ quá hạn =

Nợ quá hạn
Tổng dư nợ tín dụng
x 100%
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
Đây là một chỉ tiêu phản ánh khá rõ nét hoạt động cho vay của ngân
hàng có được đảm bảo an toàn hay không. Tỷ lệ này được tính bằng dư
nợ của các tài sản có đảm bảo trên tổng dư nợ. Tỷ lệ này cao chứng tỏ các
khoản cho vay của ngân hàng đã được đảm bảo bằng các tài sản thế chấp,
nếu có rủi ro xảy ra với khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc không trả được
nợ ngân hàng, ngân hàng có thể bán hoặc thanh lý tài sản thế chấp để thu
lại vốn cho vay. Còn nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ ngân hàng đã cho khách
hàng vay vốn theo hình thức tín chấp quá nhiều, khi có rủi ro xảy ra ngân
hàng dễ có khả năng bị mất trắng khoản vốn cho vay.
• Số ngày khách hàng phải chờ trước khi nhận được quyết định tín
dụng của ngân hàng:
Hồ sơ vay vốn của khách hàng phải được thẩm định và kiểm duyệt
qua các bộ phận chuyên trách rồi mới được trình Ban giám đốc ký, sau đó
mới đến giai đoạn giải ngân. Số ngày khách hàng phải chờ trước khi nhận
được quyết định tín dụng của ngân hàng chỉ ra rằng chất lượng thẩm định
và xử lý hồ sơ vay vốn của các cán bộ tín dụng của ngân hàng có tốt hay
không. Nếu thời gian này được rút ngắn, chứng tỏ cán bộ tín dụng tại
ngân hàng đã thực hiện tốt chức năng của mình để đáp ứng kịp thời nhu
cầu vay vốn của ngân hàng. Chỉ tiêu này cũng phần nào nói lên được mức
độ thỏa mãn của các khách hàng khi vay vốn tại ngân hàng. Nếu thời gian
xử lý hồ sơ xin vay vốn ít, doanh nghiệp sẽ tiếp cận được nguồn vốn vay
nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp.
Mục tiêu sinh lời

• Thu lãi từ hoạt động tín dụng/Tổng dư nợ:
Chỉ tiêu này được đo bằng lãi từ hoạt động tín dụng trên tổng dư nợ
cho vay. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ hoạt động cho vay đã đem lại nhiều
lợi nhuận cho ngân hàng đồng thời các khoản cho vay đạt hiệu quả khi thu
được lãi. Tuy nhiên, tỷ lệ này chưa đánh giá hết được chất lượng cho vay
tại ngân hàng vì các khoản vay gia hạn thời hạn vay vẫn có thể trả được lãi
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Trêng §H Kinh tÕ quèc d©n
nhưng nợ lại gốc. Vì vậy để đánh giá tốt chất lượng cho vay phải dựa vào
nhiều tiêu chí khác nữa.
• Lãi từ hoạt động tín dụng thực thu/Lãi dự thu:
Chỉ tiêu này phản ánh thực tế tình hình sinh lời tại ngân hàng đồng thời
phản ánh phần nào hoạt động cho vay tại ngân hàng có gặp rủi ro hay
không. Nếu tỷ lệ này thấp, nghĩa là số lãi ngân hàng không thu về được
cao, như vậy các món cho vay tại ngân hàng không thu về được lãi và ngân
hàng phải cơ cấu, trích dự phòng lại các khoản nợ này.
• Lãi ròng/Tổng dư nợ:
Chỉ tiêu này được tính bằng hiệu số giữa thu lãi từ hoạt động cho vay và
chi phí hoạt động cho vay trên tổng dư nợ. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ
sinh lời từ hoạt động cho vay tại ngân hàng. Nếu tỷ số này cao, nghĩa là các
khoản cho vay tại ngân hàng đem lại hiệu quả, ngân hàng thu được nhiều
lợi nhuận từ hoạt động cho vay. Các ngân hàng đều đang cố gắng giảm chi
phí hoạt động tín dụng, huy động được nhiều nguồn với chi phí rẻ, để làm
tăng tỷ lệ lãi ròng/tổng dư nợ.
1.3.3.2. Các chỉ tiêu định tính
• Mức độ phân bố các khoản tín dụng giữa các khách hàng thuộc các
nhóm khác nhau:
Chỉ tiêu này cho thấy mức độ phân tán rủi ro của ngân hàng trong
các khoản cho vay. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, thông
thường các ngân hàng sẽ cho vay theo hình thức “tín chấp”, trong khi

các doanh nghiệp này được nhà nước bảo trợ, hoạt động kinh doanh
ỳ trệ nên rủi ro khi cho vay là khá cao. Hoặc đối với loại hình cho
vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do các doanh nghiệp này mới
thành lập, số vốn ban đầu ít ỏi, khả năng cạnh tranh kém nên hoạt
động kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn. Nếu tỷ lệ cho vay đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cao mà khả năng thẩm định hồ sơ vay
§Æng Ph¬ng Mai Líp: TCDN 46B25

×