Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ trung cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.05 KB, 91 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, đã và đang đặt ra
những yêu cầu mới về nguồn nhân lực từ quy mô, cơ cấu ngành nghề, đến
trình độ đào tạo...Vì vậy, đòi hỏi phải có những nhận thức, giải pháp mới về
đào tạo và sử dụng nhân lực trong điều kiện phát triển nhanh chóng của khoa
học - công nghệ.
Đối với các nước đang phát triển phải chuẩn bị nguồn nhân lực chất
lượng cao để chủ động tiếp cận tri thức, tiếp nhận chuyển giao công nghệ,
nắm bắt và làm chủ công nghệ. Với tốc độ phát triển nhanh của khoa học và
công nghệ, thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu. Các
ngành nghề cũng biến đổi liên tục, nhiều ngành nghề cũ mất đi, nhiều ngành
nghề mới nhanh chóng xuất hiện, yêu cầu kỹ năng tổng hợp thay cho kỹ năng
hẹp… Tất cả những điều đó đòi hỏi trình độ và kỹ năng của đội ngũ nhân lực
không ngừng nâng lên và thường xuyên cập nhật để phù hợp và kịp bắt nhịp
với những cái mới do tiến bộ khoa học - công nghệ đem lại. Muốn có thành
tựu phát triển lớn, vượt bậc và được xếp vào loại các quốc gia tương đối phát
triển đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, các quốc gia
không có đủ nhân lực trình độ cao sẽ tụt hậu và không thể tham gia vào chuỗi
giá trị gia tăng toàn cầu.
Việt Nam giai đoạn 2012 - 2020, sẽ xây dựng và phát triển nhanh các
khu công nghệ cao, các khu kinh tế và nhiều khu công nghiệp, cùng với đẩy
mạnh tốc độ phát triển các ngành công nghiệp cơ bản, các ngành dịch vụ cơ
bản với chất lượng cao để cạnh tranh với các công ty nước ngoài, đồng thời sẽ
tiếp thu và ứng dụng những qui trình công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại với
hàm lượng khoa học, công nghệ cao, nhiều lĩnh vực ở mức tiên tiến và hiện



2

đại của thế giới đòi hỏi nhanh chóng xây dựng đội ngũ nhân lực có tri thức và
kỹ năng cao
Hiện nay công tác đào tạo nghề trên phạm vi toàn quốc cũng như ở các
địa phương vẫn còn nhiều bất cập. Có nhiều nguyên nhân trong đó nổi bật là
do công tác phát triển đào tạo nghề chưa được các ngành, các địa phương
quan tâm đúng mức, đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu và yếu, cơ sở vật
chất nghèo nàn, chất lượng đào tạo còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển nguồn nhân lực nghề trong phạm vi cả nước cũng như ở từng địa
phương. Để giải quyết thực trạng trên mỗi địa phương cần phải căn cứ vào
các điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và đặc điểm địa lý, dân cư, dựa trên
chiến lược phát triển đào tạo nghề quốc gia để xây dựng các giải pháp quản lý
hoạt động đào tạo nghề cho địa phương mình nhằm chuyển dịch cơ cấu lao
động, phát triển kinh tế - xã hội.
Nghệ An là tỉnh có quy mô dân số và nguồn lao động lớn, ước tính đến
cuối năm 2012 là 2.953.104 người. Trong đó, khu vực thành thị có 404.575
người chiếm khoảng 13.7%, khu vực nông thôn có 2.548.529 người, chiếm
khoảng 86.3%, số người trong độ tuổi lao động chiếm 68.4% với 2.022.876
người. Đến cuối năm 2012 tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 40%. Trong
đó, số lao động có trình độ (Trung cấp nghề và Cao đẳng nghề) mới đạt
6.98% chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển công nghệ và nhu
cầu sử dụng sau đào tạo.
Bước vào thời kỳ hội nhập toàn diện với nền kinh tế toàn cầu, cơ hội và
thách thức ngày càng lớn. Để đưa Nghệ An cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp
vào năm 2020, thì phát triển đào tạo lao động có trình độ trung cấp nghề là
nhiệm vụ hết sức quan trọng. Do đó, vấn đề xây dựng các giải pháp quản lý
hoạt động đào tạo nghề tỉnh Nghệ An trong giai đoạn này là hết sức quan
trọng và cấp thiết.



3

Với những lý do đã nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Một số giải pháp
quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ trung cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ
An" làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Dựa trên cơ sở nghiên cứu các lý luận về quản lý giáo dục, chiến lược
phát triển đào tạo nghề, kế hoạch giải quyết việc làm và thực trạng, yêu cầu
phát triển đào tạo nghề của tỉnh Nghệ An, tác giả xây dựng một số giải pháp
quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ trung cấp tỉnh Nghệ An đến năm
2020 nhằm đáp ứng nguồn nhân lực của Tỉnh trong thời kì CNH -HĐH.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lý đào tạo nghề trình độ Trung cấp
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ Trung cấp trên
địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Công tác đào tạo nghề trình độ trung cấp nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ
An sẽ phát triển và đáp ứng yêu cầu nguồn lao động kỹ thuật phục vụ cho
công cuộc CNH - HĐH nếu các giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề
trình độ trung cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020 có cơ sở lý luận
khoa học và khả thi trong thực tiễn.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đào tạo nghề và quản lý đào tạo nghề.

- Đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển đào tạo nghề tỉnh Nghệ An
giai đoạn 2006 - 2011.
- Xác định mục tiêu và các giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề
trình độ trung cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020.


4

- Thăm dò tính cần thiết, khả thi một số giải pháp quản lý hoạt động
đào tạo nghề tỉnh Nghệ An được đề xuất trong khuôn khổ luận văn.
6. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Phạm vi thời gian: Thực trạng đào tạo nghề tỉnh Nghệ An giai đoạn
2006 - 2011 và đề xuất giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ
trung cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
- Phạm vi nội dung: Xây dựng mục tiêu, các giải pháp cơ bản quản lý
hoạt động đào tạo nghề trình độ trung cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm
2020 làm cơ sở để cho các cơ quan quản lý có thẩm quyền xây dựng kế hoạch
đào tạo nghề hàng năm cho Tỉnh.
- Phạm vi không gian: Khảo sát thực tiễn các trường Cao đẳng, trung
cấp nghề (trung ương, địa phương) trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
7. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

7.1. Các cách tiếp cận cơ bản trong nghiên cứu
7.1.1. Tiếp cận hệ thống
Xem xét hệ thống dạy nghề là một phân hệ của hệ thống giáo dục quốc
dân đồng thời là một thành phần của hệ thống kinh tế - xã hội của địa phương
nói riêng và của cả nước nói chung.
7.1.2. Tiếp cận phát triển
Hệ thống dạy nghề của địa phương luôn vận động và phát triển trong

quá trình phát triển KT-XH theo định hướng CNH-HĐH.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu
7.2.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các tài liệu, văn kiện của Đảng và Nhà nước về các chủ
trương, chính sách quản lý giáo dục - đào tạo và đào tạo nghề ở nước ta trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.


5

- Phân tích tổng hợp các tài liệu, văn bản của Tỉnh về quản lý giáo dục
và đào tạo, quản lý dạy nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong thời kỳ CNHHĐH.
- Phân tích, tổng hợp một số tài liệu, công trình nghiên cứu trong lĩnh
vực quản lý giáo dục và quản lý đào tạo nghề.
7.2.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Thống kê, tổng hợp, so sánh để đánh giá về thực trạng hoạt động đào
tạo nghề trình độ trung cấp và giải quyết việc làm ở tỉnh Nghệ An thời gian
qua.
- Thăm dò tính cấp thiết và khả thi của các giải pháp đề xuất với cán bộ
quản lý các trường Cao đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn tỉnh Nghệ An và
công chức phòng quản lý đào tạo nghề Sở Lao động – TB&XH
7.2.3. Nhóm phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác: thống kê và phân
tích xử lý số liệu
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN.

8.1. Về lý luận
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận những vấn đề cơ
bản về công tác đào tạo nghề và khả năng vận dụng để xây dựng một số giải
pháp quản lý đào tạo nghề tỉnh Nghệ An trong quá trình CNH - HĐH.
- Làm rõ sự cần thiết và mối quan hệ biện chứng giữa phát triển đào tạo

nghề với phát triển kinh tế - xã hội, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực
địa phương trong quá trình CNH - HĐH.
8.2. Về thực tiễn
- Luận văn đánh giá thực trạng đào tạo nghề ở tỉnh Nghệ An; đề xuất
một số giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ trung cấp trên địa
bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020 góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo nghề, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong giai đoạn CNH - HĐH.


6

- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể vận dụng vào việc xây dựng
Kế hoạch quản lý đào tạo nghề hàng năm cho tỉnh Nghệ An đến năm
2020.
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận kiến nghị, phụ lục Luận văn gồm 3
chương chính:
Chương 1: Lý luận chung về đào tạo nghề.
Chương 2: Thực trạng đào tạo nghề tỉnh Nghệ An giai đoạn 2006 2011.
Chương 3: Giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề trình độ Trung
cấp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020.


7

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ
1.1. SƠ LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐÀO TẠO NGHỀ.


Đào tạo nghề và nâng cao chất lượng ĐTN là những vấn đề được đặt ra
cùng với sự phát triển của sản xuất. Các hình thức ĐTN đã xuất hiện sớm
cùng với sự ra đời của nền văn minh nông nghiệp dưới dạng truyền thụ kinh
nghiệm trồng trọt, chăn nuôi và nghề thủ công và xuất hiện dưới dạng kèm
nghề tại các xưởng thủ công. Chỉ đến thế kỷ 16 - 17, khi nền sản xuất được cơ
khí hoá tại các nước tư bản như Anh, Pháp, Đức… Đặc biệt đến thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20 với sự xuất hiện nền sản xuất lớn của nước Mỹ, ở Liên xô (cũ)
thì công tác ĐTN mới phát triển, hình thành hệ thống dạy nghề với quy mô
lớn và đa dạng. Chính sự phát triển của hệ thống dạy nghề với quy mô ngày
càng lớn và đa dạng trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ - đời sống xã hội đã và đang đặt ra những yêu cầu cấp bách cho
việc nghiên cứu xây dựng các giải pháp quản lý hoạt động đào tạo nghề trong
phạm vi từng quốc gia cũng như ở các vùng, địa phương nhằm định hướng và
sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho phát triển và nâng cao chất lượng ĐTN.
1.1.1. Ở nước ngoài
Để có một đội ngũ lao động kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu của sản
xuất, ngay từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX đã có những công trình đề cập
đến vấn đề này ở các khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, chỉ đến những năm 60,
70 khi cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại bùng nổ với sự chuyến
tiếp từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh tin học, thì trên thế giới
các nhà khoa học sư phạm và sư phạm kỹ thuật mới đầu tư nghiên cứu sâu về
vấn đề này. [8]


8

Theo tác giả Xiao Mingzheng (2008) Trường Đại học Bắc Kinh [31].
Chiến lược của Chính phủ Trung Quốc trong phát triển nguồn nhân lực nói
chung và ĐTN nói riêng tập trung vào các điểm sau:
- Thay đổi quan niệm và hiện thực hoá khái niệm nguồn nhân lực là
nguồn lực hàng đầu.

- Tiếp tục chiến lược “Khoa học và Giáo dục tiếp sức cho Trung Quốc”,
“Giáo dục kiến lập Trung Quốc” và xây dựng một xã hội học tập .
- Mở rộng đầu tư và làm nhiều biện pháp để phát triển nguồn nhân lực.
- Cải thiện cơ cấu thông qua phát triển nguồn nhân lực.
- Cải tiến những hệ thống bất hợp lý, hoàn thiện hệ thống thị trường lao
động, tạo ra một môi trường phát triển và sử dụng nguồn nhân lực tốt hơn.
- Thành lập tổ chức phát triển nguồn nhân lực, tăng cường sự ủng hộ và
bảo đảm của Chính phủ trong phát triển nguồn nhân lực.
Tổ chức lao động thế giới (ILO) cũng đã biên soạn và phát hành nhiều
tài liệu về đào tạo và quản lý ĐTN để hỗ trợ cho các nước đang phát triển.
Trong đó có đưa ra hệ thống các quan điểm tổ chức và quản lý ĐTN, quản lý
chiến lược và xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển hệ thống dạy nghề
cùng kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực quản lý và phát triển giáo dục nghề
nghiệp.
Ngoài những công trình đã nêu trên, còn rất nhiều các công trình khác
trên thế giới đề cập đến các nội dung khác nhau về mặt lý luận cũng như thực
tiễn phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng ĐTN, đáp
ứng nhu cầu phát triển KT-XH của các quốc gia.
1.1.2. Ở trong nước
Việc nghiên cứu khoa học có hệ thống về dạy nghề ở Việt Nam được
bắt đầu khi Viện khoa học dạy nghề thuộc TCDN được thành lập năm 1977.
Trong giai đoạn 10 năm từ 1977-1987, Viện đã nghiên cứu các vấn đề thuộc


9

lĩnh vực khoa học dạy nghề, có một số đề tài liên quan đến luận văn như:
"Nghiên cứu chiến lược về dạy nghề đến năm 2000"[10]. “Trong những năm
gần đây, ngành dạy nghề cũng đã phát triển một số nghiên cứu về đổi mới và
phát triển công tác dạy nghề ở nước ta trong giai đoạn 2008 - 2015 trong đó

cũng nêu ra các mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản để phát triển công
tác dạy nghề ở nước ta trong những năm sắp tới”[4]
Những năm qua cũng đã có nhiều công trình khoa học, luận văn, luận
án của nhiều tác giả đã nghiên cứu về quản lý giáo dục nói chung và quản lý
dạy nghề nói riêng …Song việc nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận và phương
pháp xây dựng giải pháp quản lý hoạt động ĐTN cụ thể một trình độ đào tạo
như trung cấp nghề ở cấp tỉnh đang đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1.2.1. Quản lý
Quản lý là một trong những loại hình lao động có hiệu quả nhất, quan
trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là con người
đã nhận thức đúng được quy luật, vận động theo đúng quy luật và sẽ đạt được
những thành công to lớn. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con
người muốn tồn tại và phát triển đều phải dựa vào nỗ lực của cá nhân, của
một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia,
quốc tế đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó [23].
H.Koontz thì lại khẳng định: "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó
đảm bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục
đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường
mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian,
tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất." [15]. v.v….
Các nghiên cứu về quản lý có thể được khái quát theo những khuynh
hướng như sau: Thứ nhất, nghiên cứu theo quan điểm của điều khiển học và lý


10

thuyết hệ thống. Theo đó, quản lý là một quá trình điều khiển, là chức năng của
những hệ có tổ chức với bản chất khác nhau (sinh học, xã hội, kỹ thuật…) nó
bảo toàn cấu trúc, duy trì chế độ hoạt động của các hệ đó. Quản lý là tác động

hợp quy luật khách quan, làm cho hệ vận động, vận hành và phát triển. Thứ
hai, nghiên cứu với tư cách là một hoạt động, một lao động tất yếu trong các tổ
chức của con người. Thứ ba, nghiên cứu với tư cách là một quá trình trong đó
các chức năng được thực hiện trong sự tương tác lẫn nhau. Theo hướng này,
quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các công việc
của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực
phù hợp để đạt được các mục đích xác định.
Theo trên, quá trình quản lý diễn ra các hoạt động cụ thể của chủ thể
quản lý với sự tham gia tích cực của các thành viên trong tổ chức như dự báo,
lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, chỉ đạo lãnh đạo, giám sát, kiểm tra đánh giá,
trong đó các hoạt động trên đan xen nhau, tác động, bổ sung lẫn nhau để hoàn
thiện cả quá trình quản lý.
Từ quan niệm của các học giả đã nêu, chúng ta có thể khái quát: Quản lý
là hoạt động có ý thức của con người nhằm phối hợp hành động của một
nhóm người hay một cộng đông người để đạt được các mục tiêu đề ra một
cách hiệu quả nhất.
Các chức năng cơ bản của quản lý
- Dự báo và lập kế hoạch:
Dự báo và lập kế hoạch nói chung và kế hoạch chiến lược nói riêng là
một chức năng cơ bản của quản lý, trong đó phải xác định những vấn đề như
nhận dạng và phân tính tình hình, bối cảnh; dự báo các khả năng; lựa chọn và
xác định các mục tiêu, mục đích và hoạch định con đường, cách thức, biện
pháp để đạt được mục tiêu, mục đích của quá trình. Trong mỗi kế hoạch
thường bao gồm các nội dung như xác định hình thành mục tiêu, xác định và


11

đảm bảo về các điều kiện, nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu và cuối
cùng là quyết định xem hoạt động nào là cần thiết để đạt được mục tiêu đặt ra.

Sơ đồ 1. Các chức năng cơ bản của quản lý [9]
MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI

MỤC TIÊU CỦA TỔ CHỨC

DỰ BÁO LẬP

TỔ CHỨC

KẾ HOẠCH

NHÀ QUẢN LÝ
CÔNG VIỆC – NHÂN SỰ
CÁC NGUỒN LỰC

KIỂM TRA

CHỈ ĐẠO

ĐÁNH GIÁ

LÃNH ĐẠO

- Tổ chức
Là quá trình tạo lập các thành phần, cấu trúc, các quan hệ giữa các thành
viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành
công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Thành công của
một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý và sử dụng các
nguồn lực của tổ chức. Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng
các bộ phận, các phòng ban cùng các công việc của chúng để thực hiện.

- Lãnh đạo - Chỉ đạo
Bao hàm việc định hướng và lôi cuốn mọi thành viên của tổ chức
thông qua việc liên kết, liên hệ với người khác và khuyến khích, động viên họ
hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Tuy
nhiên, hiểu lãnh đạo không chỉ sau khi lập kế hoạch có tổ chức thì mới có


12

lãnh đạo, mà là quá trình đan xen. Thấm vào và ảnh hưởng quyết định đến các
chức năng kia, điều hòa, điều chỉ các hoạt động của tổ chức trong quá trình
quản lý.
- Kiểm tra, đánh giá
Là chức năng cơ bản của quản lý. Thông qua đó, một cá nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động và tiến
hành những hoạt động sửa chữa uốn nắn cần thiết. Đó là quá trình tự điều
chỉnh, diễn ra có tính chu kỳ từ người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành
đạt của hoạt động, đối chiếu đo lường kết quả, sự thành đạt so với mục tiêu
chuẩn mực đã đặt ra, điều chỉnh những vấn đề cần thiết và thậm chí phải
hiệu chỉnh, sửa lại những chuẩn mực cần thiết.
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về phân loại chức năng, nhưng theo
quan điểm của Tổ chức UNESCO[13], hệ thống chức năng quản lý bao gồm 8
vấn đề sau trong đó có chức năng kế hoạch hóa nói chung và kế hoạch chiến
lược nói riêng :
- Xác định nhu cầu
- Thẩm định và phân tích dữ liệu
- Xác định mục tiêu
- Kế hoạch hóa (bao gồm cả phân công trách nhiệm, phân phối các
nguồn lực, lập chương trình hành động hoặc các kế hoạch chiến lược).
- Triển khai công việc

- Điều chỉnh
- Đánh giá
- Sử dụng liên hệ ngược và tái xác định các vấn đề cho quá trình quản
lý tiếp theo.
Có thể nói, việc xác định các chức năng trong quá trình quản lý không thể
rạch ròi, riêng biệt từng chức năng mà là quá trình đan xen, kết hợp để thực


13

hiện mục tiêu cuối cùng của một quá trình quản lý. Tùy thuộc vào cấp độ
quản lý (vĩ mô-vi mô) và tính chất của tổ chức (nhà nước- doanh nghiệp) mà
các chức năng quản lý có tầm quan trọng và ví trí khác nhau.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một bộ phận của quản lý xã hội. Khái niệm quản lý
giáo dục được hiểu khá rộng trong nhiều phạm vi, từ vĩ mô đến vi mô và cũng
có những định nghĩa khác nhau như sau:
“Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới
khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới
kết quả mong muốn một cách hiệu quả nhất”[13]
“Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm tổ chức điều khiển và quản lý
hoạt động giáo dục của những người làm công tác giáo dục nhằm thực hiện
mục tiêu kế hoạch giáo dục đặt ra”.[19]
Trong quản lý giáo dục, mục tiêu quản lý giáo dục là trạng thái được
xác định trong tương lai của đối tượng quản lý hoặc của một số yếu tố cấu
thành nó.
Khi nghiên cứu về mục tiêu quản lý giáo dục cũng cần phải hiểu rõ về
đối tượng quản lý giáo dục hoặc các yếu tố cấu thành nó. Lý luận và thực tế
quản lý cho thấy có thể xác định đối tượng ở hai cấp: ở cấp quản lý cơ sở và ở

cấp quản lý vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục). Trong giáo dục, trường học là
cấp cơ sở, mỗi trường học là một tế bào của hệ thống giáo dục, nên trường
học là đối tượng quản lý ở cấp cơ sở. Tập hợp các trường học ở các cấp học,
ngành học khác nhau tạo thành hệ thống các trường học, hệ thống các trường
học lại được quản lý về mặt hành chính, do đó sự nghiệp giáo dục trên mỗi
địa bàn là đối tượng quản lý đối với các cơ quan quản lý giáo dục các cấp.
Một trong những nội dung cơ bản về quản lý nhà nước trong giáo dục nói


14

chung và dạy nghề nói riêng là xây dựng chính sách, quy hoạch, chiến lược
phát triển dạy nghề trong phạm vi cả nước và từng ngành, địa phương trong
các giai đoạn nhất định.
Các nguyên tắc quản lý giáo dục:
Các nguyên tắc quản lý giáo dục là những tiêu chuẩn, quy tắc cơ bản,
nền tảng, những yêu cầu, những luận điểm cơ bản cần phải tuân theo trong
tổ chức và hoạt động của chủ thể quản lý giáo dục nhằm đạt được mục tiêu
đề ra.
Những nguyên tắc cơ bản của quản lý giáo dục ở nước ta là:
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong
quản lý giáo dục.
Đây là nguyên tắc cơ bản hàng đầu của quản lý giáo dục. Nguyên tắc
này xuất phát từ chỗ nền giáo dục XHCN Việt Nam là một bộ phận của sự
nghiệp cách mạng XHCN Việt Nam. Đảng CSVN là lực lượng duy nhất lãnh
đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội [17]
Nguyên tắc này đòi hỏi:
Mọi chủ trương, chính sách giáo dục đề ra phải phục vụ đường lối và
nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn, đồng thời khi xem xét, đánh giá kết
quả, ảnh hưởng của một chủ trương chính sách giáo dục phải đứng vững trên

lập trường và quan điểm của Đảng, căn cứ vào lợi ích của toàn thể nhân dân
lao động.
Mọi chủ thể quản lý giáo dục phải nắm vững, quán triệt các quan điểm
của Đảng về giáo dục, nghiêm túc, kiên trì tổ chức thực hiện đường lối giáo
dục của Đảng, biến đường lối đó thành hiện thực. Nội dung, phương pháp và
tổ chức giáo dục phải đảm bảo nguyên lý giáo dục của chủ nghĩa Mác-Lênin
và đường lối chính sách giáo dục của Đảng.


15

Trong các nhà trường phải tổ chức và lãnh đạo tốt việc giáo dục đường
lối, chính sách của Đảng và đạo đức cách mạng cho học sinh, nâng cao trình
độ giác ngộ XHCN cho giáo viên và nhân viên trong trường, tổ chức cho học
sinh và giáo viên tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương.
Người đứng đầu cơ quan quản lý giáo dục các cấp tôn trọng sự lãnh
đạo của tổ chức cơ sở Đảng theo những qui định của Điều lệ Đảng, mặt khác,
người quản lý phải quan tâm xây dựng chi bộ Đảng và các đoàn thể quần
chúng trong đơn vị công tác, phát huy ảnh hưởng chính trị của các tổ chức đó
trong toàn đơn vị.
Giáo dục, nhà trường không đứng ngoài chính trị, mà phục vụ chính trị,
nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng CSVN đã và đang là nguyên tắc cơ
bản để giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn trong công cuộc đổi mới quản lý
giáo dục nước ta hiện nay.
Để thực hiện nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong quản lý
giáo dục đòi hỏi mọi chủ thể quản lý phải nghiên cứu nắm vững các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng về giáo dục và có trách nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm
túc trong phạm vi từng đơn vị. Phải làm cho đường lối, chính sách giáo dục
của Đảng trở thành hệ tư tưởng chỉ đạo duy nhất toàn công tác giáo dục.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ:

Tập trung dân chủ nguyên tắc bắt nguồn từ bản chất của chế độ XHCN
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, là nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ hoạt động
quản lý ở nước ta. Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan khác
của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phải thường xuyên
kết hợp sự lãnh đạo tập trung với sự tham gia của quảng đại quần chúng lao
động vào công việc tổ chức quản lý giáo dục.
Nguyên tắc này đòi hỏi thống nhất hai mặt quản lý theo ngành và quản
lý theo lãnh thổ: Một mặt phải tăng cường quản lý tập trung (quyết định các


16

vấn đề trọng yếu) thống nhất (phục tùng lý trí) của nhà nước trung ương (Bộ)
trên qui mô toàn quốc về những vấn đề cơ bản. Mặt khác, phải phát huy mở
rộng tối đa quyền chủ động của các địa phương, các cơ sở giáo dục, của quần
chúng lao động trong việc giải quyết các vấn đề trọng yếu, bằng các phương
pháp, phương tiện đa dạng sáng tạo.
Nguyên tắc tập trung dân chủ với vấn đề phân cấp quản lý trong giáo
dục là: một đặc trưng quan trọng của nguyên tắc này là sự phân cấp quản lý
thích hợp, vấn đề phân cấp quản lý còn liên quan tới nguyên tắc kết hợp giữa
quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ. Bản chất của việc phân cấp quản
lý là sự ủy quyền từ cấp quản lý cao hơn cho cấp quản lý thấp hơn. Sự ủy
quyền này kèm theo những vấn đề tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
thẩm quyền của mỗi cấp.
- Tăng cường pháp chế XHCN là một nguyên tắc quan trọng tổ chức và
hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Điều 12 Hiến pháp 1992 khẳng định:
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế
XHCN.
Các cơ quan quản lý giáo dục phải tuân thủ qui chế quản lý hành chính
của bộ máy nhà nước. Điều đó có nghĩa là: Cơ quan quản lý nhà nước về giáo

dục phải là một cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo, có đủ thẩm quyền thực thi quyền quyền hành pháp để thực
hiện quản lý với tư cách là bộ máy nhà nước.
Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi công tác tổ chức và hoạt động của các cơ
quan quản lý giáo dục, của mọi chủ thể quản lý giáo dục phải tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật, chống sự lạm quyền, lẩn tránh nghĩa vụ.
- Nguyên tắc kết hợp nhà nước và xã hội: Xuất phát từ luận điểm: giáo
dục là sự nghiệp của toàn dân, nguyên tắc này giữ vai trò quan trọng trong
quản lý giáo dục. Đặc điểm quan trọng của hệ thống quản lý giáo dục là sự


17

tham gia ngày càng tăng của quần chúng lao động, của các tổ chức xã hội vào
xây dựng và quản lý nhà trường, vào xây dựng và quản lý giáo dục với những
hình thức và phương pháp hoạt động khác nhau.
Nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp quản lý giáo dục mang tính chất
nhà nước với quản lý giáo dục mang tính chất xã hội.
Quản lý có tính chất nhà nước là hoạt động có tính chỉ huy - chấp hành,
căn cứ vào việc thực hiện luật pháp và các chuẩn mực nhà nước pháp quyền
trong quá trình giải quyết các nhiệm vụ giáo dục và chủ thể quản lý là cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục các cấp.
Quản lý có tính chất xã hội là hoạt động của các đoàn thể quần chúng
nhân dân, các tổ chức xã hội thực hiện các chức năng xã hội nhất định, độc
lập hoặc cộng tác với các cơ quan nhà nước, dựa vào các chuẩn mực, điều lệ
của các tổ chức xã hội và sức mạnh tác động về sự đồng thuận trong xã hội
công dân.
Quản lý giáo dục có chức năng dự báo, luôn có sự thích ứng với nền
kinh tế - xã hội, thực hiện xã hội hóa giáo dục, đa dạng hóa nền giáo dục quốc
dân là đòi hỏi của nguyên tắc này trong giai đoạn hiện nay.

- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương,
vùng, lãnh thổ.
Thực tiễn hoạt động của hệ thống giáo dục quốc dân đòi hỏi sự quản lý
nhà nước trong lĩnh vực giáo dục phải tuân theo nguyên tắc kết hợp quản lý
theo địa phương, vùng, lãnh thổ.
Đặc trưng quản lý theo ngành là dựa trên cơ sở quá trình tích tụ và tập
trung các nguồn lực, đặc biệt là vốn tài chính và trí tuệ. Nhờ điều kiện này,
các đơn vị cơ sở của ngành có điều kiện tích tụ, tập trung chuyên môn hóa,
nâng cao trình độ công nghệ, tài năng nghề nghiệp của cán bộ giáo viên có
điều kiện và khả năng quản lý tốt nhất đảm bảo không ngừng nâng cao chất


18

lượng giáo dục, tay nghề, quản lý vươn lên đạt trình độ cao. Quản lý theo
ngành có điều kiện tuyển chọn, đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ
cán bộ giáo viên và các nhà quản lý có trình độ cao. Đồng thời nhờ vào quá
trình tích tụ và tập trung theo ngành mà mỗi đơn vị của ngành có thể tận dụng
khai thác tốt nhất mọi tiềm năng của ngành để phát triển, nâng cao trình độ,
sớm hội nhập với khu vực và quốc tế. Mặt khác, chính nhờ quản lý theo
ngành mới tạo điều kiện phân bố hợp lý để khai thác và phát huy thế mạnh
của ngành ở từng địa bàn đạt đến trình độ hiệu quả chung toàn ngành ngày
càng cao hơn. Nhờ quản lý theo ngành mà có điều kiện khai thác tốt nhất tài
năng trí tuệ của các nguồn nhân lực ở phạm vi rộng hơn.
- Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học:
Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học là một nguyên tắc cơ bản của quản
lý giáo dục. Nguyên tắc này không chỉ đòi hỏi quản lý giáo dục phải xây dựng
trên hệ thống tri thức sâu rộng, trên sự tổng kết quá trình phát triển của lý luận
quản lý, mà phải nhận thức được những qui luật khách quan của giáo dục,
nghiên cứu những qui luật để đó sử dụng trong hoạt động thực tiễn quản lý

giáo dục.
Hoạt động quản lý giáo dục nói chung và quản lý nhà trường nói riêng
là hoạt động mang tính chất tổng hợp cao. Nó không chỉ dựa vào kinh nghiệm
mà phải am hiểu tri thức của nhiều ngành khoa học và sự hiểu biết sâu sắc về
lĩnh vực lý luận quản lý.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực và cụ thể:
Chất lượng giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả quản lý. Hiệu
quả quản lý giáo dục được tính trên cơ sở thực hiện các mục tiêu với những
chi phí nhất định về các nguồn lực cho phép sao cho đạt kết quả cao nhất với
mức chi phí thấp nhất.


19

Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người cán bộ quản lý giáo dục khi
đưa ra các quyết định quản lý cần tính đến hiệu quả của chúng và đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn. Mọi hoạt động giáo dục trong nhà trường và mọi
quyết định đưa ra thực hiện đều phải được kiểm tra một cách chu đáo làm cơ
sở cho việc đề ra các quyết định quản lý đúng đắn.
Việc nắm sâu sát tình hình giáo dục, phát hiện, phân tích tổng kết và
phổ biến những kinh nghiệm giáo dục tiên tiến là những nhu cầu chủ yếu của
tính cụ thể và thiết thực trong công tác quản lý.
- Nguyên tắc tính kế hoạch:
Hoạt động quản lý nói chung luôn đòi hỏi phải đảm bảo tính kế hoạch,
kế hoạch là chức năng đầu tiên của quản lý, trong mọi hoạt động quản lý đều
vạch ra kế hoạch.
Kế hoạch cụ thể hoá chiến lược, sách lược phát triển giáo dục, biến
chúng bằng hành động. Nó định rõ, các hoạt động thời gian đạt được các mục
tiêu cần đạt, và cả các biện pháp thực hiện.
Nguyên tắc này đòi hỏi quản lý giáo dục phải có một hệ thống kế hoạch

chính xác, phù hợp với trình độ, yêu cầu quản lý hiện đại.
Nguyên tắc kế hoạch trong tổ chức và hoạt động của quản lý giáo dục
có ý nghĩa rất lớn, vì nó đảm bảo phát triển nền giáo dục theo những mục tiêu
mà Đảng và nhà nước đã vạch ra, cho phép sử dụng các nguồn lực của đất
nước một cách có hiệu quả nhất vào quá trình phát triển giáo dục. Quản lý mà
không đảm bảo tính kế hoạch là quản lý không khoa học, quản lý thiếu định
hướng rõ ràng, cụ thể và như vậy hiệu quả quản lý sẽ rất hạn chế.
1.2.3. Quản lý đào tạo nghề
Quản lý đào tạo nghề là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý trong hệ thống
đào tạo nghề nhằm đạt được mục tiêu đề ra.


20

Dựa vào phạm vi quản lý có thể chia ra hai loại hình quản lý:
- Quản lý hệ thống dạy nghề: quản lý diễn ra ở tầm vĩ mô, trong phạm
vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương và các ngành( còn hiểu là quản
lý Nhà nước)
- Quản lý cơ sở dạy nghề: quản lý ở tầm vi mô, trong phạm vi một
CSDN
Những đặc điểm của quản lý đào tạo nghề:
- Quản lý con người: đào tạo nghề là quá trình giáo dục chuyên
nghiệp, vì vậy đây cũng là loại hình quản lý con người.
- Quản lý cơ sở vật chất: đào tạo nghề dựa trên hạ tầng vật chất-kĩ
thuật chuyên biệt, thậm chí rất chuyên biệt ở từng ngành, nghề hay chuyên
môn. Vì vậy quản lý yếu tố này trong đào tạo nghề có đặc điểm rất khác với
quản lý cơ sở vật chất - kỹ thuật ở trường phổ thông.
- Đa dạng loại hình nghề: đào tạo nghề thường bao quát nhiều loại
hình nghề và chuyên môn chứ không đơn giản là các môn học, đặc biệt là

những hình thức đào tạo thực hành thì rất phong phú.
- Đa dạng kiến thức và kỹ năng: nội dung đào tạo nghề rất phong phú
về kiến thức và kỹ năng, không chỉ trong một trường, một ngành, một
nghề, mà ngay trong cả một chuyên môn.
Nội dung quản lý đào tạo nghề:
- Quản lý chương trình đào tạo nghề.
- Quản lý cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nghề.
- Quản lý nhân sự và tổ chức, sử dụng, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ cán bộ, giáo viên dạy nghề.
- Quản lý hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh
trong trường nghề, bao gồm cả những hoạt động học ngoại khóa.
- Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo nghề, cấp


21

văn bằng, chứng chỉ.
- Quản lý các hoạt động giáo dục ngoài dạy học trong khuôn khổ các
đoàn thể xã hội của trường.
Các thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ và có tác động qua lại lẫn
nhau. Để thực hiện có hiệu quả công tác quản lý ĐTN cần tiến hành các bước
theo quy trình như quản lý giáo dục: kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra,
đánh giá.
Trong quá trình quản lý, các yếu tố trên luôn luôn vận động và tác động
qua lại lẫn nhau làm nảy sinh những tình huống quản lý. Nhà quản lý phải
thường xuyên theo dõi, đánh giá, xử lý các sai lệch để kịp thời điều chỉnh
nhằm làm cho công tác giáo dục - đào tạo phát triển liên tục.
Nhiệm vụ của quản lý ĐTN chính là ổn định, duy trì công tác đào tạo
đáp ứng nhu cầu của nền KT-XH trong từng giai đoạn phát triển của đất nước
và đổi mới phát triển quá trình đào tạo đón đầu những tiến bộ khoa học kỹ

thuật đem lại hiệu quả kinh tế - chính trị - xã hội.
1.2.4. Đào tạo nghề
Đào tạo nghề: Là quá trình phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng,
kỹ xảo và thái độ nghề nghiệp cho người học. ĐTN nhằm hướng vào hoạt
động nghề nghiệp và hoạt động xã hội. Mục tiêu ĐTN là động thái phát triển
nhân cách được dự kiến trên cơ sở yêu cầu phát triển kinh - tế xã hội và được
hiểu là chất lượng cần đạt tới đối với người học sau quá trình đào tạo[19].
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau, đó là:
Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý
thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp[19].
Học nghề: Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực
hành của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định[19].


22

ĐTN cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao
động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn. Đào tạo nghề bao gồm: Đào
tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí, điện tử, xây dựng, sửa chữa...) và
phổ cập nghề cho người lao động (chủ yếu là lao động nông thôn).
Cơ sở đào tạo nghề: Là cơ sở hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến
thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể
tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học.Cơ sở
dạy nghề theo Luật Dạy nghề qui định bao gồm các trường cao đẳng nghề ,
trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, các lớp dạy nghề.
Với sự phát triển phong phú và đa dạng của ĐTN cũng như nhu cầu rất
đa dạng của người học và của thị trường lao động, ngày nay đang tồn tại 3
loại hình đào tạo nghề là đào tạo chính quy, đào tạo không chính quy và đào
tạo phi chính quy. Các loại hình đào tạo này được nhìn nhận như sau:

Đào tạo chính quy là loại hình đào tạo được thực hiện với chương trình
đào tạo được quy định, khi người học tốt nghiệp một khoá đào tạo theo một
chương trình nào đó có thể tiếp tục theo học chương trình đào tạo có trình độ
cao hơn của hệ thống giáo dục quốc dân.
Đào tạo không chính quy là loại hình đào tạo được thực hiện với các
chương trình đào tạo thiết kế theo nhu cầu của người học hoặc người sử dụng
lao động mà khi học xong chương trình này người học có thể không được
thừa nhận để tiếp tục học trình độ cao hơn của hệ thống giáo dục quốc dân.
Đào tạo phi chính quy là hình thức đào tạo nhằm hình thành một số
năng lực cho người lao động, không theo một chương trình được quy định
nào.
Với đặc điểm của đào tạo nghề, thực hành là chủ yếu, quá trình đào tạo
có thể được thực hiện tại trường, tại cơ sở sản xuất hoặc liên kết giữa trường


23

và cơ sở sản xuất. Tùy thuộc vào trình độ cần đào tạo, trình độ tuyển sinh
cũng như thời gian đào tạo có khác nhau.
Đào tạo nghề có các hình thức sau:
Đào tạo ngắn hạn là loại hình ĐTN có thời gian đào tạo dưới một năm
chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề.
Đào tạo dài hạn là loại hình ĐTN có thời gian đào tạo từ một năm trở
lên, áp dụng đào tạo đối với cao đẳng và trung cấp nghề.
Đào tạo mới là loại hình ĐTN áp dụng cho những người chưa có nghề,
để đáp ứng yêu cầu tăng thêm lao động có nghề.
Đào tạo lại là quá trình ĐTN áp dụng với những người đã có nghề
song nghề hoặc chuyên môn của họ không còn phù hợp nữa.
Đào tạo nâng cao Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc

phức tạp hơn.
1.2.5. Trình độ đào tạo nghề
Theo UNESCO, nghề là những công việc trí óc hoặc tay chân mà
người lao động có thể thực hiện để kiếm sống. Người lao động có thể tự
sử dụng mình hoặc được người khác sử dụng trong khi hành nghề.
Quan niệm về ĐTN ngày nay phải được hiểu rộng hơn do những biến
động của khoa học và công nghệ. “Cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra
bước ngoặt cơ bản biến đổi toàn bộ những yếu tố của lực lượng sản xuất, đề
ra những yêu cầu ngày càng cao đối với thành phần và phẩm chất lực lượng
lao động, quy định tính tất yếu phải đào tạo những công nhân phát triển toàn
diện, có tay nghề cao” [14]
Người công nhân, nhân viên nghiệp vụ không chỉ biết thực hiện nhiệm
vụ, công việc đơn thuần mà còn phải có khả năng thực hiện chúng một cách
sáng tạo, chỉ như vậy mới có nhiều cơ hội tìm được việc làm. Vì vậy, người


24

học phải có năng lực thích ứng với những thay đổi, sáng tạo và có khả năng
nắm bắt thông tin, năng lực sáng tạo thể hiện ở tính thích ứng với thay đổi,
khả năng nắm bắt và xử lý thông tin. Lĩnh vực sáng tạo luôn là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa bàn tay và khối óc, đặc biệt trong một số ngành nghề mới,
kỹ thuật cao, người thợ phải được đào tạo ở trình độ cao hơn. Rất rõ ràng việc
thiếu lao động kỹ thuật có trình độ cao là khoảng trống trong cơ cấu nhân lực
hiện nay bắt nguồn từ quan điểm không đúng, không đầy đủ về ĐTN.
ĐTN phải xác định rõ khả năng thích ứng linh hoạt với công nghệ trong
sản xuất. Việc áp dựng công nghệ tiên tiến đã làm thay đổi yêu cầu về kỹ
năng nghề cũng như yêu cầu đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao cho người lao
động trong quá trình làm việc. Thực tế đòi hỏi phải áp dụng kỹ thuật và công
nghệ trong sản xuất ngày càng cao, tất yếu dẫn đế những yêu cầu khắt khe,

nghiêm ngặt về chất lượng.
Nếu ĐTN chỉ chủ yếu tập trung vào nội dung kỹ thuật thì sẽ là sai lầm
nghiêm trọng, ĐTN còn phải chú trọng đến những khía cạnh năng lực phân
tích và năng lực xã hội, như làm thế nào để giải quyết một vấn đề (về mặt
phương pháp) và làm thế nào để lao động có hiệu quả trong một nhóm (khía
cạnh xã hội). Hiện nay các nhà cung cấp và sử dụng công nghệ tiến tiến nhận
thức được rằng, việc thu hút công nhân, nhân viên lành nghề kỹ thuật cao
ngày càng trở nên khó khăn hơn. Để giải quyết vấn đề này các cơ sở đào tạo
cần phối hợp với doanh nghiệp cùng tham gia quá trình thiết kế nội dung và
tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, cùng sử dụng cơ sở vật chất và cùng
chia sẻ kết quả đào tạo.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về chất lượng, song qua nghiên cứu
những quan niệm khác nhau đi đến kết luận: Trình độ đào tạo được xác định
bởi mức độ phức tạp của lao động chân tay và lao động trí óc. Phạm vi các


25

kiến thức, các khả năng và kỹ năng cần có để thực hiện các công việc với các
mức độ phức tạp khác nhau.
- Đối với các nước Đông Âu:
Phân loại trình độ chuyên môn trên cơ sở mức độ phức tạp của lao
động chân tay và trí óc. Phạm vi các kiến thức, các khả năng và kỹ năng có
thể thực hiện các loại lao động và các mức độ phức tạp khác nhau được phân
loại thành 4 trình độ chuyên môn như sau:
+ Trình độ I: Công nhân tiếp thu hiểu biết qua người trực tiếp chỉ đạo
mình. Công nhân này gọi là công nhân qua kèm cặp hoặc công nhân không qua
đào tạo.
+ Trình độ II: Công nhân đã tốt nghiệp một khoá đào tạo của trường
dạy nghề, đã qua một kỳ kiểm tra chuyên môn được gọi là công nhân được

đào tạo ít.
+ Trình độ III: Công nhân đã đỗ kỳ thi tốt nghiệp khoá đào tạo công
nhân (kỳ thi để trở thành công nhân chuyên nghiệp) là công nhân đã được đào
tạo hoặc công nhân có trình độ chuyên môn.
+ Trình độ IV: Công nhân đã có chuyên môn, đã qua một khoá đào tạo,
nâng cao trình độ được gọi là công nhân có trình độ chuyên môn cao.
- Đối với các nước phát triển: phân loại cấp độ đào tạo như sau:
+ Công nhân bán lành nghề: Công nhân tại cấp độ này có một số kỹ
năng cơ bản nhất định. Nhiệm vụ của họ là thực hiện hoạt động có tính lặp lại
và thực hiện công việc được phân công khi có người giám sát.
+ Công nhân lành nghề: Công nhân tại cấp độ này có thể làm việc trong
những điều kiện phù hợp với tiêu chuẩn nhất quán. Nhiệm vụ của họ là biết
sử dụng các dụng cụ cầm tay và các thiết bị khác, hướng dẫn di chuyển hoặc
xếp đặt máy móc thiết bị hoặc nguyên vật liệu, quyết định quy trình làm việc
tuân theo các tiêu chuẩn hiện hành.


×