Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Một số giải pháp quản lí công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường đại học Vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.96 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------

ĐẶNG THỊ BÍCH HẠNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ CƠNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGHỆ AN – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
-----------------

ĐẶNG THỊ BÍCH HẠNH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÍ CƠNG TÁC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO
SINH VIÊN SƯ PHẠM TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Chuyên ngành: Quản lí giáo dục
Mã số : 60.14.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS. THÁI VĂN THÀNH

NGHỆ AN – 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành luận văn này, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
- Thầy giáo PGS.TS. Thái Văn Thành – Phó Hiệu trưởng trường Đại học
Vinh, đã giao đề tài, tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi
nghiên cứu và hồn thành luận văn này.
- Lãnh đạo Phịng Sau Đại học, Ban chủ nhiệm Khoa Giáo dục, cùng các thầy
giáo, cơ giáo thuộc Bộ mơn Quản lí Giáo dục trường ĐH Vinh đã giúp đỡ, tạo mọi
điều kiện thuận lợi nhất cho tơi hồn thành luận văn này.
Tơi cũng xin cảm ơn tất cả những người thân trong gia đình, Ban giám hiệu
Trường Đại học Vinh, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện luận văn này.
Nghệ An, tháng 10 năm 2013

Đặng Thị Bích Hạnh


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Quản lí giáo dục

QLGD


Quản lí nhà trường
Giáo dục

QLNT

Đạo đức
Đạo đức nghề nghiệp
Giáo dục đạo đức nghề nghiệp
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm

GD
ĐĐ
ĐĐNN
GDĐĐNN
RLNVSP


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Phát triển nguồn lực con người là phát triển đức và tài, hai mặt của nhân cách mà
nhà trường giữ vai trị quan trọng trong sự hình thành nhân cách. “Mục tiêu giáo dục là
đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện có đạo đức, tri thức, sức khỏe thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Điều 2 Luật Giáo dục của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa

Việt Nam 2012).
Giáo dục và đào tạo là một hoạt động có tở chức của xã hội, nhằm bồi dưỡng và
phát triển các phẩm chất và năng lực con người cho mỗi công dân (cả về tư tưởng, đạo
đức, khoa học, sức khoẻ và nghề nghiệp). Trong quá trình giáo dục ở nhà trường,
nhiệm vụ giáo dục tri thức luôn phải gắn với nhiệm vụ giáo dục đạo đức. Thông qua
“dạy chữ” để “dạy người”, giáo dục đạo đức là một khâu then chốt để giáo dục nhân
cách con người. Đạo đức là tổng hợp các qui tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối quan hệ giữa
con người với nhau trong một cộng đồng, một xã hội nói chung. Cho dù ở giai đoạn
nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng tới cái thiện, chống lại cái ác,
hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã
hội, đồng thời cũng khẳng định sự tu dưỡng, tự giáo dục của chính mỗi cá nhân. Trong
nền giáo dục từ xa xưa, ông cha ta vẫn rất đề cao và coi trọng giáo dục đạo đức của
con người. “Tiên học lễ, hậu học văn”, phải chăng “lễ” là đức dục, là nền tảng cho sự
phát triển và tài năng của con người. Lúc sinh thời Hồ Chủ Tịch rất quan tâm đến vấn
đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ. Bác nói: “Có đức mà khơng có tài thh ì
làm việc gì cũng khó, có tài mà khơng có đức là người vơ dụng’’. Bác cũng chỉ rõ
“Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là
cái gốc rất quan trọng. Cơng tác giáo dục đạo đức trong trường học là một bộ phận
quan trọng có tính chất nền tảng của nhà trường XHCN”. Như vậy Đức và Tài là hai
phạm trù cơ bản để đánh giá nhân cách của một con người. Cho nên để phát triển nhân
cách phải hình thành, rèn luyện phẩm chất đạo đức, giá trị đạo đức phù hợp.

1


Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội Đại
biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ phương hướng phát triển giáo dục – đào
tạo giai đoạn 2011 – 2015 và chiến lược phát triển giáo dục 2011 - 2020 nhằm đáp
ứng u cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là ‘‘... nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách

mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp,
ý thức trách nhiệm xã hội,… Đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu phát triển của xã
hội; có cơ chế và chính sách thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp với
cơ sở đào tạo. Xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực cho các
ngành, lĩnh vực mũi nhọn, ...nâng cao tỉ lệ lao động qua đào tạo’’.
Để phát triển giáo dục và đào tạo đạt hiệu quả cao, trước tiên phải nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên. Giáo viên ở bất cứ cấp học nào, bậc học nào cũng là người
giữ trọng trách trước một thế hệ. Theo G.S -V.S Phạm Minh Hạc: “Giáo viên là nhân
tố quyết định chất lượng giáo dục và nhân cách người thầy giáo là một nhân tố đảm
bảo chất lượng giáo dục. Sứ mệnh ấy đặt lên vai người thầy giáo, địi hỏi người thầy
khơng những phải có vốn kiến thức phong phú, sâu rộng mà cịn phải có phẩm chất
đạo đức trong sáng để xứng đáng là người dẫn đường trên con đường dạy học và giáo
dục”.. Việc hình thành những phẩm chất đạo đức của người thầy giáo cho sinh viên là
một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của nhà trường sư phạm cần được quan tâm
ngay từ khi họ bước vào trường vì: “Tri thức có thể có được bằng cách luyện cấp tốc
trong một thời gian ngắn nhưng phẩm chất kĩ năng nghề nghiệp thì khơng thể có được
trong ngày một ngày hai, ... Những phẩm chất đó muốn có phải được tở chức giáo dục
chặt chẽ ngay từ khi sinh viên mới bước vào trường”[11].
Luật giáo dục của nhà nước ta xác định nội dung giáo dục là: “Phải tập trung vào
đào tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức nhằm đạt mục tiêu người lao
động vừa có kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, vừa có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp”.
Với những ý nghĩa trên, nghề dạy học đòi hỏi rất cao yêu cầu về cả phẩm chất và
năng lực, người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Chính vì thế
những sinh viên sư phạm, những người thầy, cô giáo trong tương lai cần phải học tập,
rèn luyện để có những phẩm chất đạo đức, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu, nhiệm
vụ của người giáo viên trong giai đoạn cách mạng mới.
2


1.2. Về mặt thực tiễn

Trong xu thế hội nhập quốc tế, trong xu hướng tồn cầu hố diễn ra trên mọi mặt
của đời sống xã hội đã có ảnh hưởng tích cực đến tầng lớp sinh viên. Một bộ phận lớn
sinh viên đã nhận thức đúng đắn việc học tập và tu dưỡng đạo đức. Tuy nhiên cùng với
xu hướng hội nhập, mặt trái của nó cũng len lỏi, xâm nhập vào tầng lớp sinh viên,
khiến cho một bộ phận sinh viên sa sút về đạo đức, mờ nhạt về lí tưởng và hồi bão
ước mơ... Những tệ nạn xã hội đã gây khơng ít tác hại đối với sinh viên làm ảnh hưởng
tới chất lượng, uy tín của các nhà trường sư phạm. Thực tế công tác giáo dục- đào tạo
ở các trường sư phạm chưa được quan tâm đúng mức. Việc giáo dục đạo đức cho sinh
viên mặc dù đã được chú ý nhưng chưa đổi mới thường xuyên, nội dung nghèo nàn,
thực hiện chưa đồng bộ. Quá trình đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm nói chung
và trường Đại học Vinh nói riêng cũng nặng về trang bị, cung cấp kiến thức khoa học
chưa chú ý rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp và những phẩm chất đạo đức của người giáo
viên. Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên, các trường sư phạm
cần quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên thông qua
các mơn học. Muốn dạy học tốt trước hết phải có tâm hồn đẹp. Tu dưỡng về nghề căn
bản nhất và cũng gian khở là luyện tâm hồn. Khơng có tâm hồn đẹp khó dạy học sinh
thành cơng. Q trình luyện tâm hồn phải song song với quá trình luyện tay nghề. Nói
cách khác “hồng thắm” phải tiến hành cùng lúc với “chuyên sâu”.
Trường Đại học Vinh là một trong 16 trường được Chính phủ đầu tư xây dựng
thành trường đại học trọng điểm quốc gia, có uy tín của cả nước - nơi cung cấp phần
lớn nguồn nhân lực cho sự phát triển giáo dục, kinh tế - xã hội của vùng. Trong sự
phát triển đa ngành của nhà trường, đào tạo sư phạm vẫn được coi là ngành thương
hiệu của nhà trường với truyền thống hơn 50 năm đào tạo bậc đại học sư phạm. Hiện
tại, Trường Đại học Vinh đang đào tạo bậc đại học hệ chính quy và hệ vừa làm vừa
học (trước đây gọi là hệ tại chức). Sinh viên Trường Đại học Vinh đến từ hơn 50 tỉnh
thành trong cả nước và nhiều nước trong khu vực (chủ yếu là Trung Quốc, Lào, Thái
Lan,...). Trải qua hơn nửa thế kỷ xây dựng và phát triển, Trường Đại học Vinh đã đào
tạo được hơn 70.300 giáo viên, cử nhân khoa học, kỹ sư. Với quy mô phát triển lớn
mạnh đó, trong đó sự phát triển của sinh viên sư phạm là nịng cốt trong nhà trường,
thì việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên của trường nói chung và sinh viên


3


sư phạm ngành nói riêng là rất cần thiết. Là một người trực tiếp đảm nhận cơng việc
quản lí sinh viên khoa Tốn học, tơi ln nhận thức được vai trị quan trọng trong việc
hình thành nhân cách cho sinh viên, đào tạo sinh viên vừa có kiến thức và trình độ
chun mơn nghiệp vụ cao, vừa phải có đạo đức tốt. Đặc biệt là giúp các giáo sinh yên
tâm với nghề mình đã chọn, để họ có thể trở thành những thầy, cơ giáo giảng dạy vừa
có Đức, vừa có Tài, gắn bó cả đời mình với sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu “Một số giải pháp quản lý
công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường Đại học
Vinh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm trường Đại học Vinh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
của nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên
sư phạm.
32. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp quản lí cơng tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số giải pháp có tính khoa học và khả thi, thì có thể nâng
cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
trường Đại học Vinh
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp
cho sinh viên sư phạm.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp

cho sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh.
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh.
6. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh.

4


7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tơi sử dụng các nhóm phương pháp
nghiêu cứu chủ yếu sau đây:
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Tập hợp, phân loại tài liệu,
nghiên cứu các tài liệu, văn bản của Đảng, của Nhà nước, của ngành giáo dục và các
luận văn, luận án có liên quan để tổng thuật, xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, điều tra tình hình
thực tiễn, đàm thoại, phỏng vấn, thu thập thông tin, hỏi ý kiến chuyên gia.
7.3. Nhóm các phương pháp thống kê tốn học: Xử lý số liệu.
8. Đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về quản lí cơng tác giáo
dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Vinh
- Luận văn cũng khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục đạo
đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh, chỉ ra những ưu điểm và
những bất cập, tồn tại của công tác này trong thời gian qua.
- Trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn tại trường Đại học Vinh, luận văn đề xuất
một số giải pháp có tính khoa học và khả thi về việc quản lí cơng tác giáo dục đạo đức
nghề nghiệp cho sinh viên, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức nghề nghiệp và
giáo dục toàn diện của trường.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm.
Chương 2: Thực trạng quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm trường Đại học Vinh.
Chương 3: Một số giải pháp quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm trường Đại học Vinh.

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA QUẢN LÝ CƠNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ
NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trên thế giới
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội được hình thành rất sớm trong lịch sử phát
triển nhân loại và được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Trong bất cứ
xã hội nào, thời đại nào cũng đều tồn tại mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa
cá nhân với xã hội. Tuỳ theo trình độ phát triển xã hội mà những lợi ích của cá nhân
phù hợp ít hay nhiều với lợi ích của xã hội. Giáo dục đạo đức cho con người là vấn đề
đã được đặt ra từ xa xưa và ln được đởi mới để thích ứng với thực tiễn của thời đại.
Khổng Tử (551- 479) là người sáng lập ra thuyết đạo đức của Nho giáo. Theo ông
Nhân- Nghĩa là giường cột của đạo đức, nhân nghĩa được đánh giá theo hành vi. Bàn về
vấn đề vai trò của Nho giáo đối với đời sống xã hội và giáo dục, tác giả Quang Đạm đã
viết: “Nho giáo đã có những cố gắng to lớn bền bỉ, có những cống hiến tích cực trong
việc khuyên bảo dạy dỗ cho con người yêu thương đồng loại, cho con người có quan hệ
tốt với nhau: Đạo đức Nhân - Nghĩa- Lễ- Trí - Tín và Hiếu lễ tuy có phần mơ hồ do hạn
chế của những điều kiện lịch sử đương thời, đều biểu thị rõ tinh thần và ý chí tốt lành
thiết tha mong muốn làm cho con người tránh được, bớt được đau khở”[10].

Ở phương tây, trước cơng ngun có nhiều nhà triết học quan tâm đến vấn đề đạo
đức. Nhà triết học Xôcrát (470-399) hướng triết học vào việc giáo dục con người sống
có đạo đức. Ơng cho rằng: “Ngun nhân sâu xa của hành vi có hay khơng có đạo đức
là do nhận thức”. Arixtốt thì xem đạo đức và chính trị là triết học về con người. Đạo
đức là cái thiện của cá nhân, cịn chính trị là cái thiện của xã hội. Sau này trên thế giới
có nhiều triết gia, nhiều nhà giáo dục khác bàn về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức.
Trong đó phải kể đến nhà sư phạm lỗi lạc người Tiệp Khắc J.A.Komenxky (15921670). Theo ông : “ Việc trau dồi đức hạnh cần phải bắt đầu từ lúc còn thơ, trước khi
tâm hồn bị hoen ố” và “ Đức hạnh của người có thể trau dồi được bằng cách ln
ln xử sự chân chính’’. Trong các phương pháp giáo dục sinh động của mình, ơng đề
cao giáo dục động cơ và hành vi đạo đức.

6


Những thập kỉ gần đây, vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhà giáo dục. Có thể kể đến các cơng
trình sau:
- Năm (1977- 1978), trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên của Bungari
trong chương trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên đã đề cập
nhiều đến vấn đề định hướng giá trị cho thanh niên trong đó có giá trị đạo đức.
- Năm 1979 Nhà xuất bản Matxcơva xuất bản cuốn “Giáo dục đạo đức học sinh những vấn đề lí luận” của N.I Bơnđưrép đề cập đến vấn đề lí luận giáo dục đạo đức
cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên.
- Năm (1986 - 1987) theo đề nghị của UNESCO đã có cuộc điều tra quốc tế về
giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI nhằm mục đích nghiên
cứu các vấn đề về giá trị đạo đức và giáo dục về giá trị đạo đức. Đáng kể đến là tài liệu
“Giá trị trong hành động” của trung tâm Canh tân và công nghệ giáo dục thuộc tổ
chức Bộ trưởng Giáo dục Đông Nam Á, xuất bản năm 1992. Tài liệu trình bày về vấn
đề đưa giáo dục giá trị vào nhà trường và cộng đồng các nước Inđơnêxia, Philíppin,
Malaysia và Thái Lan.
1.1.2. Ở Việt Nam

Ở Việt Nam đã có hơn một trăm cuốn sách về giáo dục đạo đức. Nội dung sách
dạy làm người và bổn phận của mỗi người đối với xã hội, cách giao tiếp trong xã hội,
thể hiện qua các tựa đề sách như: Huấn nữ ca ; Thơ dạy làm dâu ; Gia huấn ca ; Phong
hoá tập ; Phong hoá lễ nghi; Tập lễ phép; Phải trái ở đời; Lời mẹ dạy con; Đạo đức và
ln lí; Mấy lời khun học trị…Trong số những tác giả viết loại sách này phải kể đến
cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh.
Cụ Phan Bội Châu khi viết “Khổng đăng học”, cụ đã rút ra 6 tính tốt cần rèn
luyện gọi là lục ngơn: Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương. Trong thời đại ấy việc
giáo dục 6 đức tính đó có tác dụng như sự rèn luyện bản lĩnh cho con người.
Cụ Phan Chu Trinh trong bài “Đạo đức và ln lí” đã tìm ra sức mạnh cho dân
cho nước ở sức mạnh đạo đức, nhân cách, bản lĩnh con người. Theo Cụ từ xưa đến nay
bất cứ dân tộc nào đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng
những thuần nhờ sức mạnh mà thơi mà phải nhờ có đạo đức làm gốc nữa. Nhất là dân

7


tộc nào đã bị té nhào xuống nay muốn đứng lên khỏi bị người ta đi lên trên thì lại phải
có một nền đạo đức vững chắc hơn dân tộc đang giàu mạnh hơn mình.
Sau này, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nghiên cứu về vấn đề đạo đức và giáo
dục đạo đức. Tư tưởng đạo đức của Người cụ thể và gần gũi với mọi đối tượng. Đối
với trẻ thơ, Bác chỉ mong chúng “…biết ăn biết ngủ, biết học hành là ngoan”. Với
thiếu niên, nhi đồng, Bác dạy thành 5 điều. Bác dạy mỗi cơng dân nói chung phải tuân
theo pháp luật, kỉ luật lao động, giữ gìn trật tự, hăng hái lao động sản xuất, tiết kiệm,…
Đối với các chiến sĩ trong quân đội, Bác dạy phải “Trung với nước, hiếu với dân ,
nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng”. Đối với lực lượng công an, Bác dạy thành 6 điều theo 6 mối quan hệ với bản
thân, với đồng sự, với chính phủ, với nhân dân, với cơng việc và với cả kẻ địch. Cịn
đối với người Đảng viên, cán bộ, Bác dạy phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí, cơng, vơ
tư”. Tư tưởng đạo đức của Bác Hồ thật gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện nhưng cũng rất

chặt chẽ, toàn diện và sâu sắc. Bên cạnh đó cũng có một số tác giả khác nghiên cứu về
đạo đức trong mối quan hệ với văn hoá, giá trị truyền thống, lối sống…như Vũ Khiêu,
Trần Ngọc Thêm, Trần Văn Giàu, …
Trong những năm gần đây, vấn đề đạo đức trong xã hội hiện tại và vấn đề giáo
dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho thế hệ trẻ trở thành mối quan tâm của xã
hội. Nhiều nhóm tác giả đã đi sâu nghiên cứu theo các đề tài khoa học cấp nhà nước về
định hướng giá trị, lối sống, đạo đức, … Có thể kể đến một số cơng trình sau:
-“Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” thuộc đề tài khoa
học cấp nhà nước mã số KX- 07- 04(1995). Các tác giả trình bày về hệ thống thang
bậc giá trị, sự hình thành định hướng giá trị nhân cách cũng như việc giáo dục giá trị.
Trong đó khía cạnh phẩm chất đạo đức trong nhân cách được coi là giá trị đích thực,
cao quí của con người, của mỗi cá nhân mà xã hội đang đòi hỏi, mong đợi. Các tác giả
cũng nhấn mạnh phải coi trọng cả việc kế thừa những giá trị truyền thống lẫn giá trị
hiện đại trong việc giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ.
- “Về phát triển toàn diện con người thời kì cơng nghiệp hóa hiện đại hóa” thuộc
đề tài khoa học cấp nhà nước do Giáo sư- Viện sĩ Phạm Minh Hạc chủ trì, mã số
KHXH 04-04(2001). Trong đó dành hẳn một chương (chương7) nói về định hướng
chiến lược xây dựng đạo đức con người Việt Nam, các tác giả trình bày thực trạng đạo
8


đức, nêu rõ mục tiêu giáo dục đạo đức trong giai đoạn hiện nay cũng như việc đề ra
các giải pháp giáo dục đạo đức cho con người Việt Nam thời kì Cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa.
Tóm lại, đã có nhiều cơng trình khoa học trong và ngồi nước đề cập đến vấn đề
giáo dục đạo đức, nhưng nghiên cứu về đạo đức và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm thì rất ít. Đặc biệt trong điều kiện tồn cầu hố, thế giới có nhiều
biến động, sự hội nhập của các nền văn hoá trên thế giới, một số hiện tượng tiêu cực
đang xuất hiện ngày càng nhiều trong ngành giáo dục đã có ảnh hưởng khơng nhỏ tới
một bộ phận sinh viên. Chính vì thế việc nghiên cứu về giải pháp quản lí cơng tác giáo

dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên Sư phạm trường Đại học Vinh là hết sức cần
thiết, và đây cũng là một vấn đề mới mẻ chưa có ai nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lí, quản lí giáo dục, quản lí nhà trường
1.2.1.1. Quản lí
Quản lý là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử
dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của một nhóm người hay một cộng đồng
người để đạt được các mục tiêu đề ra một cách hiệu quả nhất.
Quản lý là một trong những loại hình lao động quan trọng nhất trong các hoạt
động của con người. Quản lý là gì? Người quản lý cần làm gì và làm như thế nào?
Đó là những câu hỏi mà hầu hết những người làm cơng tác quản lý từng tự hỏi ít
nhất một lần.
Quản lý vừa là một nghệ thuật, vừa là một khoa học. Đó là nghệ thuật làm cho
người khác (nhân viên) làm việc hiệu quả hơn những điều bản thân họ sẽ làm được
nếu khơng có bạn. Cịn khoa học chính là cách bạn làm thế nào để thực hiện được
nghệ thuật quản lý. Lên kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và giám sát là bốn điều căn bản
trong khoa học đó.
Quản lý được định nghĩa là một cơng việc mà một người lãnh đạo học suốt đời
không thấy chán và cũng là sự khởi đầu của những gì họ nghiên cứu. Quản lý được
giải thích như là nhiệm vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải là sự khởi
đầu để họ triển khai công việc. Như vậy, có bao nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy
nhiêu kiểu định nghĩa và giải thích về quản lý.

9


Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa nghĩa rộng
và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp nên
quản lý cũng có nhiều giải thích, lý giải khác nhau. Cùng với sự phát triển của phương
thức xã hội hoá sản xuất và sự mở rộng trong nhận thức của con người thì sự khác biệt

về nhận thức và lý giải khái niệm quản lí càng trở nên rõ rệt. Xuất phát từ những góc
độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước theo trường phái quản
lý học đã đưa ra giải thích khơng giống nhau về quản lý. Cho đến nay, vẫn chưa có
một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ thế kỷ 21, các quan niệm về
quản lý lại càng phong phú. Các trường phái quản lý học đã đưa ra những định nghĩa
về quản lý như sau:
- Tailor: "Làm quản lý là bạn phải biết rõ: muốn người khác làm việc gì và hãy
chú ý đến cách tốt nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .
- Fayel: "Quản lý là một hoạt động mà mọi tở chức (gia đình, doanh nghiệp,
chính phủ) đều có, nó gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh
và kiểm sốt. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tở chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm
soát ấy”.
- Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một mơi trường tốt giúp con người
hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó khơng nằm
ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó khơng nằm ở sự logic mà ở thành quả;
quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
- Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi mơi trường bên
ngồi nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý doanh nghiệp, quản
lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
Chủ trương của Peter. F. Dalark là giới hạn doanh nghiệp từ góc độ xã hội, lấy
quản lý làm chức năng chính của doanh nghiệp. Vì thế, quản lý trở thành chức năng và
vai trị của tở chức xã hội, nó cũng sẽ thơng qua các doanh nghiệp góp phần xây dụng
chế độ xã hội mới để đạt được mục tiêu lý tưởng là "một xã hội tự do và phát triển".
Nếu khơng có quản lý hiệu quả thì doanh nghiệp khơng thể tồn tại và từ đó khơng thể xây
dựng một xã hội tự do và phát triển.

10



Ngày nay thuật ngữ quản lý trở nên phổ biến và chưa có định nghĩa thống nhất.
Tuy có nhiều định nghĩa về quản lý khác nhau, song chúng đều có những dấu hiệu chủ
yếu sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định rõ ràng.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giũa hai bộ phận chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
đây là quan hệ ra lệnh – phục tùng, khơng đồng cấp và có tính bắt buộc.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy luật
khách quan.
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý có khả năng thích nghi giữa chủ thể với đối tượng quản lý và ngược lại.
Về Mục tiêu của quản lý: Là cần tạo dựng một môi trường mà trong đó mỗi con
người có thể hồn thành mục đích của mình, của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất
và sự bất mãn cá nhân ít nhất.
Về đối tượng của quản lý: Là các quan hệ quản lý, tức là quan hệ giữa người và
người trong quản lý, quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý.
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đề ra. Sự tác động của quản lý
phải bằng cách nào đó để người bị quản lý ln ln hồ hởi, phấn khởi đem hết năng
lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tở chức và cho cả xã hội.
1.2.1.2. Quản lí giáo dục
Vấn đề cơ bản của quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư
phạm ở trường Đại học là quản lý nhà trường vì nhà trường là cơ sở giáo dục, nơi tổ
chức thực hiện mục tiêu giáo dục. Khi nghiên cứu về nội dung khái niệm quản lý giáo
dục thì khái niệm trường học hiểu là tở chức cơ sở mang tính nhà nước – Xã hội trực
tiếp làm công tác giáo dục - Đào tạo thế hệ trẻ cho tương lai của đất nước.
1.2.1.3. Quản lí nhà trường
Quản lý nhà trường là quản lý giáo dục được thực hiện trong phạm vi xác định
của một đơn vị giáo dục nhà trường, nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ
theo yêu cầu của xã hội.Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Quang “ Quản lý trường học

là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học

11


sinh và cán bộ khác, nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư, lực
lượng xã hội đóng góp vào do lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy
mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ.
Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên
trạng thái mới” [21, tr.43].
Theo tác giả Phạm Viết Vượng: “Quản lý trường học là lao động của các cơ
quan quản lý nhằm tập hợp và tổ chức lao động của giáo viên, học sinh và các lực
lượng giáo dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao
chất lượng GD&ĐT trong nhà trường” [23, tr. 35].
Có thể khẳng định rằng, trong phạm vi trách nhiệm của mình, quản lý nhà trường
là thực hiện đường lối giáo dục tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo
dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục với thế hệ
trẻ và với từng học sinh, sinh viên.
Đối với giáo dục Đại học, trong Luật Giáo dục có một điều quan trọng nhất về
cơ chế quản lý mới đối với GDĐH là khẳng định quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội
(trong Luật gọi là tự chịu trách nhiệm) của trường đại học. Như đã nói, việc quản lý
GDĐH nước ta đang ở trong một thời kỳ chuyển tiếp. Quy luật chung của thời kỳ
chuyển tiếp là tồn tại đan xen cả hai cơ chế quả lý cũ và mới, và có một cuộc đấu tranh
về mọi mặt để dần dần xóa bỏ cơ chế quản lý cũ, khẳng định cơ chế quản lý mới.
Trong những năm qua, khả năng tổ chức giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh
viên sư phạm ở trường Đại học và quản lý vẫn là một điểm yếu lớn của khá nhiều
trường đại học, phổ biến trong khối đại học, liên quan đến việc thiết kế bộ máy và hệ
thống văn bản pháp chế sao cho khoa học, đồng bộ và có hiệu quả. Tiếp đến, cần thúc
đẩy khả năng tổ chức và quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
ở trường Đại học, đồng thời, không thể xao lãng mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ

quản lý để dần thay thế cán bộ quản lý nước ngồi trong các dự án hợp tác quốc tế.
Khía cạnh thứ ba là phát triển khả năng tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo đa
ngành, đa lĩnh vực. Đa ngành là một hướng đào tạo liên hoàn, phối kết giữa các nhu
cầu về chuyên ngành đào tạo của nhà trường.
Bối cảnh hội nhập quốc tế cũng đòi hỏi công tác quản lý hoạt động đào tạo quản
lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm phải tự điều chỉnh về vai trò
12


và nội dung quản lý giáo dục đạo đức nghề nghiệp. Sự điều chỉnh đó thể hiện qua hoạt
động quản lý bằng các chính sách vĩ mơ.
1.2.2. Giáo dục, đạo đức, giáo dục đạo đức
1.2.2.1. Giáo dục
Về cơ bản, các giáo trình về giáo dục ở nước ta đều trình bày “Giáo dục là xã
hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội
của các thế hệ loài người...”
Định nghĩa trên nhẫn mạnh đến sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ, nhấn
mạnh đến yếu tố dạy học, Jonh Dewey, triết gia về giáo dục có ảnh hưởng lớn nhất về
vấn đề giáo dục Mỹ trong thế kỉ XX, cịn cho rằng “xã hội khơng chỉ tồn tại nhờ
truyền dạy, mà cịn tồn tại chính trong q trình truyền dạy ấy”.
Ở Việt Nam, theo từ điển Tiếng Việt thông dụng – Nxb Giáo dục -1998, khái
niệm giáo dục được giải nghĩa là “Tác động có hệ thống để con người có thêm năng
lực và phẩm chất cần thiết”. Giáo dục hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động (hay là quá
trình) chuyển giao hệ thống tri thức, kinh nghiệm xã hội của thế hệ này cho các thế hệ
tiếp theo nhằm hình thành và phát triển nhân cách, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát
triển của đời sống xã hội trong tưng giai đoạn lịch sử. Theo nghĩa hẹp, giáo dục gắn
liền với quá trình hình thành và phát triển hệ thống nhà trường (giáo dục nhà trường)
là hoạt động giáo dục có mục đích và nội dung xác định cho từng bặc học và loại hình
trường, được thực hiện một cách có kế hoạch, có hệ thống trong khn khở tở chức
nhà trường.

Hình thành nhân cách là quá trình phát triển con người về mặt sinh lí, tâm lí và
mặt xã hội, mang tính chất tăng trưởng về lượng và biến đởi chất. Qua trình này diễn
ra do ảnh hưởng của các nhân tố bên trong (bẩm sinh, di truyền, tính tích cực của chủ
thể...) và các nhân tố bên trong (ảnh hưởng của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã
hội, tác động giáo dục), do ảnh hưởng của các tác động tự phát, ngẫu nhiên (tác động
bên trong, bên ngồi chưa được kiểm sốt, điều khiển được). Q trình này làm biến
đởi đứa trẻ với nghuwngc tư chất vốn có của con người thành một nhân cách.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội, việc dẫn dắt người khác vượt ra khỏi cái
hiện tại để vươn tới cái tương lai là việc làm có tính mục đích rõ ràng. Việc này
cũng được hoạch định và thực hiện một cách có tở chức với sự tham gia của cả
cộng đồng theo những phân công lao động chặt chẽ (nhiều khi được chun mơn
hóa). Hơn nữa, trong quá trình thực hiện những hoạt động như hoạt động giáo
13


dục, con người luôn kiểm tra, đánh giá để điều chỉnh sao cho kế hoạch đặt ra đạt
được kết quả tốt nhất. Như thế giáo dục là hiện tượng xã hội, là hiện tượng xẩy ra
khơng phải ngẫu nhiên, nó có mục đích, có tở chức, có kế hoạch, có kiểm tra đánh
giá và được sự tham gia của cả cộng đồng [1].
1.2.2.2. Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội luôn được mọi giai cấp, trong mọi thời
đại quan tâm. Đạo đức là phép ứng xử có nhân phẩm giữa người này với người khác.
Đạo đức luôn luôn là mối quan hệ hai chiều, là một thể chế đặc thù của xã hội nhằm
điều chỉnh các hành vi của con người trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đạo đức
là phương thức xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, giữa lợi ích xã hội và lợi
ích cá nhân.
C.Mác cho rằng:
“ Đạo đức chính là lực lượng bản chất của con người trong sự phát triển của nó
theo hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện”.
Theo ơng, bất luận trong mối quan hệ xã hội nào thì đạo đức cũng là quan hệ

thực sự người, là sự phản ánh tồn tại xã hội cho nên mỗi hình thái kinh tế - xã hội hay
mỗi giai đoạn lịch sử đều định hình những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tương ứng.
Trong đó, ngồi những giá trị chung, nó cịn hàm chứa các nét đặc thù. Đó là cơ sở
hình thành các thang bậc đạo đức của mỗi giai đoạn lịch sử hoặc mỗi hình thái kinh tếxã hội nhất định. Đạo đức theo nghĩa hẹp là luân lí, là những chuẩn mực ứng xử trong
quan hệ của con người. Theo nghĩa rộng, khái niệm đạo đức liên quan chặt chẽ với
phạm trù chính trị , pháp luật, lối sống. Có rất nhiều khái niệm về đạo đức, có thể kể
đến các khái niệm sau:
Từ điển xã hội học NXB thế giới Hà Nội 1993- Nguyễn Khắc Viện (Chủ
biên):
“Đạo đức bao gồm những chuẩn mực hành vi đạo đức của con người theo
hướng thiện, tránh hướng ác. Mỗi một xã hội, mỗi một nhóm xã hội và mỗi cá nhân có
thể lí giải cái thiện (đạo đức) và cái ác (vô đạo đức) theo những cách khác nhau, tuỳ
thuộc vào quan niệm sống và lợi ích của mình”.
Theo Trần Hậu Kiểm :

14


“Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình vì lợi ích xã hội, hạnh phúc của con người
trong mối quan hệ giữa con người và con người, giữa cá nhân và tập thể hay toàn xã
hội” .
Gần đây trong cuốn : “Về phát triển tồn diện con người thời kì CNH-HĐH” các
tác giả đưa ra khái niệm đạo đức theo nghĩa rộng:
“Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của
một cá nhân đã được xã hội hoá” [18, tr.153].
Như vậy trong các định nghĩa về đạo đức nêu trên đều đề cập đến các khía cạnh
sau:
- Đạo đức là hình thái ý thức xã hội phản ánh quan hệ giữa cá nhân với xã hội,
với người khác và chính mình.

- Đạo đức bao gồm hệ thống các giá trị, quy tắc, chuẩn mực xã hội.
- Đạo đức là phương thức điều chỉnh hành vi của con người.
Tóm lại, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ thống các nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực. Căn cứ vào hệ thống các nguyên tắc chuẩn mực đó để đánh giá hành
vi của cá nhân là hành vi đạo đức hay phi đạo đức. Hoặc cá nhân lựa chọn và điều
chỉnh cách ứng xử của mình cho phù hợp với yêu cầu của xã hội và cộng đồng.
1.2.2.3. Giáo dục đạo đức
Theo tác giả Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt:
“Giáo dục đạo đức là quá trình biến đổi hệ thống các chuẩn mực đạo đức từ
những địi hỏi bên ngồi, bên trong của cá nhân thành niềm tin, nhu cầu, thói quen
của người được giáo dục.” .
Đạo đức bao giờ cũng gồm ý thức đạo đức, tình cảm và niềm tin đạo đức, hành vi
đạo đức. Do đó việc giáo dục đạo đức đều phải bao gồm cả ba mặt nhằm hình thành
những con người có bộ mặt đạo đức phù hợp với yêu cầu của xã hội.
Trong nhà trường XHCN, giáo dục đạo đức cho học sinh là phát triển mặt đạo
đức của nhân cách, là xây dựng các sản phẩm đạo đức XHCN trong mỗi cá nhân, là
hoàn thành ý thức đạo đức, tình cảm đạo đức, hành vi và thói quen đạo đức của học
sinh theo những nguyên tắc đạo đức cách mạng mà tấm gương sáng ngời là đạo đức
của chủ tịch Hồ Chí Minh.

15


Giáo dục đạo đức là bộ phận của nội dung giáo dục tồn diện con người, là q
trình kết hợp nâng cao nhận thức với hình thành thái độ, xúc cảm, tình cảm, niềm tin
và hành vi thói quen đạo đức. Giáo dục đạo đức phải gắn chặt với giáo dục tư tưởng
chính trị. Giáo dục tư tưởng chính trị có tác dụng xây dựng cơ sở thế giới quan Mác Lê Nin và định hướng chính trị xã hội theo quan điểm và đường lối của Đảng cộng
sản, cho ý thức và hành động đạo đức. Ngoài ra giáo dục đạo đức còn phải kết hợp với
giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật có tác dụng củng cố và thúc đẩy việc thực hiện
các yêu cầu đạo đức.

1.2.3. Đạo đức nghề nghiệp và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư
phạm
1.2.3.1. Đạo đức nghề nghiệp
Nói tới khái niệm đạo đức nghề nghiệp là người ta muốn thu hẹp phạm vi của
khái niệm đạo đức nói chung nhưng nó được cụ thể hố và đặc trưng hố cho từng
nghề nghiệp nhất định.
Đạo đức nghề nghiệp cũng có những nguyên tắc, chuẩn mực được dư luận xã
hội thừa nhận và quy định những hành vi ứng xử trong mối quan hệ xã hội. Bản thân
nó lại có những nét đặc thù riêng, phản ánh đầy đủ phẩm chất cần có của một ngành,
một nghề cụ thể. Đó là những qui tắc, chuẩn mực của một nghề nghiệp hoặc một
nhóm nghề nghiệp nào đó, nó qui định những hành vi ứng xử của những cá nhân khi
hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp đó. Khi những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
đó khơng được thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng nó sẽ ảnh hưởng đến chất lượng
và hiệu quả trong hoạt động của chính hoạt động đó. Mỗi một lĩnh vực nghề nghiệp
đều có chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp chung: Ví dụ khi nói đến đạo đức của ngành
y thì vấn đề “lương y như từ mẫu” được coi là một chuẩn mực đạo đức của ngành
này. Trong thời kì chiến tranh, phẩm chất đạo đức “yêu xe như con, qúi xãng như
máu” là phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người bộ đội lái xe thời kì đó. Với
những người làm cơng tác dịch vụ xã hội thì: “Vui lịng khách đến, vừa lịng khách
đi” là biểu hiện đạo đức nghề nghiệp của họ. Với lực lượng cơng an nhân dân thì
phẩm chất đạo đức của họ phải đạt chuẩn theo 6 điều Bác Hồ dạy:
“Với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính.
Với đồng sự phải thân ái giúp đỡ.

16


Với chính phủ phải tuyệt đối trung thành..
Với nhân dân phải kính trọng lễ phép.
Với cơng việc phải tận tuỵ.

Đối với địch phải cương quyết khôn khéo.”
Đối với người Đảng viên, cán bộ, Bác dạy phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí,
cơng, vơ tư”. Đối với ngành giáo dục, một khẩu hiệu chung cho các cấp học là: “Tất cả
vì học sinh thân u”. Đó chính là đạo đức nghề nghiệp của người thầy giáo.
Đạo đức nghề nghiệp là thuật ngữ người ta gắn với những tiêu chuẩn hành xử
nhất định trong nghề dạy học. Để cho bất cứ nghề nào được tơn trọng và tự tơn, những
người làm nghề đó phải có và sống theo những chuẩn này. Có người cho rằng một
nghề chỉ có thể phát triển về tầm cỡ khi những người làm trong nghề đó tơn trọng
chính mình và có những đóng góp tích cực với tư cách là một nghề vào sự phát triển
của xã hội. Những chuẩn đạo đức nghề nghiệp đó có thể được dùng làm kim chỉ nam
cho những người bước vào nghề dạy học. Theo Claire Andre and Manuel Valasquez, ít
năm trước đây, một nhà xã hội đã hỏi các doanh nhân câu hỏi: Đạo đức là gì?
- Đạo đức có liên quan tới cái mà linh cảm.
- Đạo đức có liên quan tới tín ngưỡng tơn giáo
- Đạo đức là biết làm theo pháp luật
- Đạo đức là chuẩn hành vi mà xã hội ta chấp nhận.
Vì vậy, đạo đức nghề nghiệp được xem như là một nội dung quan trọng của cơng
tác giáo dục đạo đức nói riêng và cơng tác giáo dục đào tạo nói chung.
Tóm lại, từ nội hàm của khái niệm đạo đức nói chung và qua phân tích một số
đặc trưng về đạo đức của một vài nghề nghiệp, ta có thể hiểu:
Đạo đức nghề nghiệp là tổng hợp những nguyên tắc, qui tắc, những chuẩn mực
đạo đức xã hội mang tính đặc thù của một bộ phận xã hội nhất định nhằm định hướng
và điều chỉnh hành vi ứng xử và giải quyết những mối quan hệ giữa các thành viên và
xã hội, nó cịn chịu sự chế ước của pháp luật.
1.2.3.2. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
Công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trong các nhà trường sư
phạm là hết sức quan trọng được các nhà trường chú ý và đặt song song với nhiệm vụ
bồi dưỡng tri thức khoa học. Thực chất của công tác này là cơng tác quản lí, giáo dục
17



sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện tại nhà trường. Đây là khâu quan trọng của
quá trình hình thành nhân cách người giáo viên theo mục tiêu đào tạo và theo tiêu
chuẩn đạo đức của người giáo viên. Đồng thời đưa hoạt động của nhà trường vào nề
nếp, chính qui đáp ứng yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra đó là “xã hội hố cơng
tác giáo dục”. Do đó giáo dục đạo đức phải đạt những yêu cầu cơ bản sau:
- Giáo dục tư tưởng phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng nhân ái cho sinh viên là
nội dung xun suốt q trình quản lí giáo dục sinh viên. Yêu cầu này nhằm xây dựng
niềm tin, bản lĩnh chính trị, sự tin tưởng trung thành vào đường lối lãnh đạo của Đảng,
của ngành, của trường và khoa. Giáo dục tình cảm đạo đức cách mạng và đạo đức
nghề nghiệp trong sáng. Đây là yếu tố tiên quyết, cốt lõi để xây dựng bản chất nhân
cách người giáo viên nhân dân. Việc giáo dục đạo đức trong điều kiện hiện nay gặp
khơng ít khó khăn bởi những tác động tiêu cực của lối sống thực dụng, vị kỉ khá phở
biến trong xã hội. Từ đó ảnh hưởng đến môi trường giáo dục trong nhà trường.
- Nhà trường cần giáo dục mục đích, động cơ học tập đúng đắn, tinh thần vượt

khó, ý chí rèn luyện, sự đam mê sáng tạo trong học tập. Đây là mặt quan trọng để giáo
dục sinh viên có bản lĩnh chính trị và tri thức khoa học phục vụ cho công tác sau này.
- Giáo dục sinh viên xây dựng nề nếp, thói quen sống có kỉ luật, trật tự theo nội
quy, quy chế của trường, kỉ cương của gia đình và pháp luật. Yêu cầu mỗi sinh viên
phải rèn luyện cho mình tác phong tự tin, nhanh nhẹn, có văn hố, thích ứng với mọi
hoạt động học tập và rèn luyện trong quan hệ xã hội. Đồng thời phát hiện, bồi dưỡng
những mặt tích cực, giáo dục khắc phục những mặt tiêu cực, lệch lạc trong hành vi đạo
đức của sinh viên để có biện pháp giáo dục và xử lí kịp thời.
- Giáo dục sinh viên nêu cao ý thức trách nhiệm, ý thức tự giác trong học tập,
trong việc chấp hành nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.2.4. Giải pháp và giải pháp quản lí công tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm
1.2.4.1. Giải pháp
Giải pháp là cách làm, thực hiện một cơng việc nào đó nhằm đạt được mục đích đề

ra.
Theo cuốn “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên, thì: “Giải pháp là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể”

18


Theo cuốn từ điển Việt tường giải và liên tưởng” của tác giả Nguyễn Văn Đạm:
“Giải pháp là cách làm, cách hành động đối phó để đi đến một mục đích nhất định”
Như vậy, nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm thay đổi,
chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định... nhằm đạt được
mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối ưu, càng giúp con người
nhanh chóng giải quyết được những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để có những giải pháp
như vậy, cần dựa trên những cơ sở lí luận và thực tiễn đáng tin cậy
1.2.4.2. Giải pháp quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
Giải pháp QL công tác GDĐĐNN là cách làm, các hành động cụ thể để nâng
cao hiệu quả QL công tác giáo dục GDĐĐNN cho SV ở bất kì nhà trường nào cũng
làm tốt hai nhiêm vụ “dạy chữ” và “dạy người”. QL hoạt động GDĐĐ trong nhà
trường là hướng tới việc phát triển toàn diện nhân cách cho người học. Trong nhà
trường đại học, nơi đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ chun mơn cao và có phẩm
chất ĐĐ đáp ứng yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp, để quản lí cơng tác GDĐĐNN
cho SV, có nhiều hoạt động cùng xẩy ra đồng thời, liên tục, kế thừa và phối hợp nhiều
lực lượng, nhưng người thầy đóng vai trị quan trong nhất. Hoạt động QL GDĐĐNN
đòi hỏi người QL phải chủ động tổ chức cho các lực lượng giáo dục (nhà trường, gia
đình, doanh nghiệp, xã hội) cùng nắm vững mục tiêu, yêu cầu nội dung, phương pháp
GDĐĐ và GDĐĐNN cho sinh viên thông qua việc chủ động lập kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và hướng dẫn, tạo điều kiện tốt cho mọi lực lượng cùng tham gia và thực hiện tốt
trách nhiệm của mình
1.3. Một số vấn đề lí luận về quản lí cơng tác giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm

1.3.1. Ý nghĩa của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
Để xứng đáng với vị trí xã hội của mình, người thầy giáo trước hết phải là người
công dân tốt trong xã hội. Sinh viên sư phạm cần phải phấn đấu rèn luyện để có những
phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội: biết sống và làm việc
theo hiến pháp, pháp luật; có thế giới quan khoa học, thấm nhuần tư tưởng chính trị
của Đảng; có lịng u Tở quốc, u hồ bình độc lập; có lịng nhân ái và tình u
thương con người; biết tơn trọng giá trị nhân cách của người khác;… Có nghĩa là sinh
viên sư phạm cần hình thành đầy đủ những phẩm chất của người cơng dân nói chung
trong các quan hệ với người khác, với xã hội cũng như với chính bản thân mình. Đồng

19


thời để có thể lao động tốt trong nghề sư phạm theo những đặc thù riêng, sinh viên sư
phạm cần nhấn mạnh việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức nởi trội cần thiết cho
hoạt động của mình như sau:
* Thế giới quan khoa học
Nói đến sự học của thế hệ trẻ cũng có nghĩa là nói đến nhà trường, nói đến thầy
giáo, mà nói đến trường học là nói đến tri thức, nói đến văn minh, văn hố. Điều 16
Luật Giáo dục qui định: “ Không truyền bá tôn giáo, không tiến hành các nghi thức tôn
giáo trong các trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ
quan hành chính nhà nước, của tở chức chính trị- xã hội, của lực lượng vũ trang nhân
dân”. Điều này địi hỏi nhà giáo phải có thế giới quan khoa học, có quan điểm duy vật
biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Thế giới quan khoa học không phải là bản tính tự nhiên của nhà giáo, mà nó
được hình thành trong q trình học tập của họ và dưới nhiều ảnh hưởng khác nhau.
Đó là q trình học tập trong trường phổ thông, trường sư phạm và tự học suốt đời,
trong q trình học các mơn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ,
khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là triết học.
* Lí tưởng nghề nghiệp

Theo quan niệm của tâm lí học “lí tưởng là biểu hiện tập trung nhất của xu hướng
nhân cách, nó có chức năng xác định mục tiêu, chiều hướng phát triển của cá nhân, là
động lực thúc đẩy, điều khiển toàn bộ hoạt động của con người” [3]. Vì vậy có thể nói
lý tưởng nghề dạy học chính là biểu hiện xu hướng hoạt động sư phạm của người thầy
giáo, “ là điều kiện bên trong để hình thành lịng u nghề, u trẻ, nhờ đó mà thầy
giáo có thái độ say mê cơng việc giảng dạy và giáo dục trẻ em. Khuynh hướng này
ngày càng mở rộng, càng sâu sắc khi từng bước người chọn nghề thầy giáo đi sâu vào
nghiệp vụ sư phạm”.
Người làm nghề dạy học không phải là “ thợ dạy”, mà phải là nhà giáo thực thụ.
Nếu chỉ là “thợ dạy” thì trong chừng mực nào đó có thể dùng máy, dùng phương tiện
kĩ thuật hiện đại để thay thế, nhưng là nhà giáo thì chỉ có thể được thay thế bằng nhà
giáo khác và họ đều đạt chuẩn nhà giáo ở cấp học, bậc học cụ thể.
Lí tưởng nhà giáo là lí tưởng về sự nghiệp “quốc sách hàng đầu”, là lí tưởng về
sự nghiệp “trồng người”, là hạt nhân trong nhân cách người thầy giáo. Lí tưởng của
20


×