Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường Trung học cơ sở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.33 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ THỦY

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, tháng 8 năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ THỦY

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60.14.05

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS NGUYỄN VIẾT NGOẠN



Nghệ An, tháng 8 năm 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tôi đã
nhận được sự động viên, giúp đỡ từ các cấp lãnh đạo, quý thầy giáo, cô giáo,
các bạn đồng nghiệp và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành
đề tài nghiên cứu của mình.
Một lần nữa, tôi chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Vinh,
trường Đại học Sài Gòn, Khoa đào tạo Quản lý giáo dục và Hội đồng khoa
học trường Đại học Vinh, phòng Giáo dục và Đào tạo quận Bình Thạnh, quý
thầy giáo, cô giáo, tổ trưởng tổ Ngữ văn, giáo viên bộ môn Ngữ văn, đội ngũ
cán bộ quản lý 5 trường Trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí
Minh, cùng đông đảo bạn đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu,
tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở thực tế, tham gia đóng góp những ý kiến quý
báu cho việc nghiên cứu đề tài.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, PGS.TS. Nguyễn Viết Ngoạn Người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và
viết luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, tôi mong muốn nhận được những lời chỉ dẫn của quý thầy
giáo, cô giáo, ý kiến đóng góp trao đổi của các bạn đồng nghiệp để luận văn
được hoàn thiện hơn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 8 năm 2013
Tác giả

Phạm Thị Thủy


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu................................................................2
4. Giả thuyết khoa học........................................................................................2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................................3
6. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................3
7. Phương pháp nghiên cứu................................................................................3
8. Cấu trúc của luận văn......................................................................................4
9. Đóng góp của luận văn...................................................................................4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI...............................................5
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................5
1.2. Một số khái niệm cơ bản............................................................................6
1.3. Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn tại các trường trung học cơ sở
............................................................................................................................17
1.4. Sự cần thiết phải quản lý chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở các trường
trung học cơ sở trong giai đoạn hiện nay...........................................................31
Kết luận chương 1..............................................................................................35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN
NGỮ VĂN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ QUẬN BÌNH
THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................................................... 36
2.1. Khái quát tình hình kinh tế, xã hội, giáo dục ở quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh.................................................................................................... 36
2.2. Thực trạng dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở quận
Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.............................................................41
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học
cơ sở trên địa bàn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh...........................52
Kết luận chương 2 ...............................................................................................64



CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG
HỌC CƠ SỞ QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.........65
3.1.Các nguyên tắc đề xuất giải pháp................................................................65
3.2. Các giải pháp quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn tại các trường trung
học cơ sở trên địa bàn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.....................66
3.3. Thăm dò tính cần thiết, khả thi của các giải pháp được đề xuất..................82
Kết luận chương 3............................................................................................83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................84
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................86
PHỤ LỤC.......................................................................................................90


1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện nói chung và môn Ngữ văn nói riêng trong trường
phổ thông ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Trong năm học 2012 – 2013,
Bộ giáo dục và Đào tạo đã định hướng rất rõ mục tiêu nhiệm vụ chính của ngành
giáo dục và đào tạo qua chủ để năm học “ Tiếp tục đổi mới công tác quản lý, nâng
cao chất lượng giáo dục”. Đối với nhà trường thì việc nâng cao chất lượng giáo dục,
chất lượng dạy học luôn được coi là nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhất, là điều kiện
để mô hình của các nhà trường tồn tại và phát triển.
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Để nâng cao chất lượng Giáo dục và Đào tạo thì giải pháp có
tính quyết định là xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo”. Trong xu thế mở cửa và
hội nhập quốc tế yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao là một đòi hỏi cấp thiết,

vừa mang tính chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành công giai đoạn phát triển
giáo dục đến năm 2020 của hệ thống giáo dục quốc dân. Và trong đề án chiến lược
phát triển giáo dục đào tạo từ năm 2011 đến 2020, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn
mạnh: “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý phù hợp
với quá trình hội nhập quốc tế ”. Đây cũng điều kiện thuận lợi và cũng là thách thức
đối với ngành giáo dục đào tạo. Những đổi mới trong công tác quản lý giáo dục nói
chung và quản lý hoạt động dạy học trong các nhà trường nói riêng được xem là
khâu đột phá để nâng cao chất lượng học tập nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo
dục đề ra.
Các môn học trong nhà trường phải cung cấp kiến thức kỹ năng và hoàn thiện
nhân cách cho người học. Môn Ngữ văn là môn học cơ bản trong nhà trường phổ
thông có nhiệm vụ trau dồi kiến thức văn học cũng như rèn luyện kỹ năng nói và viết
tiếng Việt cho học sinh; ngoài ra còn góp phần hình thành nhân cách, đạo đức và
nuôi dưỡng tâm hồn, ý thức dân tộc cho chúng.
Thực tiễn cho thấy năng lực của một số giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn cấp
trung học cơ sở còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết và hạn chế về kỹ năng thực hành, kỹ
năng đánh giá... chưa đáp ứng được yêu cầu của bộ môn đề ra. Chất lượng dạy học
môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí


2

Minh hiện nay còn khá thấp. Một trong những nguyên nhân là các trường trung học
cơ sở trên địa bàn chưa có các giải pháp hữu hiệu để quản lý hoạt động dạy học môn
Ngữ văn, thêm vào đó là sự thiếu vắng các nghiên cứu có tính hệ thống về quản lý
chất lượng dạy học môn ngữ văn ở các trường trung học cơ sở.
Chính vì thế chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp quản lý
nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở
quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh”.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đề xuất một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học
môn Ngữ văn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn,
chất lượng giáo dục học sinh trong nhà trường trung học cơ sở trên địa bàn quận
Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học
cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở các
trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu đề xuất được các giải pháp quản lý mang tính khoa học, khả thi thì có thể
nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở
quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.


3

5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các
trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường
trung học cơ sở quận quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
5.3.

Đề xuất và thăm dò tính cần thiết, khả thi của một số giải pháp quản lý nâng

cao chất lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở quận
Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.

6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài chỉ nghiên cứu một số giải pháp quản lý hoạt động dạy học bộ môn
Ngữ văn của Hiệu trưởng ở các trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa các công trình nghiên
cứu, các quan điểm đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước v.v...nhằm xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát sư phạm
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục
- Phương pháp phỏng vấn

7.3 Phương pháp thống kê toán học: nhằm xử lý số liệu thu được


4

8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn được
bố trí trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn tại các
trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
- Chương 3: Một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học
môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận Bình Thạnh,
thành phố Hồ Chí Minh.


9. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số khái niệm về hoạt động dạy học, chất
lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn, quản lý chất lượng hoạt động dạy học môn
Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
- Chỉ ra được thực trạng quản lý chất lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở
các trường trung học cơ sở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất được một số giải pháp quản lý nâng cao chất lượng hoạt động dạy học
môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở trên địa bàn quận Bình Thạnh, thành phố
Hồ Chí Minh.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Hoạt động quản lý luôn đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ xã
hội và góp phần làm cho xã hội phát triển. Các tư tưởng quản lý sơ khai xuất phát từ
các tư triết học Cổ Hy Lạp và Cổ Trung Hoa. Thế kỷ IV – III TrCN có các nhà triết
học Hy Lạp nổi tiếng như: Xôcrat ( 469 – 399 TrCN), Platon (427 – 347 TrCN),
Arixtốt (384 – 322 TrCN). Theo Arixtốt, để quản lý được xã hội thì Nhà nước phải
dùng quyền lực, quyền lực công, loại trừ quyền lực tư lợi và quyền lực ấy phải phục
vụ cho toàn xã hội. Đây chính là tư tưởng khởi đầu về vai trò quản lý của nhà nước
là dùng quyền lực phục vụ cho toàn xã hội.
Thời Phục hưng, Komensky (1592-1670), nhà sư phạm, nhà lý luận lỗi lạc
đã sáng tạo lý luận dạy học cho rằng công việc của ngành sư phạm là ở chỗ tìm tòi
và phát hiện ra một phương pháp giúp cho người học lao lực ít hơn, nhà trường đỡ
vất vả hơn. Cho đến nay, các chuyên gia sư phạm trên thế giới đều coi Komensky là
người đặt nền móng cho nền lý luận dạy học hiện đại. Nhà giáo dục học, nhà tâm lý
học người Mỹ, Carl Rogers cũng khuyến nghị việc dạy học phải xuất phát và hướng

vào nhu cầu của người học. “ Việc giảng dạy hướng vào người học cũng có thể nói
chung là phương pháp tiếp cận hướng vào người học”. Hướng vào người học là cốt
lõi của cách tiếp cận nhân văn trong giáo dục, là phương pháp thầy trò cùng nhau
hoạt động, cùng nhau chia sẻ khó khăn, cùng tham gia hoạt động dạy và học. Cơ sở
của phương pháp này là sự yêu cầu người thầy tôn trọng học sinh, tin tưởng ở mỗi
học sinh có khả năng tiếp nhận.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người thầy vĩ đại của dân tộc đã từng căn dặn: “
Mỗi cấp học phải có cách dạy phù hợp”. Trong Nghị quyết của Đảng, trong các hội
nghị, hội thảo khoa học, những định hướng chiến lược, những quan điểm chỉ đạo về
cách dạy học mới không ngừng được đề xuất. Trong đó đòi hỏi người cán bộ quản lý
nhà trường, lực lượng chỉ đạo đổi mới cách dạy, cách học cần đổi mới cơ bản về tư


6

duy và phương pháp quản lý để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở đó nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận văn tiến sỹ, luận văn
thạc sỹ (Lê Thị Lan Anh, năm 2011, Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường Trung học cơ sở, Quận Thanh
Xuân Hà Nội; Phạm Thị Thanh Thủy, năm 2010, Biện pháp quản lý hoạt động dạy
học môn Ngữ văn tại Trường trung học cơ sở Giảng Võ, Ba Đình, Hà Nội...) cũng
đã đề cập đến những vấn đề cụ thể như: các giải pháp quản lý hoạt động dạy học
trong nhà trường phổ thông; quản lý việc thực hiện quy chế chuyên môn, quản lý
việc thực hiện đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp dạy học….
Các đề tài đã thực hiện đều có giá trị. Tuy nhiên hiện nay những đề tài
nghiên cứu gắn với những vấn đề nảy sinh ở từng địa phương, từng cơ sở giáo dục
thì sẽ có ý nghĩa thực tiễn lớn. Xuất phát từ những lý do trên, kết hợp với kinh
nghiệm của bản thân, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “ Một số giải pháp quản lý nâng
cao chất lượng hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở các trường trung học cơ sở

quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
1.2.1.1. Khái niệm:
Quản lý diễn ra trong mọi lĩnh vực và liên quan đến mọi người. Khi xã hội
loài người xuất hiện, một loạt các quan hệ: quan hệ giữa con người với con người,
giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với xã hội và cả con người với chính
bản thân mình xuất hiện theo. Điều này làm nảy sinh nhu cầu quản lý.
Theo Karl Marx: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo... Một con người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì
cần phải có một nhạc trưởng” [31, tr 480].


7

Henri Fayol cho rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức
bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) khoa học hoá, tổ chức, chỉ đạo, và kiểm
tra” [30, tr 46].
Marry Parker Follett khẳng định: “Quản lý là một quá trình động liên tục,
kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại” [29, tr 33 ].
Theo các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: Quản lý là
“Tác động có định hướng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ
chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [29, tr1].
Từ các quan niệm trên, ta thấy: Quản lý là một quá trình tác động có ý
thức, có định hướng và có tổ chức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm
đạt được mục tiêu đã đề ra một cách hiệu quả nhất trong điều kiện biến động của
môi trường.
Các khái niệm trên tuy khác nhau nhưng đều nói lên bản chất của hoạt
động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật của

chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong
muốn và đạt được mục tiêu đề ra. Để đạt được mục tiêu của tổ chức, người quản lý
phải thực hiện các chức năng quản lý. Có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân
chia các chức năng quản lý, đặc biệt là việc phân loại các chức năng quản lý.
1.2.1.2. Các chức năng quản lý
Henry Fayol (1841-1925) xuất phát từ các loại hình hoạt động quản lý đã
phân loại các chức năng quản lý thành 5 loại, đó là: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ huy,
phối hợp, kiểm tra.
Viện sỹ V.G.Afanaxiep - nhà lý luận quản lý xã hội có uy tín của Liên Xô
trước đây đã nêu 5 chức năng quản lý cơ bản đó là: xử lý và thông qua quy định, tổ
chức, điều chỉnh, sửa chữa kiểm kê, kiểm tra.
Quan niệm phổ biến hiện nay cho rằng quản lý gồm 4 chức năng chính, đó
là: chức năng kế hoạch, chức năng tổ chức, chức năng chỉ đạo, chức năng kiểm tra.
Tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin đầy đủ kịp thời,


8

cập nhật, chính xác là một căn cứ để hoạch định kế hoạch. Thông tin chuyển tải
mệnh lệnh chỉ đạo (thông tin xuôi) và phản hồi (thông tin ngược). Thông tin giúp cho
người quản lý xem xét mức độ đạt mục tiêu của tổ chức.
KH

KT

TT

TC




KH: Kế hoạch
TC: Tổ chức
CĐ: Chỉ đạo
KT: Kiểm tra
TT: Thông tin phục vụ quản lý
a. Chức năng kế hoạch: là một chức năng, một khâu quan trọng nhất trong hoạt
động quản lý, lập kế hoạch là hoạt động nhằm thiết lập các mục tiêu cần thiết cho sự
phấn đấu của một tổ chức, chỉ ra các hoạt động, những biện pháp cơ bản, các điều
kiện cần thiết để thực hiện mục tiêu. kế hoạch là nền tảng của quản lý, là sự quyết
định lựa chọn đường lối hành động của một tổ chức và các bộ phận của nó phải tuân
theo nhằm hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.
b. Chức năng tổ chức: tổ chức là quá trình sắp xếp, phân bố công việc quyền hành
và các nguồn lực cho các thành viên của tổ chức để họ có thể đạt được các mục tiêu
của tổ chức một cách hiệu quả. Nhờ có tổ chức hiệu quả mà người quản lý có thể sử
dụng tốt nguồn nhân lực và các nguồn lực khác. Một tổ chức được thiết kế phù hợp
sẽ phát huy được nội lực và có ý nghĩa quyết định đến việc chuyển hóa kế hoạch
thành hiện thực.
c. Chức năng chỉ đạo: là quá trình nhà quản lý dùng ảnh hưởng của mình tác động
đến con người trong tổ chức làm cho họ tự giác, phấn đấu đạt được mục tiêu của tổ


9

chức. Vai trò của người chỉ đạo là phải chuyển được ý tưởng của mình vào nhận thức
của người khác, hướng mọi người trong tổ chức về mục tiêu chung của đơn vị.
d.

Chức năng kiểm tra: là một chức năng quan trọng của quản lý, quản lý mà


không kiểm tra coi như không quản lý. Nhờ có kiểm tra mà nhà quản lý đánh giá
được kết quả công việc, điều chỉnh kịp thời những hạn chế, từ đó có biện pháp phù
hợp điều chỉnh kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo.
1.2.2.

Quản lý giáo dục

Quản lý giáo dục cũng như quản lý xã hội nói chung là hoạt động có ý thức của
con người nhằm theo đuổi những mục đích của mình.
Theo Đặng Quốc Bảo: “ Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động
điều hành phối hợp của các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy công tác đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu xã hội” [1, tr 31].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là những hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục) nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được
các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tiêu điểm hội tụ là quá
trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng
thái mới về chất” [34, tr 11].
Theo Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng Tuân: “ Quản lý giáo dục được hiểu là những tác
động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, có quy luật) của chủ
thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo
dục là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển
giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội”[33, tr 10].
Quản lý giáo dục bao gồm những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình
giáo dục, được tiến hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của
các lực lượng xã hội nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo
mục tiêu đào tạo của nhà trường. Về nguyên tắc quản lý giáo dục có mối liên hệ
tương tác giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý thông qua các nhân tố gồm mục



10

tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện. Chúng nằm trong môi trường bị chi phối
bởi các nhân tố tự nhiên, xã hội theo điều kiện lịch sử nhất định. Trên thực tế các yếu
tố này luôn tương tác với nhau.
Quản lý giáo dục vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Ngày nay, quản lý
giáo dục đang phát triển thành một ngành khoa học, có cơ sơ lý luận riêng của nó. Để
quản lý tốt, không chỉ cần nắm các luận điểm cơ bản của khoa học quản lý giáo dục,
mà còn cần nắm các quy luật cơ bản về sự phát triển giáo dục cũng như các khoa học
liên quan đến giáo dục. Chủ thể quản lý phải biết sử dụng không chỉ những chuẩn
mực pháp quyền, mà còn sử dụng cả những chuẩn mực đạo đức, xã hội, tâm lý…
nhằm bảo đảm sự thống nhất và những mối quan hệ trong quá trình quản lý.
Ngoài trình độ khoa học về quản lý, nhà quản lý còn phải có nghệ thuật
quản lý nữa. Nghệ thuật quản lý giáo dục được hiểu là sự tích hợp của khoa học giáo
dục, khoa học quản lý giáo dục, kinh nghiệm quản lý và sáng tạo của chủ thể quản
lý. Nghệ thuật bao gồm kỹ năng sử dụng phương pháp, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
ứng xử…nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu đề ra. Trong quản lý tính khoa học và
tính nghệ thuật luôn gắn bó với nhau. Nếu chỉ chú ý đến nghệ thuật thì hoạt động của
nhà quản lý mất định hướng, kết quả hoạt động thiếu ổn định, có tính may rủi.
Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến tính khoa học thì dễ rơi vào máy móc giáo điều. Như
vậy, quản lý giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Đó chính là
đặc thù của quản lý giáo dục.
Nhìn chung, có thể coi: Quản lý giáo dục là những tác động có mục đích,
có khoa học, phù hợp với quy luật khách quan của chủ thể quản lý đến đối tượng
quản lý nhằm khai thác tối ưu các nguồn lực và phối hợp những nỗ lực của cán bộ,
giáo viên và học sinh để phát triển sự nghiệp giáo dục theo mục tiêu, quan điểm
giáo dục của Đảng.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường là đối tượng quản lý cơ bản của tất cả các cấp quản lý giáo dục
có nhiệm vụ vận dụng những nguyên lý, những phương pháp của khoa học quản lý

giáo dục để đẩy mạnh các hoạt động của nhà trường, đảm bảo sự phát triển toàn diện


11

của thế hệ trẻ nhằm đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của
đất nước.
Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước
trong phạm vi trách nhiệm của mình tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý
giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với
thế hệ trẻ và với từng học sinh.
Mục đích của quản lý nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có, tiến
lên một trạng thái phát triển mới bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ
các nguồn lực giáo dục và hướng các nguồn lực đó vào phục vụ cho việc tăng cường
chất lượng giáo dục. Mục đích cuối cùng của quản lý giáo dục là tổ chức quá trình
giáo dục có hiệu quả để đào tạo thế hệ trẻ thông minh, sáng tạo, năng động biết sống
vì hạnh phúc của bản thân và xã hội.
Theo tác giả Nguyễn Hữu Châu, (Báo cáo hội thảo đánh giá chất lượng giáo
dục - 2005), đánh giá chất lượng nhà trường dựa vào các yếu tố: yếu tố đầu vào, quá
trình, đầu ra, ngữ cảnh sau:
1.
2.
3.
4.

Đầu vào
Người học
Chương trình giáo dục
Người dạy
Cơ sở vật chất


Quá trình
1. Bộ máy quản lý trường
2. Hoạt động giáo dục
3. Hoạt động khai thác và sử
dụng nguồn lực

Đầu ra
1. Sự phát triển của người học
2. Sự phát triển của người dạy
1. Lợi ích của xã hội

Ngữ cảnh
1. Dân cư
2. Chính sách
3. Nhận thức của xã hội
4. Tình hình kinh tế
2. Sự phát triển của người dạy


12

Bản chất của quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy, quản lý hoạt động
học và các hoạt động giáo dục khác trong nhà trường để đạt được các mục tiêu giáo
dục đề ra.
1.2.4. Quản lý hoạt động dạy học
1.2.4.1.

Hoạt động dạy học


Hoạt động dạy học là hoạt động đặc trưng của nhà trường. Đó là hoạt động có
tổ chức, có kế hoạch, có mục đích dưới sự chỉ đạo của nhà quản lý giáo dục. Đồng
thời có sự hoạt động tích cực, tự giác của người học với mục tiêu phát triển nhân
cách. Hoạt động dạy học bao gồm 2 mặt: hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động
học của học sinh.
Theo tác giả Phan Trọng Luận: “Học là quá trình tương tác giữa cá thể với môi
trường, kết quả dẫn đến sự biến đổi bền vững về nhận thức, trình độ hay hành vi của
cá thể đó”[32, tr15].
“Dạy là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những kinh nghiệm mà xã
hội đã sáng tạo và tích lũy được qua các thế hệ....[32, tr 16].
Hoạt động dạy học là quá trình gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng:
Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Trong đó dưới sự lãnh
đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực tự tổ chức, tự điều
khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học. Trong
quá trình dạy học, hoạt động dạy của giáo viên có vai trò chủ đạo, hoạt động học của
học sinh có vai trò tự giác, chủ động, tích cực. Nếu thiếu một trong hai hoạt động
trên, quá trình dạy học không diễn ra.
Hoạt động dạy và hoạt động học gắn liền với hoạt động của con người có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện ở mối quan hệ tương tác giữa các thành tố: mục
tiêu, nội dung, phương pháp của hoạt động dạy và hoạt động học.
Phân tích hoạt động dạy học, chúng ta đi đến kết luận: Hoạt động học trong đó
có hoạt động nhận thức của học sinh có vai trò quyết định kết quả dạy học. Để hoạt
động học có kết quả thì trước tiên chúng ta phải coi trọng vai trò người giáo viên,


13

giáo viên phải xuất từ lôgíc của khái niệm khoa học, xây dựng công nghệ dạy học, tổ
chức tối ưu hoạt động cộng tác của dạy và học, thực hiện tốt các chức năng dạy học.
Vì vậy muốn nâng cao mức độ khoa học của việc dạy học ở trường phổ thông thì

người Hiệu trưởng đặc biệt chú ý hoạt động dạy của giáo viên; chuẩn bị cho họ có
khả năng hình thành và phát triển ở học sinh các phương pháp, cách thức phát hiện
lại các thông tin học tập. Đây là khâu cơ bản để tiếp tục hoàn thiện tổ chức hoạt động
học của học sinh.
Nếu xét quá trình dạy học như là một hệ thống thì trong đó, quan hệ giữa hoạt
động dạy của thầy với hoạt động học của trò thực chất là mối quan hệ điều khiển.
Với tác động sư phạm của mình, thầy tổ chức, điều khiển hoạt động của trò. Từ đó,
chúng ta có thể thấy công việc của người quản lý nhà trường là: hành động quản lý
(điều khiển hoạt động dạy học) của Hiệu trưởng chủ yếu tập trung vào hoạt động dạy
của thầy và trực tiếp đối với thầy; thông qua hoạt động dạy của thầy mà quản lý hoạt
động học của trò.
1.2.4.2. Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý hoạt động dạy học trong nhà trường là quản lý toàn bộ việc giảng dạy,
giáo dục của thầy, việc học tập của trò theo nội dung giáo dục toàn diện nhằm thực
hiện mục tiêu và đường lối giáo dục của Đảng.
* Quản lý hoạt động dạy của giáo viên: giáo viên vừa là đối tượng quản lý
trong mối quan hệ các cấp quản lý bên trong nhà trường (Ban giám hiệu, tổ trưởng
chuyên môn ), vừa là chủ thể quản lý (trong mối quan hệ với học sinh). Quản lý hoạt
động dạy của giáo viên bao gồm các nội dung sau:
-

Quản lý việc xây dựng, thực hiện kế hoạch và chương trình giảng dạy.

-

Quản lý việc soạn bài, chuẩn bị bài

-

Quản lý giờ lên lớp, việc sử dụng đồ dùng dạy học


-

Quản lý việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

-

Quản lý việc thực hiện hồ sơ chuyên môn


14

* Quản lý hoạt động học của học sinh: học sinh vừa là đối tượng vừa là chủ thể
tự quản lý quá trình học tập của mình. Nội dung quản lý hoạt động học của học sinh
bao gồm:
-

Giáo dục động cơ, ý thức, thái độ học tập của học sinh

-

Quản lý thời gian, chất lượng học tập, phương pháp học tập của học sinh

-

Phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong giáo dục học sinh.

-

Khen thưở


ng và kỷ luật học sinh
-

Tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh

1.2.5. Chất lượng và chất lượng dạy học
1.2.5.1. Chất lượng
*Khái niệm về chất lượng
-

Bộ tiêu chuẩn ISO định nghĩa chất lượng là:
“Tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể (đối
tượng) đó khả năng thỏa mãn những yêu cầu đã nêu ra hoặc tiềm ẩn”.

-

Theo Từ điển Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2000): Chất lượng
là tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật, hiện tượng, làm cho
sự vật này phân biệt với sự vật khác.

-

Theo Edwards Deming: “ Chất lượng là sự phù hợp với mục đích sử dụng”.
Chất lượng là một khái niệm trừu tượng và khó định nghĩa, thậm chí khó nắm

bắt. Trong một nghiên cứu khá nổi tiếng của Harvey và Green (1993) nhằm tổng kết
những quan niệm chung của các nhà giáo dục, chất lượng được định nghĩa như tập
hợp các thuộc tính khác nhau:
Chất lượng là sự xuất sắc (quality as excellence); Chất lượng là sự hoàn hảo

(quality as perfection); Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu (quality as fitness for


15

purpose); Chất lượng là sự đáng giá với đồng tiền [bỏ ra] (quality as value for
money); Chất lượng là sự chuyển đổi về chất (quality as transformation)
Các quan niệm về chất lượng tổng quát tuy có khác nhau, nhưng đều có chung
một ý tưởng: chất lượng là sự thoả mãn một yêu cầu nào đó. Thực vậy, trong sản
xuất, chất lượng của một sản phẩm được đánh giá qua mức độ đạt các tiêu chuẩn
chất lượng đã đề ra của sản phẩm. Còn trong giáo dục đào tạo, chất lượng được đánh
giá qua mức độ đạt được mục tiêu đã đề ra của chương trình giáo dục đào tạo.
1.2.5.2. Chất lượng dạy học
Chất lượng dạy và học là mối quan tâm hàng đầu của nền giáo dục trên thế giới.
Hầu hết các nước đều ra sức tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng dạy và học.
Với mong muốn là làm sao để người dạy truyền đạt được kến thức một cách dễ dàng,
người học nắm bắt và vận dụng được kiến thức đó trong thời gian ngắn nhất vào thực tế
sản xuất, nghiên cứu một cách có hiệu quả, và do vậy càng lúc càng đặt ra những yêu
cầu gay gắt trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và cách đánh giá người học như
thế nào là khách quan, công bằng, là động lực thúc đẩy để người học thấy đó là động
lực, mục tiêu phấn đấu như bữa cơm hàng ngày. Vậy chất lượng dạy học được đánh giá
như thế nào?
Theo Phạm Quang Huân (Viện Nghiên cứu Sư phạm, Đại học Sư phạm Hà
Nội): Có thể coi mức chất lượng là những yêu cầu, những mong muốn đạt được phù
hợp với trình độ và điều kiện của giáo viên, của lớp học, của nhà trường đối với các
yếu tố tham gia vào quá trình như nội dung kiến thức, phương pháp tổ chức, việc
hướng dẫn của người dạy về cách thức hoạt động để chiếm lĩnh tri thức cho người
học…Chẳng hạn: người giáo viên đặt ra yêu cầu cho người học cần đạt tới mức chất
lượng nào về nội dung kiến thức, về kỹ năng, thái độ; người dạy cần đạt những yêu
cầu chất lượng nào về việc chọn lựa, sắp xếp và trình bày nội dung, về phương pháp

hướng dẫn, tổ chức và điều khiển học sinh tiến hành các hoạt động nhận thức, về
việc sử dụng, khai thác thiết bị và học liệu hỗ trợ dạy học …


16

Chất lượng dạy học học chính là mức độ đạt được về kiến thức, kỹ năng, thái
độ của người học so với mục tiêu dạy học đặt ra. Một quan niệm phổ biến hiện nay
coi kết quả học tập của môn học chính là chất lượng dạy học của môn học đó.
1.2.6. Nhà trường trung học cơ sở
Trường trung học cơ sở là cơ sở giáo dục của bậc trung học, bậc học nối tiếp
giữa bậc tiểu học và bậc trung học phổ thông trong hệ thống giáo dục quốc dân
Việt Nam.Trường trung học cơ sở là cơ sở giáo dục thực hiện các mục tiêu giáo
dục cấp trung học cơ sở.
a) Mục tiêu của giáo dục trung học cơ sở:
Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp cho học sinh củng cố và phát triển
những kết quả ở Tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu
biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân
để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, trung học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động.
b) Nhiệm vụ và quyền hạn của trường trung học cơ sở:
Tại điều 3, Điều lệ trường Trung học năm 2007 có ghi:
-

Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác của chương

trình giáo dục phổ thông;
-

Quản lý giáo viên, cán bộ, nhân viên, tham gia tuyển dụng và điều động


giáo viên, cán bộ, nhân viên;
-

Tuyển sinh và tiếp nhận học sinh,vận động học sinh bỏ học đến trường,

quản lý học sinh theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
-

Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong phạm vi cộng

đồng;
-

Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối

hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục;


17

-

Quản lý sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị quy định của Nhà

nước;
-

Tổ chức giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia hoạt động xã hội;


-

Tự đánh giá chất lượng giáo dục và chịu sự kiểm định chất lượng giáo dục

của các cơ quan có thẩm quyền kiểm định chất lượng giáo dục;
-

Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

1.3. Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn tại các trường trung học cơ sở
1.3.1. Dạy học môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở
1.3.1.1. Mục tiêu dạy học Ngữ văn:
Theo tác giả Đỗ Ngọc Thống, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, cho rằng
Ngữ văn là môn học có “tuổi thọ” cao nhất ở nhà trường phổ thông. Hàng ngàn năm
dưới chế độ phong kiến, khái niệm đến trường, đi học chủ yếu là học Ngữ văn.
Trước hết là học lễ nghĩa và sau đó là để biết đọc, biết viết, từ đó mà học đạo lý, luân
lý, hình luật, chính trị, triết lý.
Chương trình Ngữ văn hiện hành nêu lên 03 mục tiêu, trong đó mục tiêu đầu
tiên là cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ
thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn học Việt
Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu thứ hai là hình
thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm
mỹ… Mục tiêu thứ ba là bồi dưỡng tinh thần, tinh cảm: yêu tiếng Việt, yêu thiên
nhiên, gia đình, lòng tự hào dân tộc…
Dạy học môn Ngữ văn ở cấp trung học cơ sở nhằm trau dồi kiến thức văn học
cũng như rèn luyện kỹ năng nói và viết cho học sinh, góp phần hình thành nhân cách,
đạo đức và nuôi dưỡng tâm hồn, ý thức dân tộc cho học sinh. Từ đó, hình thành và
phát triển con người toàn diện ở học sinh, đồng thời giáo dục lý tưởng và đạo đức,
từng bước giúp học sinh cập nhật những vấn đề toàn cầu mà không quay lưng lại với



18

truyền thống dân tộc, vừa giữ gìn bản sắc vừa hòa nhập xu thế phát triển chung của
thế giới.
Ngữ văn là một trong 3 môn học Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ có số giờ học cao
nhất trong trường trung học cơ sở. Ngoài tính chất là một môn học công cụ, góp phần
hình thành 4 kỹ năng cơ bản, thiết yếu cho học sinh: nghe, nói, đọc, viết; môn học
còn có những đặc thù riêng biệt. Nó giữ một vai trò quan trọng trong việc thực hiện
những mục tiêu giáo dục chung của trường trung học cơ sở, trang bị cho học sinh
công cụ để giao tiếp, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đặc biệt góp phần hình thành
những con người có trình độ học vấn phổ thông để họ hoặc ra đời tham gia vào lực
lượng lao động hoặc tiếp tục học tập ở bậc cao hơn. Theo định hướng đổi mới giáo
dục nhằm tăng cường sự tích cực, chủ động sáng tạo của người học, phát triển năng
lực đã trở thành mục tiêu bao trùm của môn Ngữ văn trung học cơ sở mới. Nếu hiểu
năng lực là “khả năng được hình thành và hoặc phát triển, cho phép con người đạt
được thành công trong một hoạt động thể lực, trí lực hoặc nghề nghiệp” (Xavier
Roegiers) thì các năng lực Ngữ văn có thể xác định được là năng lực nắm vững và
vận dụng những hiểu biết về Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn để tiếp nhận, giải mã
và tạo lập các văn bản trong những tình huống khác nhau. Nhằm giúp học sinh có
được những năng lực này, chương trình Ngữ văn đã tổ chức các nội dung học tập
theo tư tưởng tích hợp các nội dụng học tập và tích cực hoá hoạt động học tập để đạt
được mục tiêu.
1.3.1.2. Đặc trưng của chương trình, nội dung dạy học môn Ngữ văn cấp trung
học cơ sở
Cấu trúc chương trình Ngữ văn hiện hành được thực hiện theo nguyên tắc tích
hợp. Với môn Tiếng Việt ở Tiểu học, chương trình tập trung vào hai thành phần:
kiến thức và kỹ năng, trong đó kiến thức gồm tiếng Việt và Văn học; kỹ năng gồm
đọc, viết, nghe, nói. Đến trung học cơ sở và trung học phổ thông chương trình lại

được cấu trúc theo ba phần: Tiếng Việt, Tập làm văn và Văn học. Mỗi phần có các
nội dung riêng, theo hệ thống của mỗi phân môn khá độc lập… Cho nên nhiều nội
dung rất khó tích hợp.


19

Nhìn chung cấu trúc của chương trình và nhất là sách giáo khoa Ngữ văn hiện
hành vẫn chủ yếu lấy trục nội dung (tiểu học theo hệ thống chủ đề, còn Trung học
lấy lịch sử văn học). Thêm vào đó do làm chương trình tách rời các cấp nên cấu trúc
chương trình các cấp thiếu tính thống nhất; một số đơn vị kiến thức lặp lại, một số
nội dung không cần thiết phải học cả 3 cấp, hoặc lặp lại mà không phát triển, nâng
cao…Văn bản đọc hiểu còn nhiều, một số văn bản dài, chưa chọn lọc, thiếu hấp
dẫn…
Có thể nói xây dựng chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn theo hướng tích
hợp là đúng, là một bước tiến trong việc phát triển chương trình, nhưng vẫn còn bất
cập. Chương trình Ngữ văn sau 2015 đòi hỏi nhiều vấn đề cần thay đổi, trước hết là
xác định trục chính của chương trình. Cấu trúc nội dung chương trình phải tập trung
vào mục tiêu phát triển năng lực và vì thế trục chính của chương trình ngữ văn, như
nhiều nước đã làm phải là trục kỹ năng: đọc, viết, nghe, nói. Việc trang bị kiến thức
văn học và tiếng Việt, ngôn ngữ… vẫn cần thiết nhưng cần thông qua rèn luyện kỹ
năng, liên quan mật thiết và phục vục trực tiếp cho rèn luyện kỹ năng.
1.3.1.3. Phương pháp dạy học môn Ngữ văn:
-

Bên cạnh nhiệm vụ phát triển năng lực tạo lập văn bản cho học sinh, một nhiệm

vụ mà chương trình truyền thống vẫn chú ý, môn Ngữ văn hiện hành có nhiệm vụ
phát triển năng lực đọc văn, và rộng hơn là năng lực tiếp nhận văn bản. Nhiệm vụ
này đòi hỏi thay đổi phương pháp dạy và học một cách mạnh mẽ.

-

Tư tưởng quan trọng của chương trình Ngữ văn sau 2000 là chuyển từ phương

pháp giảng văn sang phương pháp đọc hiểu văn bản. Đó là một bước tiến trong
phương pháp dạy học văn ở nhà trường phổ thông. Theo định hướng này, dạy văn
thực chất là:
+

Dạy cho học sinh cách thức khám phá, giải mã văn bản – tác phẩm.

+

Từ đó hình thành năng lực tự học, tự đọc, tự tiếp nhận văn học nói riêng và

văn bản nói chung. Các mục tiêu cao đẹp khác đều thông qua mục tiêu trực tiếp này,
tức thông qua đọc hiểu mà đạt được.


20

-

Tuy nhiên tư tưởng và phương pháp đọc hiểu nhìn chung mới dừng lại ở nhận

thức là chính. Trong thực tế dạy học tư tưởng vừa nêu chưa được hiện thực hóa một
cách toàn diện, đồng bộ và hiệu quả. Có nhiều nguyên nhân: một số tác giả chưa nắm
vững và chưa thể hiện được tư tưởng này trong biên soạn sách giáo khoa; công tác
đào tạo, bồi dưỡng giáo viên về phương pháp mới chưa cập nhật, kiểm tra đánh giá
chưa đổi mới, chưa đồng bộ…

1.3.2. Quản lý hoạt động dạy học môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở
Quản lý dạy học môn Ngữ văn là hệ thống những tác động có mục đích của
chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến hoạt động dạy học môn Ngữ văn trong trường
trung học cơ sở nhằm thực hiện có chất lượng các mục tiêu dạy học môn học này.
Quản lý dạy học môn Ngữ văn bao gồm: quản lý mục tiêu và chương trình, nội dung
dạy học Ngữ văn; quản lý việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn; quản lý hoạt
động dạy Ngữ văn của thầy; quản lý hoạt động học Ngữ văn của trò; quản lý công
tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy Ngữ văn; quản lý việc đổi mới các hình thức
kiểm tra, đánh giá cho phù hợp chương trình, phương pháp giảng dạy và yêu cầu của
bộ môn Ngữ văn.
1.3.2.1. Quản lý việc thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung hoạt động
môn Ngữ văn
Chương trình dạy học là pháp lệnh của Nhà nước do Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành, là căn cứ pháp lý để ngành giáo dục chỉ đạo, giám sát và hướng dẫn thực
hiện. Điều 28, Luật Giáo dục năm 2005 của nước ta nêu rõ yêu cầu nội dung chương
trình phải phải củng cố, phát triển những nội dung đã học ở tiểu học, bảo đảm cho
học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc;
kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ;
có những hiểu biết cần thiết tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp.
Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 9/2/2000 của Quốc hội cũng khẳng định:
“Việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về
nội dung, phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong luật giáo
dục, khắc phục những mặt còn hạn chế của chương trình, sách giáo khoa hiện hành,


×