Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (611.96 KB, 117 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Trong những năm qua,
nền giáo dục nước ta có bước phát triển mới. Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá diễn ra nhanh, mạnh, có phạm vi
ảnh hưởng rộng lớn trên cả nước, trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, Đảng và
Nhà nước ta hết sức chú trọng phát triển giáo dục đào tạo, coi "giáo dục là quốc
sách hàng đầu". Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định:
"Giáo dục và Đào tạo cùng khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu".
Phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là
yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Chỉ thị số 40 - CT/TW ngày 15 tháng 6 năm 2004 của ban Bí thư Trung
ương Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ: "Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng,
đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối
sống, lương tâm, tay nghề nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" [4].
Một trong những yếu tố quyết định cho sự thành công của giáo dục là đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò quyết định đến
chất lượng và hiệu quả giáo dục của mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo
dục nước ta được xây dựng ngày càng đông đảo, phần lớn có bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức trong sáng và lối sống lành mạnh, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ ngày càng nâng cao. Đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào thắng lợi của
sự nghiệp cách mạng nước ta.




2

Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển giáo dục
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ nhà giáo và
CBQL giáo dục còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Số lượng giáo viên còn
thiếu nhiều, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa. Đội ngũ CBQL còn thiếu so
với nhu cầu, số lượng CBQL có trình độ chuyên môn, trình độ quản lý tốt còn
ít, tính chuyên nghiệp của đội ngũ CBQL chưa cao, đặc biệt trong tham mưu,
xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện...v.v..
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, trong
những năm qua Phòng Giáo dục và đào tạo huyện Cẩm Xuyên đã luôn bám
sát đường lối chính sách công tác cán bộ của Đảng, có sự vận dụng sáng tạo
phù hợp với thực tiễn địa phương. Mặc dù, công tác xây dựng phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục huyện nhà đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, nhưng
nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học huyện Cẩm Xuyên hiện
nay xét về số lượng, cơ cấu và chất lượng chưa đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng
cao của giáo dục và nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Vì vậy, vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường
Tiểu học huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay là rất quan
trọng đối với ngành Giáo dục – Đào tạo huyện nhà. Chính vì những lý do nêu
trên nên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý trường tiểu học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng đội ngũ CBQL đề
tài đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ CBQL các trường tiểu học của
huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh nhằm phát huy năng lực quản lý của đội ngũ
Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng (CBQL) phù hợp với xu thế và đòi hỏi của xã
hội trong giai đoạn mới.

3. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường tiểu học.


3

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu và đề xuất các giải
pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học.
Giới hạn địa bàn nghiên cứu: Các trường Tiểu học thuộc huyện Cẩm
Xuyên.
Giới hạn về khách thể điều tra: Đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu học
bao gồm: Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng.
4. Giả thuyết khoa học
Đội ngũ CBQL trường tiểu học sẽ được đảm bảo đủ số lượng, đạt trình
độ đào tạo, cơ cấu hợp lý, đáp ứng được sự yêu cầu đổi mới của giáo dục và
đào tạo nói chung và của giáo dục tiểu học nói riêng, nếu đề xuất, thực hiện
cá giải pháp có cơ sở khoa học, có tính khả thi để phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý trường tiểu học hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
trường tiểu học.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường
Tiểu học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường Tiểu
học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước, Ngành giáo
dục và đào tạo, các tài liệu khoa học có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.


4

6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động quản lý của các Hiệu
trưởng, Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học thuộc địa bàn huyện Cẩm Xuyên.
- Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp lãnh đạo, chuyên viên phòng
giáo dục; điều tra bằng phiếu hỏi đối với Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và một số
giáo viên các trường Tiểu học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các chuyên gia về công tác tổ
chức cán bộ và các nhà nghiên cứu về quản lý giáo dục bậc Tiểu học.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, …
6.3. Phương pháp thống kê: Dùng để xử lý các kết quả nghiên cứu.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận văn có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
các trường tiểu học.
Chương 2: Thực trạng công tác phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các
trường tiểu học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường
tiểu học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.



5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quản lý là một hoạt động mang tính lịch sử xã hội, nhờ có hoạt động
quản lý mà xã hội loài người không ngừng vận động và phát triển. Theo MácĂnghen trong quá trình nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã rút ra kết
luận, một trong những yếu tố quyết định đối với sự phát triển của nền sản xuất
tư bản là nhờ có vai trò của hoạt động quản lý.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin về vai trò của hoạt động quản lý, Người đã khẳng định: “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”, cán bộ cách mạng phải
là người “vừa hồng, vừa chuyên”, đó chính là mối quan hệ giữa tài và đức
trong nhân cách người cán bộ quản lý, trong đó đức là gốc, còn năng lực của
con người không phải tự nhiên mà có mà phần lớn là do qua quá trình công
tác, rèn luyện mà nên.
Xuất phát từ quan điểm “Coi con người là động lực trực tiếp của sự phát
triển, cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu”.
Ngày nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực trong đó giáo dục có vai trò quyết định đối với sự tồn
tại và phát triển của quốc gia. Để thực hiện có hiệu quả sự nghiệp giáo dục
Đảng và Nhà nước ta đã có Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban bí thư “Về việc xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”,
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ X cũng đã nêu rõ:
“...Coi trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, trước hết là cán bộ
lãnh đạo, cán bộ quản lý về đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng
quản lý hành chính nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội trong điều kiện cơ chế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” và xây dựng đội ngũ Đảng viên thật sự
tiên phong gương mẫu, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức



6

kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công
nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó
khăn thử thách; năng động, sáng tạo góp phần tích cực vào công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW của Ban bí thư “Về việc xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”, Bộ GD&ĐT đã
xây dựng chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, các giải pháp phát triển
giáo dục được đưa ra có giải pháp “Đổi mới quản lý giáo dục”, trong đó xác
định “Đổi mới cơ chế và phương thức quản lý giáo dục theo hướng phân cấp
một cách hợp lý nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng
tạo, tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục,
giải quyết một cách có hiệu quả những bất cập trong toàn hệ thống trong quá
trình phát triển”. Cụ thể là: Xây dựng và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục. Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ CBQL giáo dục các
cấp về kiến thức, kỹ năng quản lý và rèn luyện phẩm chất đạo đức; đồng thời
điều chỉnh sắp xếp lại cán bộ theo yêu cầu mới phù hợp với năng lực và phẩm
chất của từng người.
Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đất nước, quản lý nói chung, quản lý
giáo dục nói riêng là vấn đề luôn được sự thu hút, quan tâm của các nhà lãnh
đạo, các nhà khoa học và các nhà quản lý.
Vấn đề quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là
vấn đề có ý nghĩa trong việc "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài", đặc biệt có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao chất lượng giáo dục –
đào tạo của nhà trường.
Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục của

các tác giả như: "Những vấn đề về quản lý trường học" (P.V Zimin, M.I
Kônđakốp), "Quản lý vấn đề quốc dân trên địa bàn huyện", (M.I Kônđakốp).
Nhà giáo dục học Xô-viết V.A Xukhomlinxki khi tổng kết những kinh


7

nghiệm quản lý chuyên môn trong vai trò là Hiệu trưởng nhà trường cho rằng
"Kết quả hoạt động của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào công việc tổ chức
đúng đắn các hoạt động dạy học". Cùng với nhiều tác giả khác ông đã nhấn
mạnh đến sự phân công, sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất quản lý giữa Hiệu
trưởng và Phó hiệu trưởng để đạt được mục tiêu đề ra.
Ở Việt Nam, từ những năm đầu của thập kỷ 90 thế kỷ trước cho đến nay
đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về quản lý giáo dục có giá trị đó là:
"Giáo trình khoa học quản lý" của tác giả Phạm Trọng Mạnh [18]; "Khoa học
tổ chức và quản lý một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Trung tâm nghiên
cứu khoa học tổ chức quản lý [31]; "Tâm lý xã hội trong quản lý" của Ngô
Công Hoàn [16]; ... Bên cạnh đó còn một số bài viết đề cập đến quản lý giáo
dục như: " Vấn đề kinh tế thị trường, quản lý nhà nước và quyền tự chủ các
trường học" của tác giả Trần Thị Bích Liễu - Viện KHGD đăng trên tạp chí
giáo dục số 43 tháng 11 năm 2002.
Từ trước đến nay có nhiều đề tài nghiên cứu về việc phát triển đội ngũ
CBQL trường học nói chung và CBQL trường tiểu học nói riêng. Tuy nhiên
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, huyện Cẩm Xuyên chưa có đề tài nào đi sâu nghiên
cứu về giải pháp phát triển đội ngũ CBQL trường tiểu học.
Việc nghiên cứu đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ CBQL trường
tiểu học huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và
thực tiễn trong việc đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học của địa
phương trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.2.1. Khái niệm giải pháp
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Viện khoa học xã hội Việt Nam
thì giải pháp có nghĩa là: cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm thay đổi,
chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định… nhằm đạt
được mục đích hoạt động. Giải pháp càng thích hợp, càng tối ưu, càng giúp


8

con người nhanh chóng giải quyết được những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để có
được những giải pháp có tính khả thi, cần phải dựa trên những cơ sở lý luận
và thực tiễn đáng tin cậy của những giải pháp đó.
1.2.2. Khái niệm phát triển
Theo Từ điển Tiếng Việt, phát triển là "Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít
đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp" [30].
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như
phát triển kinh tế, phát triển xã hội, phát triển nguồn nhân lực, phát triển đội
ngũ. Còn theo quan điểm triết học, phát triển là khái niệm biểu hiện sự thay
đổi tăng tiến cả về chất, cả về không gian lẫn thời gian của sự vật, hiện tượng
và con người trong xã hội. Như vậy, phát triển được hiểu là sự tăng trưởng, là
sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tiến lên.
Theo tác giả Đặng Bá Lãm: "Phát triển là một quá trình vận động từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, theo đó cái cũ chuyển biến mất và cái mới ra
đời ... Phát triển là một quá trình nội tại: bước chuyển từ thấp lên cao xảy ra bởi
vì trong cái thấp đã chứa đựng dưới dạng tiềm tàng những khuynh hướng dẫn
đến cái cao. Còn cái cao là cái thấp đã phát triển". [21]
1.2.3. Khái niệm đội ngũ
- Có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau về đội ngũ. Ngày nay khái
niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như:

"Đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y bác sỹ... " đều xuất
phát theo cách hiểu của thuật ngữ quân sự về đội ngũ đó là: "Khối đông người
được tập hợp lại một cách chỉnh tề và được tổ chức thành lực lượng chiến
đấu".
Khái niệm đội ngũ tuy có các cách hiểu khác nhau nhưng đều có chung
một điểm đó là: Một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực
lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng
nghề nghiệp nhưng đều có chung một mục đích nhất định.


9

Từ các cách hiểu trên, có thể nêu chung: Đội ngũ là một tập thể gồm số đông
người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có
kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.
- Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Viện khoa học xã hội Việt
Nam thì cán bộ có nghĩa là: Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong
cơ quan nhà nước. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ
chức, phân biệt với người thường không có chức vụ.
1.2.4. Khái niệm quản lý
Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ "quản lý" được định nghĩa là: "Tổ
chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan".
Quản lý là hoạt động có mục đích, được tiến hành bởi một chủ thể quản
lý nhằm tác động lên khách thể quản lý để thực hiện các mục tiêu xác định
của công tác quản lý. Trong mỗi chu trình quản lý, chủ thể quản lý tiến hành
những hoạt động theo chức năng quản lý như xác định mục tiêu, hoạch định
các chủ trương, chính sách, kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện, phối hợp,
kiểm tra, huy động và sử dụng các nguồn lực cơ bản như tài lực, vật lực, nhân
lực...để thực hiện các mục tiêu, mục đích mong muốn trong bối cảnh và thời
gian nhất định.

Trong cuốn " Lý luận quản lý nhà nước" của tác giả Mai Hữu Khuê, xuất
bản năm 2003 có định nghĩa về quản lý như sau: "Quản lý là một phạm trù có
liên quan mật thiết với hiệp tác và phân công lao động, nó là một thuộc tính tự
nhiên của mọi lao động hiệp tác. Từ khi xuất hiện những hoạt động quần thể
của loài người thì đã xuất hiện sự quản lý. Sự quản lý đã có trong cả xã hội
nguyên thuỷ, ở đó con người phải tập hợp với nhau để đấu tranh với thế giới
tự nhiên, muốn sinh tồn con người phải tổ chức sản xuất, tổ chức phân phối".
F.W.Taylor cho rằng: "Quản lý là biết chính xác điều muốn người khác
làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ
nhất".


10

H.Koontz thì khẳng định: "Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm
bảo phối hợp những nỗ lực hoạt động cá nhân nhằm đạt được các mục đích
của nhóm". Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường mà trong đó
con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật
chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất. Quản lý là một trong những loại hình lao
động quan trọng nhất trong các hoạt động của con người. Quản lý đúng tức là
con người đã nhận thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được
thành công theo ý muốn.
Theo quan điểm chính trị xã hội: " Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ
chức, có định hướng của chủ thể (người quản lý, người tổ chức quản lý) lên
khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hoá, xã hội, kinh
tế...bằng một hệ thống luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương
pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát
triển của đối tượng"
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người
quản lý đến tập thể người bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức đặt

ra. Vì vậy, nhiệm vụ của quản lý là biến đổi mối quan hệ trên thành những
yếu tố tích cực, hạn chế xung đột và tạo nên môi trường thuận lợi để hướng
tới mục tiêu. Đó là "bí quyết" làm việc của người quản lý được khám phá trên
sự đúc rút kinh nghiệm thực tế. Những kinh nghiệm thực tế được khái quát
hoá thành những nguyên tắc, phương pháp, kỹ năng quản lý cần thiết, đó
chính là khoa học – khoa học quản lý. Do đó, ta có thể nói rằng: Quản lý vừa
là khoa học vừa là nghệ thuật.
Quản lý gồm hai thành phần: Chủ thể quản lý và khách thể quản lý:
- Chủ thể quản lý là người hoặc tổ chức do con người cụ thể lập nên.
- Khách thể quản lý có thể là người, tổ chức, vừa có thể là vật cụ thể
như: Môi trường, thiên nhiên, đoàn xe..., vừa có thể là sự việc như: luật lệ,
quy chế, quy định..., cũng có khi khách thể, tổ chức được con người đại diện
trở thành chủ thể quản lý cấp dưới thấp hơn.


11

Giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý có mối quan hệ tác động qua
lại, tương hỗ nhau. Theo Nguyễn Minh Đạo "Chủ thể làm nảy sinh các tác
động quản lý, còn khách thể thì sản sinh các giá trị vật chất và tinh thần có giá
trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của
chủ thể quản lý". [9]
Trong quản lý, chủ thể quản lý phải có tác động phù hợp và sắp xếp hợp
lý các tác động nhằm đạt mục tiêu. Do đó quản lý phải có sự kết hợp chặt chẽ
giữa tri thức và lao động. Muốn phát huy tiềm năng của đối tượng quản lý
(đặc biệt là con người) thì phải có cơ chế đúng.
Nguyễn Minh Đạo cho rằng "Chức năng quản lý là loại hình đặc biệt của
hoạt động điều hành, là sản phẩm của tiến trình phân công lao động và chuyên
môn hoá việc quản lý".[9].
Chức năng quản lý là những nội dung và phương thức hoạt động cơ bản

mà nhờ đó chủ thể quản lý tác động đến đối tượng quản lý trong quá trình
quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý
tạo nên nội dung của quá trình quản lý. Chức năng quản lý được quy định một
cách khách quan bởi hoạt động của khách thể quản lý.
Henry Fayol đã đưa ra 5 chức năng sau đây mà người ta gọi là 5 yếu tố
của Fayol: Kế hoạch hoá, tổ chức, ra lệnh, phối hợp, kiểm tra và đánh giá.
Trong cuốn "Cơ sở khoa học quản lý" Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
xuất bản năm 1997, có nêu các chức năng quản lý gồm: Kế hoạch hoá - tổ
chức - phối hợp - điều chỉnh, kích thích - kiểm tra, họach toán.
Sau khi nghiên cứu, tổng kết các nhà nghiên cứu cho rằng quản lý có 4
chức năng cơ bản là 4 khâu liên quan mật thiết với nhau, đó là:
* Kế hoạch hoá: Là làm cho việc thực hiện có kế hoạch trên diện rộng, quy
mô lớn. Căn cứ vào thực trạng và dự định của tổ chức để xác định mục tiêu, mục
đích, xác định những biện pháp trong thời kỳ nhằm đạt mục tiêu dự định.


12

* Tổ chức: Là quá trình hình thành nên những cấu trúc quan hệ giữa các
thành viên, bộ phận nhằm đạt mục tiêu kế hoạch. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả,
người quản lý có thể phối hợp điều phối các nguồn lực, vật lực, nhân lực.
* Chỉ đạo: Đó chính là phương thức tác động của chủ thể quản lý. Lãnh
đạo bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác, động viên họ hoàn thành
nhiệm vụ để đạt được mục tiêu của tổ chức.
* Kiểm tra: Thông qua một cá nhân, hay một nhóm tổ chức để xem xét
thực tế, theo dõi, giám sát thành quả hoạt động, tiến hành uốn nắn, sửa chữa
những hoạt động sai. Đây chính là quá trình tự điều chỉnh của hoạt động quản
lý.
Với các chức năng đó, quản lý có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự
phát triển xã hội. Nó nâng cao hiệu quả hoạt động, đảm bảo trật tự, kỷ cương

trong bộ máy và nó là nhân tố tất yếu của sự phát triển.
Cơ chế quản lý là phương thức mà nhờ nó hoạt động quản lý được diễn
ra, quan hệ tương tác giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý được thực
hiện (vận hành và phát triển). Để thực hiện quá trình quản lý phải có các điều
kiện, phương tiện quản lý. Đó không chỉ là máy móc, kỹ thuật mà còn là nhân
cách của nhà quản lý (phẩm chất, năng lực). Còn hiệu quả quản lý là sản
phẩm kép, nghĩa là trong quá trình quản lý, đối tượng quản lý phát triển và
phẩm chất, năng lực của nhà quản lý cũng phát triển.
Tóm lại: Quản lý là sự tác động có ý thức để điều khiển, hướng dẫn các
quá trình và các hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đúng với ý
chí của nhà quản lý và phù hợp với các quy luật khách quan.
1.2.5. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.5.1. Khái niệm quản lý giáo dục
Nhà nước quản lý mọi mặt hoạt động, trong đó có hoạt động giáo dục.
Vậy, quản lý Nhà nước về giáo dục là tập hợp những tác động hợp quy luật
được thể chế hoá bằng pháp luật của chủ thể quản lý nhằm tác động đến các


13

phân hệ quản lý để thực hiện mục tiêu giáo dục mà kết quả cuối cùng là chất
lượng, hiệu quả đào tạo thế hệ trẻ.
Theo M.I. Kônđacốp: "Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế
hoạch, có ý thức và hướng đích của của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau
đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến Trường) nhằm mục đích đảm
bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng
những quy luật của quá trình giáo dục, của sự phát triển thể lực và tâm lý của
trẻ em". [19].
Theo nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc: " Quản lý nhà trường, quản lý
giáo dục nói chung là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi

trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo
dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục và
thế hệ trẻ và đối với từng học sinh" [14].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang "Quản lý giáo dục là hệ thống những
tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm
làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện được các
tính chất của nhà trường Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là
quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự
kiến tiến lên trạng thái về chất". [25].
Tác giả Nguyễn Gia Quý khái quát: "Quản lý giáo dục là sự tác động có
ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động giáo
dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sỏ nhận thức và vận dụng đúng những quy
luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân". [23].
Khái niệm về Quản lý giáo dục, cho đến nay có rất nhiều định nghĩa
khác nhau, nhưng cơ bản đều thống nhất với nhau về nội dung và bản chất.
Tác giả Đặng Quốc Bảo cho rằng: "Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quát là
hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác
đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội". [1].


14

Quản lý giáo dục bao gồm: Chủ thể quản lý, khách thể quản lý và quan
hệ quản lý. Chủ thể quản lý là bộ máy quản lý giáo dục các cấp; khách thể
quản lý là hệ thống giáo dục quốc dân, các trường học; quan hệ quản lý chính
là những mối quan hệ giữa người học và người dạy; quan hệ giữa người quản
lý với người dạy, người học; quan hệ người dạy - người học... Các mối quan
hệ đó có ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, chất lượng hoạt động của nhà
trường, của toàn bộ hệ thống giáo dục.
Nội dung quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản: Xây dựng và

chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo
dục; ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục,
tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học; tổ chức bộ
máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản
lý, giáo viên; huy động, quản lý sử dụng các nguồn lực...
Như vậy, có thể khái quát lại rằng, quản lý giáo dục là tập hợp những
biện pháp (tổ chức, cán bộ, kế hoạch hoá...) nhằm đảm bảo sự vận hành bình
thường của các cơ quan trong hệ thống cả về số lượng cũng như chất lượng.
1.2.5.2. Chức năng quản lý giáo dục
Cũng như các hoạt động quản lý kinh tế - xã hội, quản lý giáo dục có hai
chức năng tổng quát sau:
- Chức năng ổn định, duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu hiện
hành của nền kinh tế - xã hội.
- Chức năng đổi mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ kinh tế
- xã hội. Như vậy, quản lý giáo dục là hoạt động điều hành các nhà trường để
giáo dục vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu của nền kinh tế.
Từ hai chức năng tổng quát trên, quản lý giáo dục phải quán triệt, gắn bó
với bốn chức năng cụ thể là: Kế hoạch hoá; Tổ chức; Chỉ huy điều hành;
Kiểm tra.


15

Hệ thống quản lý giáo dục nhà trường hoạt động trong động thái đa
dạng, phức tạp. Quản lý giáo dục là quản lý các mục tiêu vừa tường minh vừa
trong mối tương tác của các yếu tố chủ đạo:
- Mục tiêu đào tạo.
- Nội dung đào tạo.
- Phương pháp đào tạo.
- Lực lượng đào tạo.

- Đối tượng đào tạo.
- Hình thức tổ chức đào tạo.
- Điều kiện đào tạo.
- Môi trường đào tạo.
- Quy chế đào tạo.
- Bộ máy tổ chức đào tạo.
Quản lý giáo dục chính là quá trình xử lý các tình huống có vấn đề phát
sinh trong hoạt động tương tác của các yếu tố trên để nhà trường phát triển,
đạt tới chất lượng tổng thể bền vững, làm cho giáo dục vừa là mục tiêu, vừa là
sức mạnh của nền kinh tế.
1.2.5.3. Quản lý nhà trường
Trường học là một bộ phận của xã hội, là tổ chức giáo dục cơ sở của hệ
thống Giáo dục quốc dân. Hoạt động dạy và học là hoạt động trung tâm của
nhà trường, mọi hoạt động phức tạp, đa dạng khác đều hướng vào hoạt động
trung tâm này. Do vậy, quản lý trường học nói chung và quản lý trường tiểu
học nói riêng thực chất là: "Quản lý hoạt động dạy - học, tức là làm sao đưa
hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục
tiêu giáo dục", theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, [25].
Theo Đặng Quốc Bảo: "Trường học là một thiết chế xã hội trong đó diễn
ra quá trình đào tạo giáo dục với sự hoạt động tương tác của hai nhân tố thầy
– trò. Trường học là một bộ phận của cộng đồng và trong guồng máy của hệ
thống giáo dục quốc dân, nó là đơn vị cơ sở". [2].


16

* Khái niệm Quản lý nhà trường:
Giáo dục là một bộ phận trong hệ thống xã hội, có chức năng đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ sự tồn tại và phát triển của xã hội trong tương lai.
QLGD là sự vận dụng của khoa học quản lý vào các lĩnh vực hoạt động giáo

dục, để thực hiện mục tiêu mong muốn của giáo dục. Cũng giống như khái
niệm quản lý, QLGD được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trước hết tìm hiểu khái niệm giáo dục và quản lý giáo dục, do cách thức
tiếp cận khác nhau mà quản lý giáo dục được hiểu ở nhiều góc độ khác nhau:
Hiểu theo nghĩa rộng: Giáo dục là hoạt động diễn ra trong xã hội thì
quản lý giáo dục là quản lý mọi hoạt động về giáo dục trong xã hội. Quản lý
giáo dục có hệ thống và được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương
và các cơ sở giáo dục trong phạm vi toàn quốc.
Hiểu theo nghĩa hẹp: Giáo dục là các hoạt động diễn ra trong ngành
GD&ĐT hay một đơn vị trường học, quản lý giáo dục được hiểu là quản lý
một đơn vị cơ sở GD&ĐT, quản lý nhà trường hay quản lý trường học. Trong
hệ thống quản lý giáo dục nói chung, quản lý trường học là một trong những
nội dung quan trọng, vì nhà trường là cơ sở, là nền tảng của ngành GD&ĐT.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc, khi bàn về khái niệm quản lý nhà trường
đã khẳng định: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng
trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh.” [14]
Theo tác giả M.Zade thì quản lý giáo dục là tập hợp những biện pháp
nhằm bảo đảm sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo
dục, bảo đảm sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng
cũng như về mặt chất lượng.
QLGD được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch,
hợp quy luật của chủ thể quản lý trong hệ thống giáo dục, là sự điều hành hệ
thống giáo dục quốc dân, các cơ sở giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu nâng cao


17

dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. QLGD là hoạt động điều hành,

phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác giáo dục theo yêu cầu
phát triển xã hội.
Quản lý nhà nước về GD&ĐT là việc nhà nước thực hiện quyền lực
công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động GD&ĐT trong phạm vi
toàn xã hội.
QLGD cũng chịu sự chi phối của các quy luật xã hội và tác động của
quản lý xã hội. QLGD có những đặc trưng chủ yếu sau đây:
Sản phẩm giáo dục là nhân cách nên QLGD phải ngăn ngừa sự dập khuôn,
máy móc trong việc tạo ra sản phẩm và không được phép tạo ra phế phẩm.
QLGD nói chung và quản lý nhà trường nói riêng phải chú ý đến sự khác
biệt giữa đặc điểm lao động sư phạm so với lao động xã hội.
QLGD đòi hỏi những yêu cầu cao về tính toàn diện, tính thống nhất, tính
liên tục, tính kế thừa và tính phát triển.
Trong QLGD, các hoạt động quản lý hành chính nhà nước và quản lý sự
nghiệp chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau, không thể tách rời
nhau, tạo thành hoạt động QLGD thống nhất.
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, QLGD phải quán triệt quan điểm
của quần chúng.
Dựa vào phạm vi quản lý, người ta đưa ra hai loại QLGD:
- Quản lý hệ thống giáo dục: QLGD được diễn ra ở tầm vĩ mô, trong
phạm vi toàn quốc, trên địa bàn lãnh thổ địa phương.
- Quản lý nhà trường: QLGD ở tầm vi mô, trong phạm vi một đơn vị,
một cơ sở giáo dục.
Quản lý nhà trường là hệ thống những tác động có mục đích, có kế
hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý (Các cấp QLGD) nhằm làm cho nhà
trường vận hành theo quy luật giáo dục để đạt tới mục tiêu giáo dục đặt ra
trong từng thời kỳ phát triển của đất nước.


18


Tác giả Kônđacốp định nghĩa: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn
chỉnh, chúng ta hiểu quản lý nhà trường là một hệ thống xã hội sư phạm
chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và
hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường,
nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về các mặt kinh tế xã hội, tổ chức sư phạm
của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang lớn lên”
Nhà trường là một thể chế xã hội hoàn chỉnh, một cơ quan giáo dục
chuyên biệt thực hiện chức năng giáo dục đào tạo của nhà nước, của cộng
đồng xã hội, chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống. Quản lý nhà trường
là một phạm vi cụ thể của quản lý hệ thống giáo dục. Quản lý nhà trường thực
chất là quản lý hoạt động giáo dục trên tất cả các mặt, các khía cạnh liên quan
đến hoạt động GD&ĐT trong phạm vi một nhà trường.
Về mặt bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy,
điều khiển vận động của các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố. Mối
quan hệ đó do quá trình sư phạm trong nhà trường quy định, thông qua các
văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước và của ngành.
Công tác quản lý trường học chính là những công việc của nhà trường mà
người CBQL trường học thực hiện những chức năng quản lý theo yêu cầu và
nhiệm vụ quy định. Đó là các hoạt động có ý thức, có kế hoạch và có định
hướng của chủ thể quản lý tác động tới các hoạt động của nhà trường nhằm
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà trung tâm đó là hoạt động dạy và học
trong nhà trường. Có thể nói công tác quản lý trường học bao gồm việc giải
quyết sử lý các quan hệ nội bộ trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà
trường với các lực lượng giáo dục khác trên địa bàn. Ở góc độ cụ thể thì quản
lý trường học đó là việc người CBQL tổ chức, chỉ đạo và điều hành mọi hoạt
động của nhà trường, trong đó mọi hoạt động đều hướng tới hiệu quả của hoạt
động trung tâm là đạy và học đáp ứng được mục tiêu giáo dục.
Quản lý giáo dục nói chung và quản lý trường học nói riêng là hệ thống
những tác động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý



19

nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện các chính sách của nhà trường XHCN Việt Nam, mà điểm hội tụ là
quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái mới về chất.
Quản lý nhà trường bao gồm: Quản lý các quá trình giáo dục; Quản lý
các điều kiện cơ sở vật chất, tài chính và nhân lực.
Các quá trình giáo dục trong nhà trường gồm 6 thành tố có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau: Mục đích giáo dục (MĐ); Nội dung (ND); Phương pháp
giáo dục (PP); Giáo viên (GV); Học sinh (HS); Phương tiện giáo dục (PT).
Bản chất của công tác quản lý nhà trường là quá trình chỉ huy, điều khiển
sự vận động của các thành tố, đặc biệt là mối quan hệ giữa các thành tố. Mối
quan hệ đó là do quá trình sư phạm trong nhà trường quy định.
Quản lý trường học nói chung và quản lý trường tiểu học nói riêng là tổ
chức, chỉ đạo và điều hành quá trình giảng dạy của thầy và hoạt động học tập
của trò, đồng thời quản lý những điều kiện cơ sở vật chất và công việc phục
vụ cho dạy và học nhằm đạt được mục đích giáo dục, đào tạo.
1.2.6. Đội ngũ cán bộ quản lý
Theo Từ điển Tiếng Việt: Đội ngũ là tập hợp gồm số đông người cùng
chức năng, nhiệm vụ, nghề nghiệp hợp thành lực lượng hoạt động trong hệ
thống (tổ chức) và cùng chung một mục đích nhất định. [30]
Có thể hiểu đội ngũ là một tập thể gắn kết với nhau, cùng chung lý
tưởng, mục đích, ràng buộc nhau về vật chất, tinh thần và hoạt động theo một
nguyên tắc. Ví dụ: " Đội ngũ trí thức"; " Đội ngũ nhà giáo"; " Đội ngũ y bác
sỹ"...v.v. Khi xem xét đội ngũ người ta thường chú ý tới ba yếu tố tạo thành
đó là: Số lượng, cơ cấu đội ngũ; trình độ đội ngũ; phẩm chất, năng lực đội
ngũ.

Theo đó, đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học được hiểu là tập hợp
những người làm công tác quản lý ở các trường tiểu học, là những người thực


20

hiện điều hành quá trình giáo dục diễn ra trong nhà trường tiểu học, đây là
những chủ thể quản lý bên trong nhà trường.
1.2.7. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
Chúng ta đang sống trong thời kỳ của nền kinh tế tri thức, nền kinh tế tri
thức đã làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế lao động, nền kinh tế chủ yếu dựa vào
trí tuệ con người. Tri thức ngày càng trở thành nhân tố trực tiếp của chức
năng sản xuất. Đầu tư cho phát triển tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự
tăng trưởng kinh tế vững chắc. Như vậy người "nhạc trưởng" chỉ huy dàn
nhạc lúc này không thể như trước được nữa, đòi hỏi phải có trình độ cao hơn,
có khả năng quản lý, lãnh đạo giỏi hơn, có tầm nhìn chiến lược xa hơn. Vì
vậy, việc phát triển đội ngũ CBQL là điều tất yếu không thể thiếu được, đây
cũng là một phần việc quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực.
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý thực chất là xây dựng và phát triển cả ba
yếu tố: Quy mô, chất lượng, cơ cấu. Trong đó, quy mô được thể hiện bằng số
lượng. Cơ cấu thể hiện sự hợp lý trong bố trí về nhiệm vụ, độ tuổi, giới tính,
chuyên môn, nghiệp vụ...hay nói cách khác là tạo ra một ê kíp đồng bộ, đồng
tâm có khả năng hỗ trợ, bù đắp cho nhau về mọi mặt. Chất lượng là yếu tố
quan trọng nhất trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ quản lý.
Xét về quy mô, chất lượng, cơ cấu dưới góc nhìn về việc phát triển
nguồn nhân lực của nền kinh tế tri thức thì nội dung xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý bao gồm:
- Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý chính là thực hiện quy hoạch, đào tạo,
tuyển chọn, bổ nhiệm, sắp xếp bố trí (thể hiện bằng số lượng, cơ cấu).
- Sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý là triển khai việc thực hiện các chức

năng quản lý của đội ngũ, thực hiện bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý,
phẩm chất chính trị; đánh giá, sàng lọc.
- Tạo động cơ và môi trường cho sự phát triển là tạo điều kiện cho đội
ngũ cán bộ quản lý phát huy vai trò của họ như thực hiện tốt các chính sách
đãi ngộ, chế độ khen thưởng, kỷ luật, xây dựng điển hình tiên tiến nhân ra


21

diện rộng. Tạo cơ hội cho cá nhân có sự thăng tiến, tạo ra những ước mơ, hoài
bão kích thích cho sự phát triển. Tạo cơ hội cho cán bộ quản lý có điều kiện
học tập, bồi dưỡng, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm.
Từ những lý luận về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nêu trên ta thấy:
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý các trường tiểu học thực chất là xây dựng,
quy hoạch, bồi dưỡng, tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp bổ nhiệm, tuyển dụng
cũng như tạo môi trường và động cơ cho đội ngũ này phát triển. Để thực hiện
tốt việc này chúng ta cần nghiên cứu đặc điểm của từng địa phương, vùng
miền, số lượng và đặc trưng của các trường tiểu học, bối cảnh về chính trị,
kinh tế - xã hội hiện tại, yêu cầu chuẩn đối với cán bộ quản lý cùng những đặc
điểm tâm lý của người CBQL để đề ra nội dung, giải pháp cho phù hợp.
1.3. Một số vấn đề chung về nhà trường tiểu học
1.3.1. Vị trí của trường tiểu học
Điều 2 - Điều lệ trường Tiểu học xác định: "Trường Tiểu học là cơ sở
giáo dục của bậc Tiểu học, bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Trường tiểu học có tư cách pháp nhân và con dấu riêng". [5].
Tiểu học là bậc học nền tảng ban đầu trong việc hình thành, phát triển
nhân cách của con người. Đó là cơ sở nền tảng vững chắc cho giáo dục phổ
thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân.
Bậc tiểu học tạo ra những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho trẻ
em tiếp tục học nên bậc học trên, hình thành những cơ sở ban đầu, đường nét

ban đầu của nhân cách. Những gì thuộc về tri thức, kỹ năng về hành vi và
lòng nhân ái được hình thành và định hình ở học sinh tiểu học sẽ bám theo
suốt cuộc đời mỗi em. Nếu ở tiểu học đặt nền móng vững chắc và đúng hướng
thì lớp sau chỉ là củng cố và phát triển các tố chất ở trẻ. Chính vì lẻ đó mà ở
bất cứ nước nào cũng coi trọng giáo dục tiểu học và đòi hỏi ở mỗi chuẩn mực
chứa đựng những yếu tố khoa học, tính phổ cập, tính nhân văn, tính thời đại
và tính dân tộc.


22

1.3.2. Mục tiêu giáo dục tiểu học
Mục tiêu giáo dục tiểu học theo điều 27 - Luật Giáo dục: "Giáo dục tiểu
học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở". [27].
Mục tiêu quản lý trường tiểu học là quá trình sư phạm diễn ra trong nhà
trường, sử dụng có hiệu quả về nhân lực, tài lực, vật lực nhằm đạt hiệu quả
cao nhất.
Quản lý trường tiểu học chủ yếu là quản lý hoạt động dạy, học, các hoạt
động phục vụ cho việc dạy và học nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Mục tiêu cụ thể của giáo dục tiểu học trong giai đoạn hiện nay cần đạt
được một số vấn đề:
Củng cố, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước,
nâng tỷ lệ đạt chuẩn, củng cố vững chắc thành tựu PCGDTH – CMC.
Duy trì, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở bậc tiểu học, chuẩn bị
tốt các điều kiện cho học sinh học 2 buổi/ngày. Đổi mới phương pháp dạy và
học, dạy đủ các môn bắt buộc và tự chọn. Xây dựng và đánh giá các trường
theo chuẩn Quốc gia. Xây dựng các điều kiện bảo đảm việc giáo dục - đào tạo
học sinh về các mặt: đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng có hiệu quả.

1.3.3. Nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động quản lý của trường tiểu học
1.3.3.1. Trường tiểu học có những nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau
đây:
Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo chương
trình giáo dục tiểu học do Bộ GD&ĐT quy định.
Huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1, vận động trẻ em bỏ học đến trường, thực
hiện kế hoạch PCGDTH - CMC.
Quản lý giáo viên, nhân viên và học sinh.
Quản lý, sử dụng đất đai, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.
Phối hợp với gia đình học sinh để thực hiện tốt các hoạt động giáo dục.


23

Tổ chức giáo viên, nhân viên và học sinh tham gia hoạt động xã hội.
1.3.3.2. Hoạt động quản lý của trường tiểu học
Trường tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Trường tiểu học vừa là một thiết chế xã hội trong quản lý quá trình đào tạo
trung tâm vừa là một bộ phận của cộng đồng trong guồng máy giáo dục quốc
dân. Hoạt động quản lý của trường tiểu học thể hiện đầy đủ bản chất của hoạt
động quản lý, mang tính xã hội, tính khoa học, tính kỹ thuật và nghệ thuật cao.
Chủ thể quản lý của trường tiểu học chính là bộ máy quản lý giáo dục
trường học (Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng).
Trong các trường tiểu học hiện nay cơ cấu bộ máy quản lý và các mối
quan hệ, phối hợp các lực lượng quản lý bao gồm:
- Hiệu trưởng và phó hiệu trưởng do nhà nước bổ nhiệm chịu trách
nhiệm quản lý các hoạt động của nhà trường. Hiệu trưởng được bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ, quản lý các hoạt động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng.
- Tổ chức Đảng trong nhà trường tiểu học lãnh đạo nhà trường và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

- Công đoàn giáo dục, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ
chức xã hội khác hoạt động trong trường theo quy định của pháp luật giúp nhà
trường thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo dục.
- Mỗi trường tiểu học có một giáo viên tổng phụ trách Đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh và sao nhi đồng, có trách nhiệm phối hợp với nhà trường
tổ chức và quản lý các hoạt động của Đội và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp.
Sự phối hợp giữa chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong nhà trường
tạo nên một sức mạnh tổng hợp trong việc quản lý trường học.
Mỗi trường tiểu học chịu sự quản lý trực tiếp về chuyên môn, hành chính
của Phòng GD&ĐT, thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ của đơn vị hành
chính sự nghiệp đóng trên địa bàn xã (phường, thị trấn).


24

1.3.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng
1.3.4.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hiệu trưởng trường tiểu học
Theo Điều lệ trường Tiểu học, Hiệu trưởng trường tiểu học có những
nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản sau:
+ Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; lập kế hoạch và tổ chức
thực hiện kế hoạch dạy học, giáo dục từng năm học; báo cáo, đánh giá kết quả
thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền;
+ Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn
trong nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó. Đề xuất các thành viên của Hội
đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định;
+ Phân công, quản lý, đánh giá, xếp loại; tham gia quá trình tuyển dụng,
thuyên chuyển; khen thưởng, thi hành kỷ luật đối với giáo viên, nhân viên
theo quy định;
+ Quản lý hành chính; quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài

chính, tài sản của nhà trường;
+ Quản lý học sinh và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường; tiếp
nhận, giới thiệu học sinh chuyển trường; quyết định khen thưởng, kỷ luật, phê
duyệt kết quả đánh giá, xếp loại, danh sách học sinh lên lớp, ở lại lớp; tổ chức
kiểm tra, xác nhận việc hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh trong
nhà trường và các đối tượng khác trên địa bàn trường phụ trách;
+ Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý;
tham gia giảng dạy bình quân 2 tiết trong một tuần; được hưởng chế độ phụ
cấp và các chính sách ưu đãi theo quy định;
+ Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở và tạo điều kiện cho các tổ chức chính
trị - xã hội trong nhà trường hoạt động nhằm nâng cao chất lượng giáo dục;
+ Thực hiện xã hội hoá giáo dục, phát huy vai trò của nhà trường đối
với cộng đồng. [6]
Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng để đảm bảo thực hiện được những
yêu cầu về nhiệm vụ và quyền hạn nêu trên, đặc biệt trong bối cảnh giáo dục của


25

giai đoạn hiện nay, đòi hỏi người Hiệu trưởng phải không ngừng rèn luyện, phấn
đấu toàn diện về phẩm chất lẫn năng lực. Người Hiệu trưởng không chỉ là người
đại diện Nhà nước về mặt hành chính, thực thi các hoạt động quản lý trường học
mà còn là nhà sư phạm, nhà giáo dục có tâm hồn, thường xuyên chăm lo việc
nâng cao năng lực sư phạm và bồi dưỡng tâm hồn nhà giáo cho đội ngũ, có nhạy
cảm, giàu lòng nhân văn, có nghệ thuật đối xử khéo léo, có khả năng cảm hóa con
người. Người Hiệu trưởng không chỉ là người đi đầu trong công tác xã hội hóa
giáo dục, biết duy trì, phát triển và sáng tạo các định hướng giá trị của nhà trường
mà còn là người có khả năng tổ chức trong thực tiễn, luôn tìm tòi đổi mới hoạt
động quản lí, đổi mới các hoạt động sư phạm của nhà trường. Đặc biệt, để thực
hiện các nhiệm vụ đổi mới giáo dục trong thời kỳ CNH - HĐH hiện nay, người

Hiệu trưởng cần tận dụng các cơ hội để tìm kiếm các nguồn lực hỗ trợ cho các
hoạt động của nhà trường, vận động khai thác những nguồn kinh phí to lớn của
các tổ chức, lực lượng bên ngoài xã hội.
1.3.4.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Phó Hiệu trưởng trường tiểu học
Phó Hiệu trưởng là người giúp việc cho Hiệu trưởng và chịu trách nhiệm
trước Hiệu trưởng. Có uy tín về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, chuyên
môn, nghiệp vụ; có năng lực quản lý trường học và có sức khoẻ.
Chịu trách nhiệm điều hành công việc do Hiệu trưởng phân công;
Điều hành hoạt động của nhà trường khi được Hiệu trưởng uỷ quyền;
Dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ quản lý theo
quy định. [6]
1.3.5. Quy định hạng trường tiểu học
Hạng trường được quy định theo cơ cấu vùng, miền và theo số lớp học
mỗi trường của mỗi vùng miền. Quy định hạng trường giúp cho việc thực
hiện chế độ phụ cấp của Nhà nước đối với cán bộ quản lý nói chung, cán bộ
quản lý trường tiểu học nói riêng được công bằng hơn. Hạng trường của cấp
Tiểu học được quy định như sau:


×