Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.49 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TRẰN THỊ HẢO

VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI ĐỐI VỚI
Sự PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ CỦA TRẺ MẪU
GIÁO
KHOÁ LUÂN TỐT NGHIÊP ĐAI HOC
Chuyên ngành: Tâm lý học
Người hướng dẫn khoa học TS.GVC. NGUYỄN

ĐÌNH MẠNH

HÀ NỘI- 2015
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tói thầy giáo Nguyễn Đình Mạnh - TS. Giảng viên
chính tổ Tâm Lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo giúp em thực hiện tốt đề tài.
Em xin cảm ơn Ban Giám hiệu trường, các cô giáo Trường Mầm non Hoa Sen Thành phố Vĩnh Yên đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài.


Với điều kiện thời gian nghiên cứu và vốn kiến thức còn hạn chế, chắc chắn đề tài sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô và các
bạn đồng nghiệp để đề tài này thực sự có chất lượng và hữu ích.
LỜI CẢM ƠN

Em xỉn chân thành cảm 0'n!

Hà Nội, tháng 04 năm 2015 Sinh viên

Trần Thị Hảo


Tôi xin cam đoan đề tài: “Vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ mẫu giáo” là kết quả mà tôi đã trực tiếp nghiên cứu và điều ưa tại Trường Mầm non

Hoa Sen Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc. Trong quá t rình nghiên cứu tôi có sử dụng một
số tài liệu của một số nhà nghiên cứu, một số tác giả khác. Tuy nhiên, đó chỉ là cơ sở để tôi
rút ra được những vấn đề càn tìm hiểu ở đề tài của mình. Đây là kết quả của riêng cá nhân
tôi, hoàn toàn không trùng với kết quả của các tác giả khác.
Neu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2015 Sinh viên
Trần Thị Hảo


MỤC LỤC


PHÀN 1: PHÀN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Việc giáo dục trẻ ở giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của trẻ ở các cấp học tiếp theo, bởi vậy, các nhà giáo dục không ngừng
quan tâm chăm sóc và đổi mới chương trình giáo dục nhằm cho trẻ được phát
triển toàn diện. Trong đó, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đóng vai trò hết sức
quan trọng vì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và tư duy chủ yếu sẽ đi cùng
trẻ đến suốt cuộc đời.
Nắm vững phát tiếng nói là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để trẻ
hình thành và phát triển hoàn thiện toàn bộ các chức năng tâm lý. Từ 3 đến 6
tuổi trong những điều kiện thuận lọi, trẻ bước đàu nắm được hệ thống ngữ âm,
ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ và trên cơ sở này giúp ttẻ phát triển nhanh chóng vốn
từ và cấu trúc ngữ pháp. Điều này giúp trẻ phát triển các mặt trí tuệ, tình cảm
một cách nhanh chóng từ đó hoàn thiện nhân cách cho trẻ.

Mỗi dân tộc đều có một kho tàng phong phú trò chơi trẻ em được tích
luỹ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Nhà tâm lý học nổi tiếng người pháp Henriwallon (1879-1962) khi nghiên cứu tâm lý trẻ em cũng đã xem trò chơi của trẻ
là một hình thức xã hội đáng quan tâm, mà trò chơi đóng vai theo chủ đề chiếm
một vị trí quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Với ttẻ mẫu giáo
vui chơi là hoạt động chủ yếu, qua các ừò chơi đóng vai theo chủ đề trẻ được
đóng vai nhân vật mình yêu thích, được làm công việc như người lớn, trẻ sẽ
cảm thấy mình đã lớn có say mê hứng thú hơn khi tham gia các hoạt động.
Trong khi chơi ừò chơi, ừẻ sẽ phải dùng ngôn ngữ để giao tiếp với các bạn
cùng chơi, trẻ học theo ngôn ngữ của ngưòi lớn,của bạn chơi trong các chủ đề
khác nhau,qua đó, trẻ lĩnh hội được nhiều vốn từ hơncho riêng bản thân mình,
vì thế mà các chức năng tâm lý, nhân cách của trẻ được hình thành và ngày
càng hoàn thiện, đặc biệt là ngôn ngữ sẽ phát triển bền vững. Như vậy, việc
phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề rất có hiệu quả.


Vấn đề xây dựng và tổ chức đóng vai theo chủ đề ở các trường mầm non
có ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ của ttẻ. Trong khi đó, việc tổ chức
cho ttẻ đóng vai theo chủ đề để phát triển ngôn ngữ cho ttẻ chưa thật sự được
trú trọng cũng như chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Cùng với đó, việc nghiên
cứu vai trò của trò hoạt động vui chơi mà trọng tâm là trò chơi đóng vai theo
chủ đề đối với trẻ mẫu giáo ở Việt Nam còn chưa có công trình nghiên cứu cụ
thể.
Với tất cả các lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Vai trò của hoạt động vui

choi đổi vói sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo”.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.

Mục đích nghiền cứu
Nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ thông qua trò


chơi đóng vai theo chủ đề, qua đó rút ra một số kết luận và kiến nghị nhằm
không ngừng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

2.2.1.

Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài:

* lìm hiểu các khái niệm:
Khái niệm ngôn ngữ
Khái niệm trẻ em và trẻ mẫu giáo nhỡ 5 tuổi.
Khái niệm vui chơi
Khái niệm trò chơi đóng vai theo chủ đề
2.2.2.

Nghiên cứu thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu

giáo nhỡ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề:
-Thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ.
- Tìm hiểu nguyên nhân có ảnh hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu
giáo nhỡ (đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề).
2.2.3. Thực nghiệm tác động vào quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ
mẫu giáo nhỡ thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
3.1.

Khách thể nghiên cứu



Trẻ mẫu giáo nhỡ Trường mầm non Hoa Sen - Thành phố Vĩnh Yên.
3.2.

Đổi tượng nghiên cứu

Vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
mẫu giáo nhỡ.
4. Giới hạn nghiên cứu của đề tài
4.1.

Khách thể nghiên cứu

* 90 trẻ mẫu giáo nhỡ, lớp 5 tuổi A và 5tuổi B Trường mầm non Hoa
Sen - Thành phố Vĩnh Yên.
4.2.

Đổi tượng

Chỉ nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ thông quatrò chơi đóng vai theo
chủ đề.
5. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài
Ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ ở lớp 5 tuổi A, 5 tuổi B trường Mầm non
Hoa Sen còn phát triển trung bình, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trên trong đó nội dung và hình thức của tổ chức ừò chơi đóng vai theo chủ đề
có ảnh hưởng quan trọng. Bằng sự đổi mới nội dung và phương pháp tổ chức
ừò chơi đóng vai theo chủ đề, có thể giúp cho ngôn ngữ của trẻ nhanh chóng
được phát triển.
6. Phương pháp nghiền cứu

6.1.

Phương pháp quan sát

Tiến hành quan sát chung về mức độ ngôn ngữ của trẻ, môi trường cho
trẻ chơi và dự giờ tiết học của cô giáo để nắm được vốn từ và khả năng diễn
đạt của trẻ. Quan sát hành động và ghi chép trung thành ngôn ngữ của trẻ .
6.2.

Phương pháp trò chuyện
Trao đổi với trẻ, vói cô giáo về đề tài nghiên cứu.Trò chuyện vói trẻ, hỏi

trẻ một số câu hỏi để tìm hiểu về vốn từ, khả năng diễn đạt, cảm xúc, hứng thú
của trẻ khi trẻ chơi trò chơi.
6.3.

Phương pháp trắc nghiệm.
Khoá luận sử dụng phương pháp trắc nghiệm để đo vốn từ và khả năng

sử dụng ngữ pháp của trẻ, phương pháp trắc nghiệm còn được sử dụng để thu


thập thông tín về thực trạng giáo tổ chức đóng vai theo chủ đề ở trường mầm
non Hoa Sen.
6.4.

Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Sau khi thu thập thông tin, người nghiên cứu tiến hành ghi lại, hệ thống

lại những từ ngữ, những kết cấu ngữ pháp mà trẻ nói trong quá trình tham gia

ừò chơi đóng vai theo chủ đề. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét, đánh giá về sự
phát triển vốn từ, cũng như cách phát âm, hay khả năng diễn đạt, khả năng sử
dụng ngữ pháp của trẻ.
6.5.

Phương pháp thực nghiệm tác động

Đe tài đã sử dụng phương pháp thực nghiệm tác động như sau:
Chia thành hai nhóm gồm: lớp 5 tuổi A và 5 tuổi B có số lượng trẻ bằng
nhau và có chất lượng ngôn ngữ tương đương nhau.
Nhóm thực nghiệm được tác động bằng trò chơi đóng vai theo chủ đề và
phương pháp tổ chức riêng.
Nhóm đối chứng được dạy bằng nội dung và phương pháp tổ chức trò
chơi đóng vai theo chủ đề như Trường mầm non Hoa Sen vẫn dạy.
Sau một thời gian thực nghiệm tác động xem sự phát triển ngôn ngữ của
trẻ nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng có gì khác nhau không?
Cấu trúc khoá luân Phần 1: Mở đầu Phần 2: Nội dung

Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài Chương 2: Khảo sát thực trạng
Chương 3: Thực nghiệm tác động Phần 3: Kết luận và kiến nghị
PHÀN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: Cơ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐÈ TÀI


1.1.

Lịch sử nghiên cứu đề tài

Loài người từ thủa sơ khai đã sáng tạo ra ngôn ngữ, một hệ thống tín hiệu
đặc biệt dùng làm phương tiện cơ bản và quan trọng nhất trong giao tiếp giữa
các thành viên trong cộng đồng người. Cũng tò đó, ngôn ngữ được phát triển

cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Ngôn ngữ chính là một trong
những yếu tố nâng tầm cao của con người về chất so với mọi giống loài.
Với mỗi cá nhân, sự phát triển ngôn ngữ diễn ra cực kỳ nhanh ở giai đoạn
từ 0-6 tuổi (lứa tuổi mầm non). Từ chỗ sinh ra chưa có ngôn ngữ đến cuối 6


tuổi - chỉ một thời gian rất ngắn so với cả một đời người, ttẻ đã có thể nói
thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày vì đây là giai đoạn phát cảm
về ngôn ngữ. Chính vì vậy, ngôn ngữ nói chung và ngôn ngữ trước tuổi học là
vấn đề nhiều nhà khoa học trên thế giới ừong và ngoài nước quan tâm thuộc
các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau như Sinh học, Xã hội học, Giáo dục học,
Tâm lý học...
Việc nghiên cứu ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi mầm non ( 0 - 6 tuổi) được các
tác giả quan tâm và tiếp cận ở các góc độ khác nhau ttong sự phát triển ngôn
ngữ của ttẻ với các xu hướng nghiên cứu sau:
Xu hướng 1 : Nghiên cứu sự phát triển các thành phần ngôn ngữ của trẻ:
Vốn từ, khả năng hiểu từ, ngữ pháp ở các độ tuổi khác nhau có các công trình
nghiên cứu của Lê Thị Lan (1996) “ Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ
em từ 1 -6 tuổi” [19] đã chỉ rõ các bước phát triển về ngữ âm của trẻ em bắt
đầu từ giai đợn tiền ngôn ngữ ( 0 - 1 tuổi), giai đoạn ngôn ngữ (1-6 tuổi)
Xu hướng 2: nghiên cứu các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm
non với các tác giả tiêu biểu như EI. Tikheeva đã đề ra phương pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ một cách có hệ thống, trong đó cần tổ chức cho trẻ tìm hiểu
thế giới thiên nhiên xung quanh trẻ, dạo chơi, xem tranh, kể chuyện cho trẻ
nghe, tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “ Phương pháp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ mẫu giáo” đã đưa ra một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho ttẻ.
Xu hướng 3: Nghiên cứu đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ em từ 0 6
tuổi theo từng giai đoạn lứa tuổi với các tác giả GI. Liamina (1960), V.I
Iadenco (1966)
Việc sử dụng trò chơi trong dạy học không phải là vấn đề mới được dặt ra

mà ngay từ đầu thế kỷ XX, nhà tâm lý học Thuỵ Sỹ J. Paget đã rất quan tâm
đến phương pháp này “thông qua hoạt động vui chơi để tiên hành hoạt động
học tập”, bàn về phương pháp này có thể kể đến L. Vưgôtski, A.p. Uxôva...
Năm 1974, trong tạp chí văn học ở trường học Mát-xcơ- va số 2 (trang 53)
B.c. Giê-nhi-xkai-a đã cho rằng “chúng ta không những phải tạo cho trẻ thì giờ


để chơi mà còn làm cho toàn bộ cuộc sống của trẻ được nuôi dưỡng bằng ừò
chơi”.
Ở Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm đến việc sử dụng phương
pháp này trong từng môn học cụ thể. Đó là PGS. TS Nguyễn Ánh Tuyết với
cuốn sách “Giáo dục mầm non những vấn đề lý luận và thực tiễn”, hay “tâm lý
học trẻ em lứa tuổi mầm non”,.» Trong những cuốn sách này tác giả đề cập đến
vai ttò của trò của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với sự phát triển ngôn ngữ
của trẻ em một cách khái quát, hay các báo cáo khoa học của cố GS. TS
Nguyễn Khắc Viện cũng đã phân tích làm rõ tầm quan trọng của trò chơi đóng
vai theo chủ đề ở lứa tuổi mãu giáo. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu
cụ thể cách thức xây dựng nội dung chương trình, và phương pháp tổ chức
đóng vai theo chủ đề, để qua đó phát triển ngôn ngữ cho ttẻ mẫu giáo nói
chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng.
1.2.

Ngôn ngữ và sự hình thành phát triển ngôn ngữ

1.2.1.

Khái niệm ngôn ngữ

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp cơ
bản và quan ttọng nhất của các thành viên ttong cộng đồng người. Ngôn ngữ

đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn
hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử mà sử mà sự hình thành dân tộc và ngôn ngữ
dân tộc mỗi nơi, mỗi thời kỳ một khác, theo những con đường khác nhau. Mác
và Ăngghen đã viết: “Trong bất cứ ngôn ngữ phát triển nào hiện nay, cái
nguyên nhân khiến cho ngôn ngữ phát sinh một cách tự phát, được nâng lên
thành ngôn ngữ dân tộc, thì một phàn là do ngôn ngữ đó được phát triển một
cách lịch sử tò chỗ nó được chuẩn bị đầy đủ về tư liệu, như ngôn ngữ La Mã và
ngôn ngữ Giescmani chẳng hạn, một phần là do sự giao dịch và hỗn hợp của
các dân tộc, như tiếng Anh chẳng hạn; một phần nữa là do các phương ngữ tập
trung thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất và sự tập trung đó lại do sự tập trung
kinh tế, chính trị quyết định”.


1.2.2.

Các bộ phận và các đơn vị của ngôn ngữ

a. Các bộ phận của ngôn ngữ
Ngôn ngữ gồm ba bộ phận: ngữ âm , từ vựng, ngữ pháp hệ thống các quy
tắc, quy định sự ghép các bộ phận thành câu. Trong kết cấu ngôn ngữ, từ vựng
thuộc vào ngoại biên về nghĩa vì nó trực tiếp gọi tên các sự vật, hiện tượng
thực tế; còn ngữ âm phụ thuộc vào ngoại biên về chất liệu YÌ nó trực tiếp được
tích luỹ bỏi giác quan của con người. So vói ngữ âm và từ vựng thì ngữ pháp
luôn luôn là gián tiếp, không có tính chất cụ thể. Nó chỉ liên hệ với thực tế
thông qua từ vựng, chỉ lĩnh hội được thông qua ngữ âm. Vì vậy, ngữ pháp
chiếm vị trí trung tâm ttong kết cấu ngôn ngữ.
b. Các đơn vị của ngôn ngữ
* Âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể phát âm ra được
trong chỗi lời nói. Ví dụ: các âm [r], [t], [h],... hoàn toàn không thể chia nhỏ

chúng hơn.
Ấm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa. Ví dụ:“Hổ”

là một loài động vật ăn thịt sống trong rừng, còn “Rổ” là một vật dụng dùng để
đựng trong gia đình. Cái làm ta phân biệt được hai nghĩa đó không phải là bộ
phận ngữ âm trùng nhau (ổ) mà do đối lập giữa [h] và [r].
* Hình vị: là một hoặc chuỗi kết hợp vài âm vị, biểu thị một khái niệm. Nó là đơn
vị nhỏ nhất có nghĩa. Chức năng của hình vị là chức năng ngữ nghĩa. Ví dụ
trong phát ngôn “Ngày mai tôi nghỉ học” sẽ có năm hình vị là
“Ngày/mai/tôi/nghỉ/học”.
Hình yị thường có hình thức cấu tạo một âm tiết, tức là mỗi hình vị trùng
với một âm tiết, trên chữ viết mỗi hình vị được viết thành một chữ. Hình vị
trong Tiếng Việt có thể đóng vai trò như một từ nhưng nó không phải là từ vì
từ gồm hình vị và âm tiết.
* Từ là chuỗi kết họp của một hoặc một vài hình yị mang chức năng gọi tên và
chức năng ngữ nghĩa. Ví dụ các từ: Tủ, ghế, đi, cười...
* Câu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ, chức năng của nó là chức năng
thông báo.


Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình yị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản...
bất cứ thứ tiếng, ngôn ngữ nào,cũng chứa đựng hai phạm trù: phạm trù ngữ
pháp và phạm trù logic. Phạm trù ngữ pháp là một hệ thống các quy định việc
thành lập từ và câu cũng như quy định sự phát âm, phạm trù này ở các thứ
tiếng khác nhau là khác nhau. Phạm trù logic là quy luật, YÌ vậy tuy dùng các
thứ tiếng khác nhau, nhưng các dân tộc khác nhau vẫn hiểu được nhau.
Tóm lại, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu đặc biệt, dùng làm phương tiện
giao tiếp và công cụ tư duy.
1.2.3.


Chức năng của ngôn ngữ

Ngôn ngữ có hai chức năng cơ bản sau:
a. Thứ nhất, ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức
Quá trình hình thành của trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để phát
triển tư duy, trí tuệ là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực (sự hiện hữu) của
tư duy. Chức năng giao tiếp của ngôn ngữ gắn liền với chức năng thể hiện tư
duy của nó, bỏi vì việc giao tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp ta trao đổi tư
tưởng, tình cảm với nhau, do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng tổ chức công tác
chung trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản thân ngôn ngữ tàng trữ kinh
nghiệm, những tư tưởng và tình cảm của con người.
Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ thể hiện ở cả hai khía cạnh:
+ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ nào, câu
nào mà lại không không biểu hiện khái niệm hay tư tưởng. Ngược lại không có
ý nghĩ tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ.
+ Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý
nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Không có
ngôn ngữ thì không có tư duy và ngược lại không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là
những âm thanh, kí hiệu trống rỗng, thực chất là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi: Đây là những hoạt động
chủ yếu ở trường mầm non, trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó
như một công cụ để vui chơi, học tập. Như vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các
hoạt động và ngược lại, hoạt động tạo cho ngôn ngữ trẻ phát triển.


b. Thứ hai, ngôn ngữ là công cụ giao tiếp
“ Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là
một trong những đặc trưng quan trọng của con người. Ngôn ngữ là phương tiện
giao tiếp quan ttọng nhất” (Lênin). Nhờ có ngôn ngữ mà con người hiểu được
nhau, cùng nhau hành động vì mục đích chung. Không có ngôn ngữ, không thể

giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại được, nhất là trẻ em.
Không ai có thể phủ nhận ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con
người. Ngay cả những bộ phận lạc hâu nhất mà người ta đã phát hiện ra cũng
dùng ngôn ngữ để nói chuyện với nhau. Ngoài ngôn ngữ, còn có những
phương tiện giao tiếp khác như cử chỉ, các loại dấu hiệu, kí hiệu khác nhau,
những kết hợp âm thanh của nhạc, màu sắc hội hoạ...
Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá trình sinh
hoạt và lao động, mà ngưòi ta có thể diễn đạt làm cho người khác hiểu được tư
tưởng, tình cảm, trạng thái và nguyện yọng của mình. Có thể hiểu biết lẫn
nhau, con người mớ đồng tâm hiệp lực chinh phục thiên nhiên, chinh phục xã
hội, làm cho xã hội ngày càng tiến lên.
1.3.

Sự hình thành, phát triển ngôn ngữ của cá nhân

1.3.1.

Ngôn ngữ nói

Bắt đầu từ tháng 12 trở đi, ở trẻ sẽ xuất hiện những âm bập bẹ có ý nghĩa
đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào giao tiếp với người lớn. Các
âm bập bẹ nhanh chóng mất đi, nhường chỗ chỗ cho các từ tham gia vào cấu
tạo câu trong giao tiếp. Những từ đầu tiên xuất hiện, các kiểu câu đơn giản
gồm hai đến ba từ khiến cho khả năng giao tiếp của trẻ tăng lên. Trẻ tích cực
hơn ừong giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu giao tiếp tăng
lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, kết quả là những kỹ năng giao
tiếp ngôn ngữ được hình thành.
1.3.1.

Ngôn ngữ viết


Trẻ luyện viết là hoạt động học tập hứng thú và tự giác. Chính YÌ vậy,
khi dạy viết cho trẻ quan trọng nhất là giải thích để trẻ hiểu được mục đích của
việc luyện viết (lưu ý trẻ mẫu giáo chưa tiến hành hoạt động học tập). Giáo


viên mầm non chỉ khuyến khích cho ttẻ nhận thức được tầm quan trọng của
chữ viết. Trẻ sẽ tự giác ngồi vào vẽ chữ. Khi trẻ bắt đầu có hứng thú với chữ
viết, cô nên chuẩn bị dụng cụ để giúp trẻ luyện viết tại góc luyện viết (bút chì,
bút vẽ, bút màu...)
1.4.
1.4.1.

Trẻ mẫu giáo
Khái niêm trẻ em

Theo quan niệm cổ: “ Trẻ em là ngưòi lớn thu nhỏ lại”.
Ở thế kỷ XVIII, nhà giáo dục, nhà văn, nhà triết học J J. Kơrutxô quan
niệm: “Trẻ em không phải là nhưòi lớn thu nhỏ lại. Trẻ em là trẻ em, phát triển
theo quy luật riêng của trẻ em. Người lớn không thể hiểu được tâm lý trẻ em và
không nên can thiệp vào sự phát triển của trẻ em”.
Quan niệm khoa học về trẻ em:
Trẻ em là một thực thể đang phát triển, là một thực thể tự vận động theo
quy luật của bản thân nó. Người lớn là hình thức phủ định của trẻ em, là giai
đoạn phát triển mới của đời sống cá thể. Sự vận động tất yếu của trẻ em là do
quá trình phát triển bên trong của nó, sự tự phủ định bản thân mình để chuyển
hoá sang một trình độ mới khác về chất - Nên người.
1.4.2.

Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ mẫu giáo nhỡ (5 tuổi)

Trẻ mẫu giáo nhỡ là trẻ em trong độ tuổi 4 -5 tuổi. Ở lứa tuổi này đã có

bước phát triển rõ nét hơn so vói mẫu giáo bé với các đặc điểm nổi bật:
* Hoàn thiện hoạt động vui chơi và hình thành xã hội trẻ em.
Ở tuổi mẫu giáo bé, hoạt động vui chơi đã phát triển mạnh, tuy nhiên
đến tuổi mẫu giáo nhỡ thì trò chơi đó mới đạt tới mức chính thức tức là nó biểu
hiện đày đủ nhất đặc điểm của hoạt động vui chơi, nhiều hơn cả là trò chơi
đóng vai theo chủ đề. Trong hoạt động vui chơi, trẻ mẫu giáo nhỡ biểu hiện rõ
rệt tính tự lực, tự do và chủ động, tình cảm, ý chí, nói năng đều tỏ ra tích cực
và chủ động như : Tự chọn chủ đề, nội dung chơi, tự lựa chọn bạn chơi cùng,
tự rút khỏi trò chơi mà mình đã chán và chơi trò mà mình thích, đặc biệt, trẻ
mẫu giáo nhỡ đã biết thiết lập các quan hệ rộng rãi hình thành “Xã hội ttẻ em”.
* Giai đoạn mẫu giáo nhỡ phát triển mạnh tư duy trực quan hình tượng


Trẻ mẫu giáo nhỡ, vốn biểu tượng tăng, lòng ham hiểu biết và lòng ham
hiểu biết tăng lên rõ rệt. Tư duy phát triển, phàn lớn trẻ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ
đã có khả năng giải các bài toán bằng các “phép thử ngầm trong óc” dựa vào
các biểu tượng, kiểu tư duy trực quan hình tượng đã bắt đầu chiếm ưu thế.
* Sự phát triển đòi sống tình cảm
Ở lứa tuổi mẫu giáo, nhất là mẫu giáo nhỡ, tình cảm của trẻ phát triển
mãnh liệt, đặc biệt là tính đồng cảm và tính dễ xúc cảm với con ngừi và cảnh
vật xung quanh. Đây là thời điểm rất thuận lợi để giáo dục lòng nhân ái cho trẻ.
* Phát triển động cơ hành vi và hình thành hệ thống thứ bậc các động cơ
Cuối tuổi mẫu giáo bé, trong hành vi trẻ đã xuất hiện các động cơ khác
nhau, nhưng các động cơ ấy còn mờ nhạt, tản mạn.
Đến tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện trước đây như muốn
khảng định, muốn được sống và làm việc như người lớn... đều được phát triển
mạnh mẽ đặc biệt là các động cơ đạo đức. Những động cơ xã hội - muốn làm
một cái gì đó cho người khác, mang lại niềm vui cho ngưòi khác bắt đàu chiếm

ưu thế trong số các động cơ đạo đức. điều quan trọng trong lứa tuổi này là hinh
thành quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc của các động cơ, được gọi là hệ thống
thứ bậc các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý mới trong sự phát triển nhân
cách của trẻ mẫu giáo.
1.4.3.

Sự phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo

Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong “ Phương pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, trẻ 1 năm đến 1 năm 5 tháng, ừẻ đã bắt
chước người lớn, lặp lại những từ nghe được: Bà, bố, mẹ, măm, ủ (ngủ)... số
lượng từ có thể đạt từ 30- 40 từ. Đen cuối năm thứ 2, số lượng từ có thể tăng
đến gần 600 từ. Trẻ 4 tuổi, vốn từ đã đạt tới hơn 1000 từ.
Theo một nghiên cứu của Lưu Thị Lan (1994) sự phát triển vốn từ của
trẻ mẫu giáo nước ta như sau:
Sô tháng tuôi

39

48

60

72

Sô từ trung bình

515

724


890

1023


Như vậy, xét về mặt số lượng, trẻ càng lớn vốn tò càng tăng, vốn tò của
trẻ phát triển mạnh ở tuổi lên 3.
Xét về mặt cơ cấu từ loại, số lượng từ là danh từ chiếm số lượng nhiều
nhất (50%), động từ ( 27%), tính từ ( 11%), còn lại là các từ loại khác ( trạng
từ, đại từ, số từ...)
Những từ được các cháu sử dụng chủ yếu là các từ mà các cháu thường
xuyên tiếp xúc, là những từ chỉ những việc làm của các cháu hoặc của mọi
ngưòi xung quanh (ăn, ngủ, tắm, rửa, quét, đi, nằm, bế,cõng...) hoặc là những
tò chỉ hành động của những con vật (Gà mổ thóc, chó cắn, cá bơi, mèo cào...)
1.4.4.

Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ

+ Vốn từ: Vốn từ của trẻ mẫu giáo nhỡ tăng lên đến hơn 1000 từ, trong đó,
danh tò, động tò vẫn chiếm ưu thế,
Trẻ mẫu giáo nhỡ 4 -5 tuổi phát âm có tiến bộ hơn so với trẻ mẫu giáo
bé (3 -4 tuổi), trẻ phát âm rõ hơn, dứt khoát hơn, ít ngọng hơn song vẫn hay
sai âm đầu và âm đệm, thanh ngã.
Ở trẻ đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu,
âm tiết... Tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ có thể nghe nhầm, phát âm
nhầm các âm yị “t” = “ch” (ví dụ “tôm to” trẻ mói là “chôm cho”, dễ bị nhoè
các phụ âm như “1” phát âm thành “nh”.
+ Việc nắm vững ngữ pháp của trẻ 4 - 5 tuổi có tiến bộ hơn trẻ 3 - 4 tuổi. Câu
nói của trẻ dài hơn, ít câu cụt hơn. Khi nói câu còn chưa đúng, chưa chuẩn về

mặt ngữ pháp, trẻ biết sửa nhưng không biết vì sao phải sửa, trẻ đã sử dụng
các câu phức hợp nhiều hơn mẫu giáo bé, có thể kể một số chuyện ngắn một
cách tuần tự...
+ Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống. Khi giao tiếp với
mọi người xung quanh, trẻ thường gắn liền ngôn ngữ của mình với các sự vật,
hoàn cảnh, con người đang xảy ra. Ví dụ bé H nhìn thấy chị gái cầm cặp sách
đi học, bé H đòi mẹ: “Mẹ ơi! Mua cặp sách cho H đi học!”...
Ở tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ phải nắm được vốn từ càn thiết đủ để cho
chúng giao tiếp với bạn bè, người lớn, tiếp thu các tri thức trong trường mầm


non, xem các chương trình truyền hình, truyền thanh... Vì thế, Giáo dục học
mẫu giáo coi việc hình thành vốn từ là một nhiệm vụ quan trọng trong nội
dung giáo dục trẻ.
1.5.

Hoạt động vui choi và trò choi đóng vai theo chủ đề

1.5.1.

Hoạt động vui choi
Hoạt động vui chơi là một trong các loại hình hoạt động của trẻ ở trường

mầm non, nhưng vui chơi mà trung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ đề được
coi là hình thức hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo được ngưòi lớn tổ chức
nhằm giúp trẻ thoả mãn nhu càu vui chơi và nhận thức, đồng thời nhằm giáo
dục và phát triển toàn diện tâm lý ở lứa tuổi này.
Vui chơi là hoạt động chủ đạo không chỉ vì trẻ mẫu giáo dành nhiều thời
gian cho nó, mà chính là ừò chơi mà trung tâm là ừò chơi đóng vai theo chủ đề
đã gây ra những biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ. Nó chi phối các dạng

hoạt động khác làm cho chúng mang màu sắc độc đáo của tuổi mẫu giáo.
* Đặc điểm của hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo
a. Vui chơi là dạng hoạt động không mang tính bắt buộc, trẻ tham gia nhiệt tình
do chính sức hấp dẫn của trò chơi.
Ví dụ: Trò chơi " khám bệnh " hấp dẫn trẻ là việc bác sĩ đeo ống nghe
vào tai, đặt ống nghe lên ngực người bệnh.
Vậy động cơ của vui chơi nằm ngay trong quá trình hoạt động , nên trò
chơi mang tính tự nguyện rất cao.Đây là tính chất đặc biệt của vui chơi.
b. Đối với trẻ, trò chơi là một dạng hoạt động mang tính tự lập. Trong khi chơi,
trẻ mẫu giáo thể hiện rõ ý thức làm chủ, trẻ hoạt động hết mình, tích cực và
độc lập. Trong hoạt động vui chơi, người lớn chỉ có thể gợi ý, hướng dẫn mà
thôi.
c. Trong trò chơi đóng vai theo chủ đề, đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các
thành viên trong trò chơi với nhau. Trò chơi đối với trẻ mẫu giáo thường phản
ánh một mặt nào đó của xã hội ngưòi lớn xung quanh. Bỏi vậy, để tiến hành
một trò chơi thì nhất thiết phải có nhiều trẻ em tham gia. Tính hợp tác là một
nét phát triển mớitrong vui chơi của trẻ mẫu giáo.


d. Trò chơi của tuổi mẫu giáo mang tính chất ký hiệu - tượng tnmg. Trong khi
chơi, mỗi đứa trẻ đều tự nhận cho mình một vai nào đó và thực hiện hành động
phù họp với vai chơi, nhưng đấy chỉ là hành động giả vờ. Trong khi chơi, trẻ
còn lấy vật này thay thế vật kia và tự đặt tên cho vật thay thế, rồi sử dụng vật
thay thế đó cho phù họp vói tên gọi của nó.
1.5.2.

Trò chơi đóng vai theo chủđề

1.5.2.1.


Khái niêm
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là mô hình quan hệ xã hội của người lớn

và là phương tiện định hướng cho trẻ vào mối quan hệ đó. Hay nói cách khác,
trò chơi đóng vai theo chủ đề là cho trẻ ướm thử vào vị trí của người nào đó và
bắt chước hành động của người đó.
1.5.2.2.

Đặc điểm của trò ch(ri đóng vai theo chủ đề
Trò chơi đóng vai theo chủ đề là do trẻ tự nghĩ ra (tự nghĩ ra dự định

chơi, lập kế hoạch chơi, chọn bạn chơi, phân vai chơi...) trẻ luôn đứng ở vị trí
chủ thể để hành động (chủ thể thiết lập mối quan hệ với bạn cùng chơi, phát
triển trò chơi,...)
Trò chơi đóng vai theo chủ đề bao giờ cũng có các vai, có chủ đề, có nội
dung và các mối quan hệ (quan hệ thực và quan hệ chơi), có hoàn cảnh tưởng
tượng. Tất cả các thành tố này có liên quan mật thiết và bổ sung cho nhau. Neu
thiếu một trong hai thành tố kể trên thì lúc ấy không được gọi là trò chơi đóng
vai theo chủ đề nữa.
Trò chơi đóng vai theo chủ đề mang tính tự nguyện, sáng tạo, tính tự lập
cao hơn so với một số trò chơi khác.
1.5.2.З. Cấu trúc của trò chơi đóng vai theo chủ đề
Cấu trúc là các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố.
a. Chủ đề và nội dung chơi
Chủ đề của trò chơi là mảng hiện thực được trẻ phản ánh vào trong trò
chơi (chủ đề dạy học, chủ đề gia đình...)
Nội dung là hoạt động của người lớn được trẻ em nhận thức và được tái
tạo lại trong trò chơi.



Nội dung được phức tạp dàn theo trình độ phát triển của trẻ
+ Ở trẻ mẫu giáo bé (4 tuổi): trẻ tái tạo những hành động của người lớn.
+ Ở trẻ mẫu giáo nhỡ (5 tuổi): có thêm nội dung mới đó là quan hệ giữa
người với người trong quá trình hoạt động chung.
+ Ở trẻ mẫu giáo lớn: Ngoài hai nội dung trên trẻ tái tạo mối quan hệ
bên trong cả về tình cảm và đạo đức...
b. Vai chơi và hành động chơi
Vai chơi là một yếu tố tạo nên trò chơi.
Hành động chơi đó là những hành động mà trẻ em nhận thức được qua
những hành động của người lớn.
c. Các quan hệ của trẻ trong trò chơi
Trong ừò chơi có hai mối quan hệ chơi
+ Quan hệ thực: Quan hệ giữa trẻ em và người khác trong quan hệ chơi.
+ Quan hệ chơi: Đó là mối quan hệ giữa các vai chơi, sức sống của ttò
chơi phụ thuộc vào sự thiết lập và vận hành mối quan hệ giữa các vai chơi.
d. Đồ chơi và hoàn cảnh chơi
Đồ chơi là vật thay thế cho vật thật. Có hai loại đồ chơi là:
+ Đồ chơi người lớn làm cho trẻ
+ Đồ chơi do trẻ tự làm ra: trẻ lấy vật này thay thế cho vật khác (lá tiền)
Trong bốn yếu tố trên thì chủ đề và nội dung chơi quyết định tất cả các
yếu tố còn lại.
1.5.2.4.

Vai trò của trò chơi trong sự phát triển tâm lý của trẻ mẫu

giáo:
a. Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh tới sự hình thành tính chủ định
của quá trình tâm lý. Trong trò chơi, trẻ bắt đàu hình thành chú ý có chủ định
và ghi nhớ có chủ định. Khi chơi ừẻ tập trung chú ý tốt hơn và ghi nhớ được
nhiều hơn.



b. Tình huống trò chơi và những hành động của vai chơi ảnh hưởng tới
sự phát triển của hoạt động trí tuệ của trẻ mẫu giáo. Trò chơi góp phần rất lớn
vào việc chuyển tư duy từ bình diện bên ngoài ( tư duy trực quan - hành động)
vào bình diện bên trong (tư duy trực quan - hình tượng), giúp cho trẻ tích luỹ
biểu tượng làm cơ sở cho hoạt động tư duy, cũng giúp cho trẻ lập kế hoạch
hành động và tổ chức hành vi của bản thân mình.
c. Vui chơi ảnh hưởng rất lớn đến đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
mẫu giáo. Tình huống trò chơi đòi hỏi mỗi đứa trẻ tham gia vào trò chơi phải
có một trình độ giao tiếp bằng ngôn ngữ nhất định để diễn đạt được nguyện
vọng và ý kiến của mình đối với trò chơi, không đáp ứng được những yêu cầu
của việc cùng chơi thì nó không thể nào tham gia trò chơi được. Vì vậy, trẻ
phải phát triển ngôn ngữ một cách mạch lạc.
d. Trò chơi đóng vai theo chủ đề có ý nghĩa quyết định đối với sự phát
triển trí tưởng tượng của trẻ mẫu giáo. Trong hoạt động vui chơi, đứa ttẻ học
thay thế đồ vật này bằng các đồ vật khác, nhận đóng các vai khác nhau. Đó là
cơ sở để phát triển trí tưởng tượng.
e. Trò chơi đóng vai theo chủ đề có tác động rất mạnh đến sự phát triển
đời sống tình cảm trẻ mẫu giáo. Khi vui chơi trẻ tỏ ra vui sướng và nhiệt tình
và phản ánh vào ừò chơi những mối quan hệ giữa người và ngưòi và nhập vào.
Trong trò chơi trẻ đã thể hiện được tình người, như thái độ chu đáo, ân cần, sự
đồng cảm, tinh thần tương trợ và một số phẩm chất đạo đức khác.
g. Những phẩm chất ý chí của trẻ mẫu giáo được hình thành mạnh mẽ
qua trò chơi đóng vai theo chủ đề. Khi tham gia ừò chơi, sao cho phù hợp với
những quy tắc của trò chơi.Qua trò chơi, trẻ hình thành những phẩm chất ý chí
như: tính mục đích, tính kỷ luật, tính dũng cảm...
Tóm lại: Hoạt động vui chơi, mà trung tâm là trò chơi đóng vai theo chủ
đề ở tuổi mẫu giáo thực sự đóng vai trò chủ đạo. Ý nghĩa chủ đạo thể hiện
trước hết là ở chỗ nó giúp trẻ giải quyết mâu thuẫn trong bước phát triển từ tuổi

ấu nhi lên tuổi mẫu giáo. Trò chơi là phương tiện góp phần phát triển toàn diện
nhân cách trẻ. Trò choi tạo ra những nét tâm lý đặc trưng cho tuổi mẫu giáo.


Do đó tổ chức trò chơi chính là tổ chức cuộc sống của trẻ. Trò chơi là phương
tiện để trẻ học làm người.
CHƯƠNG 2: KHẢO SÁT THựC TRẠNG
2.1.

Thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ

2.1.1.

Khách thể nghiên cứu

90 trẻ lóp mẫu giáo nhỡ trường Mầm non Hoa Sen - Thành phố Vĩnh Yên
2.1.2.

Phương pháp điều tra

Để điều tra về sự phát âm cũng như vốn từ và khả năng sử dụng ngữ
pháp của trẻ ta sử dụng nhiều phương pháp điều tra khác nhau:
+ Phương pháp đàm thoại: là sự giao tiếp, trao đổi giữa cô giáo và trẻ bằng
những câu hỏi có mục đích, có hệ thống nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Ở đây, cô sử dụng những câu hỏi đơn giản, dễ hiểu để có thể khai thác được
vốn ngôn ngữ của trẻ.
Ví dụ: Con tên là gì? Bố mẹ con làm nghề gì? Con thích gì nhất? Con có thể
kể cho cô nghe những công việc mà con thường làm ở nhà được không?...
+ Phương pháp thực hành: tiến hành yêu càu trẻ phát âm một số từ khó,
những từ, nguyên âm, phụ âm mà trẻ thường hay phát âm sai.

Ví dụ:
“Quả na” => “Quả la”
“Cá Rô phi” => “Cá dô phi”
+ Phương pháp Trò chơi:
Thông qua việc tổ chức cho trẻ chơi trò chơi kết hợp với đàm thoại
để điều tra về vốn từ cũng như việc sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ.
Ví dụ: Trò chơi : chiếc hộp thần kỳ, kể đủ ba thứ.
+ Ngoài ra, còn rất nhiều cách để điều tra về sự phát âm, vốn từ và khả năng
sử dụng cấu trúc ngữ pháp của trẻ như : tiến hành dự giờ tiết học, quan sát
và ghi lại những lỗi hoặc những kiểu câu trẻ thường sử dụng, đàm thoại vói
giáo viên về khả năng ngôn ngữ của trẻ...
2.1.3. Thực trạng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo nhỡ
Trường Mầm non Hoa Sen Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc


a. Thực trạng khả năng phát âm
Đe khảo sát khả năng phát âm trẻ mẫu giáo nhỡ tôi đã tiến hành dự
giờ, ghi biên bản các tiết kể lại chuyện và đọc thơ và tiến hành yêu cầu trẻ
phát âm một số từ theo yêu càu và tiến hành cho trẻ chơi trò chơi: kể đủ ba
thứ.
-Tiến hành trò chơi: cô cho trẻ thi kể đủ ba thứ theo yêu cầu của
cô thuộc các từ loại danh từ, động từ, tính từ, đại từ.
-Cách tiến hành đọc thơ:
+ Gọi lần lượt từng trẻ đọc bài thơ: Quạt cho bà ngủ (Thạch Quỳ)
+ Yêu cầu trẻ đọc to, rõ ràng, diễn cảm. (Xin xem thêm bài thơ và
bài tập phát âm ở phần phụ lục)
Kết quả điều tra sự phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ thu được bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1: Kết quả thống kê các lỗi phát âm của trẻ mẫu giáo nhỡ Trường
Mầm non Hoa Sen - Vĩnh Yên



Nhận xét:
Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể
phân chia được nữa. Phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy
phát âm, ở tuổi mẫu giáo những điều kiện này đã đạt được mức tương đối ổn
định cho nên ttẻ đã có thể phát âm được hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số
ttẻ vẫn còn mắc một số lỗi về phát âm.


*Lỗi về thanh điệu
Thanh điệu là một yếu tố thể hiện độ cao và sự chuyển biến của độ cao
ừong mỗi âm tiết.
Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có
cấu tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy ở giữa là cách phát
âm khó đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm
điệu không gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc (Phát
âm “mỡ” thành“mớ”).Phát âm hỏi thành họi.
Ví dụ trẻ thường phát âm :
“ngủ” thành “ngụ”
“nghĩ thành nghĩ”
ФТ

Ạ*

À



__


1/1

*Lôi vê âm chính Lỗi về âm chính tập trung
vào các nguyên âm đôi Ví dụ: Trẻ phát âm :
“Con hươu” thành “Con hiêu”
“nghỉ hưu” thành “Nghỉ hiu”
«X» T Л • Л /V



* Lôi vê âm đâu
- Trẻ thường hay nói lẫn lộn: 1, n Ví
dụ:
“Lá lúa” ừẻ phát âm thành “lá núa”
- Lỗi lẫn “ừ” thành “t” : “Gà ừống” phát âm thành “gà tống”; “ừăng sáng” phát
âm thành “tăng sáng”.
-

Lỗi “c” thành “t”: “con” thành “ton” (Ton thưa cô!)

-

Lỗi lẫn г thành d; gi thành d: “Cái rổ” thành “Cái dổ”

-

“Thịt” thành “Xịt”

-


Trẻ nói ngọng “dì Lan” thành “dì Nhan”
fb)
Т

_ Л
_

• Л

A

1Ạ

* Lôi vê âm đệm
Âm đệm chỉ được đọc lướt qua nên ttẻ khó ghi nhận những âm này vì
thế
âm đệm thường bị bỏ qua.


VD: Trẻ phát âm:
“Loắt choắt” thành “Lắt chắt”
“Quả quất” thành “Quạ cất”
I^_
Т



Л




Л

Л



__

_





* Lôi vê âm cuôi
Trong phụ âm đứng làm âm cuối thì những cặp ch và nh trẻ phát âm
thành t, n.
Ví dụ: “ Cô Oanh” thành “Cô Oăn”,
“Cây xanh” thành “cây xăn”,
Qua kết quả khảo sát, ta thấy được trẻ còn mắc rất nhiều lỗi về cách phát
âm từ. Trong đó, trong 5 thành tố cấu tạo âm tiết (âm đầu, âm đệm, âm chính,
âm cuối và thanh điệu) thì thanh điệu là thành tố có tần số phạm lỗi ít nhất.
Ngược lại, âm đệm 1/n lại là thành tố mà số trẻ phạm lỗi chiếm tỉ lệ cao nhất ở
trường.
Giáo viên cần phải cung cấp số lượng từ cần thiết cho giao tiếp ngôn ngữ
của trẻ. Đó là những từ về những gì có ở xung quanh trẻ, những từ có liên quan
đến cuộc sống cá nhân và quan hệ của trẻ; những từ cần cho cuộc sống sinh
hoạt và học tập, vui chơi của trẻ. Cô giáo cần phải chú ý đến cơ cấu từ loại
trong vốn từ của ưẻ sao cho đủ các từ loại tiếng việt với tỉ lệ thích hợp.

Bảng 2: Kết quả khảo sát vốn từ của trẻ theo cơ cấu từ loại trẻ mẫu giáo
nhỡ Trường mầm non Hoa Sen.
Số lượng tò
lượng từ - tỉ lệ (%) Từ

Tỉ lệ (%) so vói vốn từ đã
thống kê

Danh từ

214

41,7%

Động từ

198

38,7%

Tính từ

35

6,8%

Đại từ

15


2,9%

Quan hệ từ

10

2%


Nhận xét:
Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo vốn tò đã tăng lên nhiều so với các lứa tuổi
trước, về cơ bản, vốn từ của trẻ đã có đày đủ các từ loại. Tuy nhiên, tỉ lệ danh
từ và động từ cao hơn nhiều so với các từ loại khác.
- Danh từ:
Danh từ chiếm số lượng nhều nhất gồm những từ loại sau: Danh từ
gọi tên các đồ vật, đồ dùng, danh từ chỉ tên gọi của những người xung quanh
trẻ, danh từ chỉ tên gọi các nghề nghiệp, danh từ chỉ các phương tiện giao
thông, danh từ chỉ con vật
- Động từ:
Trẻ mẫu giáo nhỡ 5 tuổi đã phân biệt được nghĩa của các động từ
gàn nghĩa nhau và cũng có thể hiểu một số động từ có nhiều nghĩa khác
nhau. Ví dụ : Đánh móng chân, đánh đổ, đánh má hồng..
Các động từ trẻ sử dụng nhiều chủ yếu động từ chỉ hoạt động của con
ngưòi, con vật: đi, đứng, bay, nhảy, ăn...
- Tính từ: trẻ đã sử dụng được các tính từ sau đây: Tính tò chỉ màu sắc, tính từ
chỉ trạng thái con người,tính từ chỉ tính chất.
- Đại từ: trẻ mẫu giáo nhỡ đã biết xưng hô đúng với các đối tượng gần gũi: em,
tôi, tớ, mình, người ta, con, cháu,...
- Quan hệ từ:
Trẻ sử dụng quan hệ từ rất phong phú: và, với, của, để, YÌ, còn,

nhưng...
Ví dụ:
“Con với bạn Hà đang chơi thì bạn Phúc cướp đồ chơi của con”
Khi sử dụng từ ngữ, trẻ thường mắc một số loại lỗi sau:
Dùng danh từ chưa chính xác:
Ví dụ: bụi cây gọi là vườn cây
Trẻ thường nhầm lẫn các màu sắc:
Ví dụ: Màu da cam hầu hết trẻ thường gọi là màu vàng.
b. Khảo sát khả năng sử dụng cấu trúc ngữ pháp đon giản của trẻ mẫu


×