Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Khoá luận tốt nghiệp thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông qua hoạt động âm nhạc tại một số trường mầm non khu vực huyện đông anh thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.88 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC su PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIÊU HỌC
^í^í^í^íỉịíỉịíỉịíỉịí^í^í^í^í^í

TRẰN THU HƯỜNG

THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ








Chuyên ngành: Giáo dục học HÀ NỘI, 2015

TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA GIÁO
DỤC TIẺU HỌC

TRÀN THU HƯỜNG







THựC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ

Chuyên ngành: Giáo dục học







Ngưòi hưóng dẫn khoa học

• Th.s. Trần Thanh Tùng HÀ NỘI, 2015


• Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi gặp không ít nhũng khó khăn nhưng

nhờ sự cố gắng nồ lực của bản thân, đặc biệt là sự giúp đõ' nhiệt tình của các thầy cô
giáo cùng với sự động viên, cổ vũ của bạn bè, người thân đã giúp tôi hoàn thành đề
tài này.
• Qua đây,tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong Tố Tâm
CẢM
ƠNđề tài này. Đặc
lý - Giáo dục, các anh chị thư viện đã tạo điều kiện cho tôiLỜI
nghiên
cứu

biệt, cho tôi tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Trần Thanh Tùng, người đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong quá trình thực hiện đề tài. Tôi xin cảm ơn tới Ban giám
hiệu cùng toàn thể giáo viên mẫu giáo các trường mầm non khu vực Đông Anh - Hà
Nội đã nhiệt tình tạo điều kiện cho tôi có thế hoàn thành đề tài này. Tôi xin gửi lời
cảm ơn đến bạn bè, người thân đã giúp đỡ, động viên, khuyến khích tôi nỗ lực hoàn
thành bài khóa luận của mình
• Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng đây là lần đầu tiên tôi tập dượt công tác


nghiên cứu khoa học nên chắc chắn không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong quý
thầy cô cùng toàn thế các bạn nhận xét, đóng góp ý kiến đế đề tài này hoàn thiện hơn.
• Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!


Vĩnh Phúc, ngày tháng năm
2015 Sinh viên thực hiện


Trần Thu Hường
• Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng mình.
• Các số liệu, kết quả thu thập được trong khóa luận là: Trung thực, rõ ràng,

chưa từng công bố trong bất kì một công trình nghiên cứu nào.


• Neu sai tôi xin chịu hoàn toàn mọi trách nhiệm.




Vĩnh Phúc, ngày thảng năm 2015 Sinh viên thực hiện

Trần Thu Hường

LỜI CẢM ƠN






MỤC LỤC

PHẦN I. MỞ ĐẦU

1.
1.3.1.

2.1.

2. CHƯƠNG 2: THựC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ MẲƯ
GIÁO BÉ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC TẠI MỘT SÓ
TRƯỜNG MẦM NON KHƯ vực HUYỆN ĐÔNG ANH THÀNH PHỔ HÀ
NỘI.............................................................................................................
.......................................................................28

1.
2.2.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
2.3.
PHỤ LỤC


2.4.

PHẦN I: MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1.


Co’ sở lí luận
2.5.

Desis Diderot đã nói: “Đợo đức ở tất cả mọi quốc gia là sản phấm của

pháp luật và chính quyền; chủng không phải Châu Phi, Châu Mỹ hay Châu Âu:
chủng tắt hoặc xấu Đúng vậy, đạo đức là nguồn gốc để hoàn thiện nhân cách trong
mỗi con người chúng ta. Vì thế mà đạo đức đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống,
cũng như quan điếm của các triết gia, các học giả,các nhà nghiên cứu,... trong lĩnh
vực giáo dục Hồ Chí Minh từng nói: “Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của
cuộc song, sức mạnh của con người. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa
2.6.

K.Đ.Ư-SinxKi cũng khẳng định: “ Tất cả những ai muốn trở thành

công dân có ích, trước hết phải học cách làm người”. Học cách làm người ở đây
chính là tu dưỡng phấm chất đạo đức của mình, bởi như Hegel đã từng nói: “Giáo
dục là biến con người thành có đạo đức
2.7.

Những danh ngôn, triết lí sâu sắc trên đã nêu rõ vai trò của đạo đức và

giáo dục đạo đức đối với quá trình hình thành, hoàn thiện nhân cách con người. Vì
vậy, giáo dục đạo đức cho mọi người là việc làm có tầm quan trọng và rất thiết thực.
Vì đạo đức không tự có mà đạo đức chỉ được hình thành qua con đường giáo dục và
tự giáo dục. Như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
2.8. “ Hiền dữ phải đâu là tỉnh sẵn

Phẩn nhiều do giáo dục mà nên”.

2.9.

Cổ nhân xưa cũng đã dạy:
2.10. “ Tre non dễ uốn, tre già nô đốt”.
2.11.

2.12.

“ Bé chăng vin, cả gẫy cành”.

Tất cả đã khẳng định ý nghĩa to lớn của việc giáo dục đạo đức cho con

người khi còn thơ, đặc biệt là lứa tuối mầm non. Chúng ta nên coi đây là một vấn đề
trung tâm, vì giai đoạn này là giai đoạn quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự hình thành
và phát triển nhân cách toàn diện của trẻ đến khi trưởng thành. Có rất nhiều phương
tiện để giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non, xong có một phương tiện không thể thiếu
đó là âm nhạc. Đối với trẻ, âm nhạc là thế giới đầy cảm xúc, là món ăn tinh thần vô
cùng quý giá. Các hoạt động diễn xuất âm nhạc và nội dung của các tác phẩm âm


nhạc mang những nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ. Do đó hoạt động âm nhạc đã trở
thành phương tiện giáo dục đạo đức đạt hiệu quả cao. Như đại thi hào M.Gorki nhận
xét: “ Âm nhạc tác động một cách kì diệu đến tận đáy lòng, nỏ khảm phả ra cải phâm
chất cao quý nhất ở con người”.
1.2.

Co’ sở thực tiễn
2.13.

Dựa trên cơ sở điều tra thực tế các trường mầm non, tôi nhận thấy vai


trò đặc biệt quan trọng của hoạt động giáo dục âm nhạc truyền tải nội dung giáo dục
đến trẻ. Âm nhạc luôn được tố chức dưới nhiều hình thức khác nhau và được sử dụng
nhiều trong các hoạt động dạy học như môi trường xung quanh, làm quen với toán,
làm quen với chữ cái,...Hầu hết giáo viên đã nhận ra tầm quan trọng của âm nhạc
trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên việc giáo dục còn dập khuôn, chưa khai thác triệt
để hoạt động diễn xuất âm nhạc đến giáo dục trẻ.
2.14.

Là một sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non, tôi muốn nêu lên

những giải pháp hữu hiệu nhất giúp trẻ học được nhiều điều trong trường mầm non.
Bởi vậy vấn đề được tôi quan tâm hàng đầu là giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua
hoạt động âm nhạc. Chính vì những lí do trên mà tôi đã chọn đề tài này, mong rằng có
thể khắc phục được những bất cập trong phương pháp giảng dạy tại các trường mầm
non đồng thời tích lũy được nhiều kinh nghiệm cho bản thân.
2. So’ lưọ’c lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.15.

Từ trước tới nay, giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo đã có rất nhiều các

tài liệu, giáo trình đề cập đến một cách kỹ lưỡng. Các bộ giáo trình trong nhà trường
đã chỉ rõ những yêu cầu, nhiệm vụ, phương pháp, nội dung...rất rõ ràng, cụ thế. Vận
dụng vào tùng đối tượng trẻ ở các địa phương cụ thế thì có nơi được vận dụng rất tốt
nhưng ngược lại một số nơi vận dụng còn chưa tốt, còn sơ sài, thiếu hệ thống và chưa
đạt hiệu quả cao. Vì thế đề tài này đã đặt ra nhiệm vụ, vận dụng những phương pháp
chung về vấn đề đạo đức cho trẻ ở đối tượng 3- 4 tuổi thông qua âm nhạc nhằm nâng
cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho trẻ tại các trường mầm non Huyện Đông Anh Thành phố Hà Nội nói riêng và trẻ tại các trường mầm non nói chung.
2.16.


Giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo là đề tài được nhiều người quan

tâm. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này đã thành công như:
-

Muôn Thị Xuyến, “Nghiên cứu mức độ lĩnh hội một số kinh nghiệm đạo đức quy tắc


hành vi qua hình ảnh của trẻ mẫu giáo từ 3 đến 6 tuối”, ĐHSP Hà Nội, 1998.
-

Nguyễn Thị Phương, “Tìm hiểu giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo trong một số
trường mầm non khu vực thành phố Vĩnh Yêu - Vinh Phúc”, 2009.

-

Lê Thị Quỳnh Hoa, “Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ (5-6 tuổi) thông
qua hoạt động âm nhạc ở một số trường mầm non khu vực xã Kim Chung - Huyện
Đông Anh - Thành phố Hà Nội”, 2013.

-

Hoàng Thúy Vinh, ‘Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ em lứa tuổi mẫu
giáo ở một số trường mầm non khu vực thành phố VTnh Yên - Vĩnh Phúc”, 2013
2.17.

Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu về vấn đề “Thực trạng giáo

dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông qua hoạt động âm nhạc tại một số trường mầm
non khu vực Huyện Đông Anh - Thành phố Hà Nội”. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài

này nghiên cứu, mong rằng những đóng góp của bản thân sẽ một phần nào giúp việc
giáo dục trở nên thiết thực và hữu hiệu hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
2.18.

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực trạng, chúng tôi đề xuất

một số giải pháp nhằm nâng cao kết quả giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông
qua hoạt động âm nhạc tại các trường mầm non khu vực Đông Anh - Hà Nội.
4. Khách thể nghiên cửu
2.19.

Khách thể nghiên cứu của đề tài là quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ

mẫu giáo.
5. Đối tưọng nghiên cứu
2.20.

Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông qua hoạt động

âm nhạc.
6. Mức độ và phạm vi nghiên cứu
2.21.

Mức độ: Đe tài chủ yếu tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ

mẫu giáo bé.
2.22.

Phạm vi: Đe tài được tiến hành nghiên cứu tại một số trường mầm non


khu vực huyện Đông Anh - Hà Nội.
7. Giả thuyết nghiên cứu
2.23.

Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông qua hoạt động

âm nhạc ở một số trường mầm non khu vực Đông Anh - Hà Nội còn tồn taị nhiều vấn


đề: cơ sở vật chất còn hạn chế, trình độ giáo viên chưa đồng đều, sự phối họp giữa
nhà trường và phụ huynh chưa chặt chẽ, kết quả đạt được thấp...Neu các giải pháp
chúng tôi đưa ra được nhà trường thực hiện sẽ góp phần nâng cao kết quả giáo dục
đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé.
8. Nhiệm yụ nghiên cứu
2.24.

Tìm hiểu cơ sở lí luận của đề tài:

2.25.

Khảo sát thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé tại một số

trường mầm non khu vực Đông Anh - Hà Nội.
2.26.

Tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp đế nâng cao chất lượng

giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông qua hoạt động âm nhạc.
9. Phưong pháp nghiên cứu

-

Phương pháp nghiên cứu lí luận.

-

Phương pháp điều tra.

-

Phương pháp đọc sách.

-

Phương pháp quan sát.

-

Phương pháp trò chuyện.

-

Phương pháp thống kê toán học.
10. Nội dung chính của đề tài
2.27.

Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, nội dung chính của đề tài

gồm 3 chương:
2.28.


Chương 1: Cơ sở lí luận của việc giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo
bé thông qua hoạt động âm nhạc

2.29.

Chương 2: Thực trạng giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông
qua hoạt động âm nhạc ở một số trường mầm non khu vực Huyện
Đông Anh - Thành phố Hà Nội

2.30.

Chương 3: Nguyên nhân và giải pháp nâng cao kết quả giáo dục
đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé thông qua hoạt động âm nhạc
11. Kế hoạch triễn khai nghiên cứu

2.31.

Tháng 11/2014 - 12/2014: Nhận đề tài và hoàn thành đề cương

2.32.

Tháng 12/2014 - 02/2015: Tìm hiểu cơ sở lý luận

2.33.

Tháng 02/2015 - 04/2015: Tìm hiểu thực trạng


Tháng 04/2015 - 05/2015: Hoàn thành đề tài nghiên cứu

2.35. PHẦN II: NỘI DUNG

2.34.
2.36.

CHƯƠNG 1: CO SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
TRẺ MẢU GIÁO BÉ THỒNG QUA HOẠT ĐỘNG ÂM NHẠC

1.1.

Một số vấn đề về giáo dục đạo đửc cho trẻ mẫu giáo bé

1.1.1.

Khái niệm đạo đức
2.37.

Đạo đức là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc, những tiêu chuẩn sinh

hoạt chung trong xã hội nhằm điều chỉnh sự ứng xử của con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống,đảm bảo cho xã hội một trật tự nhất định cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển của nó.
2.38.

Đạo đức được nảy sinh từ nhu cầu xã hội, điều hòa và thống nhất các

mâu thuẫn giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Đe giải quyết các mâu thuẫn đó, xã hội
đề ra các yêu cầu dưới dạng chuẩn mực giá trị, được mọi người công nhận và được
củng cố bằng sức mạnh của phong tục tập quán, dư luận, lương tâm,...Chính vì thế
mà đạo đức khác với pháp quyền là nó không dựa vào quyền lực của Nhà nước mà

dựa vào sức mạnh của dư luận xã hội, của lương tâm, của những quan niệm mang
tính chất đánh giá như: Thiện- ác, Vinh- nhục, Chính- tà để đảm bảo trật tự xã hội. Nó
mang tính lịch sử và tính giai cấp.
1.1.2.

Khái niệm giáo dục đạo đức
2.39.
Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục
đích, có kế hoạch nhằm trang bị cho trẻ những hiểu
biết về các quy tắc, chuẩn mực đạo đức, rèn cho trẻ
những tình cảm và hành vi đạo đức phù hợp với yêu
cầu xã hội mà trẻ đang sống. Trên cơ sở đó hình
thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức, những nét
tính cách của con người Việt Nam mới.


1.1.3.

Ỷ nghĩa của việc giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé
2.40.

Giáo dục đạo đức có ý nghĩa rất quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp

giáo dục con người mới.
2.41.

Giáo dục đạo đức là một hoạt động chuyên biệt, có mục đích của

nhà giáo dục nhằm xây dựng cho trẻ em những tiêu chuẩn và quy tắc hành vi quy
định thái độ của chúng đối với nhau, đối với gia đình, đối với người khác, đối với

nhà nước và Tổ quốc.
2.42.

Ngay lứa tuổi mầm non, việc hình thành về cơ sở giáo dục đạo đức

đã được quan tâm, chú ý. Nó là khâu đầu tiên trong việc hình thành và đào tạo
những cơ sở ban đầu của nhân cách con người mới, nó tạo tiền đề cho sự phát triển
về sau của thế hệ trẻ. Những phẩm chất bẩm sinh (yêu con người, yêu hòa bình,
yêu cái đẹp,..) được phủ định trong tâm lý học mác xít và được khẳng định rằng
những phấm chất ấy được hình thành trong quá trình sinh sống, dưới sự tác động
của giáo dục thì những phẩm chất con người mới có thể hình thành trong cuộc
sống.
2.43.

Được sự hướng dẫn của người lớn, trẻ tiếp thu những kinh nghiệm

đầu tiên về hành vi, về quan hệ với những người xung quanh, về các đồ vật và
thiên nhiên xung quanh trẻ.Từ đó, trẻ có thế hình thành phương thức điều khiển
một số hành vi của mình, tính tích cực, tính độc lập, tính lao động,...và sự quan
tâm đến các mối quan hệ trong xã hội.
2.44.

So với việc giáo dục thì việc cải tạo (hay giáo dục lại) là một việc

khó khăn hơn nhiều. Bởi vậy giáo dục đúng đắn sẽ hạn chế sự tích lũy kinh nghiệm
tiêu cực của trẻ, ngăn cản sự hình thành thói quen xấu làm ảnh hưởng đến giá trị
đạo đức cho trẻ. Những ấn tượng đầu tiên của thời thơ ấu như những trang giấy
đầu tiên sẽ theo trẻ đến suốt cuộc đời. Bởi vậy giáo dục đạo đức có vai trò quan
trọng và không thể thiếu đối với trẻ mầm non.



1.1.4.

Nhiệm vụ giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé Việc hình thành kĩ

xảo và thói quen hành vi đạo đức là nhiệm vụ quan trọng thứ nhất trong quá trình
giáo dục đạo đức. Đặc điểm ở trẻ mẫu giáo là khả năng bắt chước. Trong khi đó,
trẻ chưa thực sự phát triển tính tự giác của hành vi, chưa biết kiếm tra hành động
của mình, chưa hiếu nội dung đạo đức của hành vi, điều đó có thế dẫn đến hành
động xấu. Bởi vậy, phải hình thành ở trẻ những thói quen, hành vi tốt: Thế hiện
lòng kính trọng với người lớn (chào hỏi, nghe lời, cảm ơn,..), biết quan tâm đến
bạn bè (chia sẻ, đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ,...), ý thức giữ gìn các đồ vật (bảo
vệ, cất đồ dùng sau khi chơi,...) và ý thức hành vi văn hóa ở cộng đồng (không nói
to, biết giúp đỡ người già, không làm ảnh hưởng đến người khác,...). Ớ các độ tuổi
khác nhau, yêu cầu về kĩ xảo và thói quen đạo đức cần được nâng cao dần.
2.45.

Hình thành nhũng tình cảm đạo đức là nhiệm vụ quan trọng thứ hai

trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. Trên thực tế, khi trẻ yêu mến
một ai thì trẻ luôn nghe lời và sẵn sàng làm mọi việc mà người đó yêu cầu để khiến
họ vui lòng và yêu quý mình. Mặt khác, tình cảm đạo đức còn là cơ sở, động lực
thúc đẩy trẻ thực hiện những hành vi tốt, có văn hóa.
2.46.

Nhiệm vụ cơ bản thứ ba là hình thành ở trẻ những biếu tượng về

chuẩn mực hành vi đạo đức và động cơ đạo đức đúng đắn. Giáo viên phải tiến hành
giải thích và phát triển các khái niệm đạo đức sơ đẳng ở trẻ và trên cơ sở đó hình
thành các động cơ hành vi có văn hóa.

2.47.

Các nhiệm vụ giáo dục tình cảm đạo đức, hình thành các khái niệm

đạo đức, thói quen đạo đức và động cơ hành vi được thực hiện thống nhất trong
quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo.
7.7.5.
Nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bé
1.1.5.1. Giáo dục lòng nhân ái (tình thưong) và những nhân to sơ đắng của

lòng yêu nước


2.48.

Sự tích nàng Âu Cơ sinh được bọc trăm trứng giáo dục cho chúng ta

biết sự đoàn kết, yêu thương nhau như con em một nhà. sống trong tình yêu thương
cũng chính là niềm hạnh phúc vô cùng to lớn của trẻ thơ. Vì vậy, giáo dục lòng
nhân ái là nhiệm vụ trung tâm của công tác giáo dục đạo đức cho trẻ.
2.49.
Giáo dục lòng nhân ái cho trẻ gồm những nội dung cơ bản sau:
2.50.

Giáo dục tình yêu gia đình: Trẻ cần hiểu mọi người trong gia đình

luôn gắn bó với nhau trên tình ruột thịt, cần sống hòa thuận, quan tâm, chăm sóc và
tôn trọng lẫn nhau. Chẳng hạn, biết tự xúc cơm, tự thay quần áo, không vòi vĩnh
khi người lớn đang làm việc,...
2.51.


Giáo dục tình yêu và thái độ quan tâm đến mọi người: Biết yêu mến

và sẵn sàng giúp đõ' bạn bè, cô giáo khi cần; biết kính trọng và giúp đỡ người già
yếu, biết nhường nhịn, chăm sóc các em nhỏ, niềm nở với mọi người.
2.52.

Giáo dục tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu cây cỏ, chim

muông, các súc vật,... : Trẻ biết chăm sóc cây xanh, không hành hạ làm đau đón
các con vật, có ý thức bảo vệ thiên nhiên.
2.53.

Giáo dục tình yêu quê hương, đất nước, Bác Hồ: Biết lá cờ Tổ quốc,

biết ý nghĩ của những ngày lễ lớn, biết những danh lam thắng cảnh của đất nước.
Tuy những tình cảm này còn non nớt và chưa thực sự được hình thành nhưng nó
cũng ảnh hưởng tích cực đến sự phát trien tình cảm đạo đức của trẻ.
1.1.5.2.
Giáo dục quan hệ bạn bè; xây dựng lớp đoàn kết, thân ái
2.54.

Đen lứa tuối mẫu giáo, trẻ bắt đầu chơi với nhau và hình thành quan

hệ bạn bè. Giáo dục quan hệ bạn bè cho lứa tuổi mẫu giáo vừa là nhiệm vụ giáo
dục đạo đức quan trọng, vừa là công việc phức tạp, tế nhị đòi hỏi cô giáo phải nẵm
vừng nội dung cơ bản theo từng độ tuổi đế có những tác động thích hợp và kịp
thời.
2.55.


Đối với mẫu giáo bé: cần từng bước mở rộng nhóm chơi của trẻ, mở


rộng vốn kinh nghiệm về hoạt động chung của trẻ, kịp thời biếu dương những hành
vi tốt, uốn nắn, ngăn chặn những hành vi không tốt, hướng dẫn trẻ tự giải quyết lấy
những xích mích trong khi chơi chung.
tốt

2.56.

ỉ. 1.5.3. Giảo dục những quy tắc lễ phép và văn hóa, những đức tính

2.57.

Giáo dục cho trẻ những quy tắc lễ phép (chào hỏi, xin lỗi, cảm

ơn,...), những quy tắc hành vi có văn hóa ở nhũng nơi công cộng (không ngắt hoa,
làm hỏng cây ở công viên; không nghịch ngợm, làm ồn khi đến thăm phòng triến
lãm, nhà bảo tàng), những cách ứng xử tốt đẹp với mọi người (giúp đỡ, không trêu
chọc người tàn tật, nâng dậy và dỗ dành em bé ngã,...)
2.58.

Những nhiệm vụ giáo dục đạo đức nêu trên cần kết họp chặt chẽ với

nhiệm vụ giáo dục những tính tốt của trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo cần kịp thời phát
triển những tính tốt của trẻ và cần tìm ra nguyên nhân, kiên quyết ngăn chặn, uốn
nắn khi thấy trẻ bắt đầu xuất hiện một tính xấu nào đó. Một số tính tốt đặc biệt cần
chú ý cho trẻ là:
-


Tính tự lập: Thích “tự làm lấy” - tự giác làm những việc trẻ tự làm được, không
nhõng nhẽo, không ỷ lại vào người lớn.

-

Tính mạnh dạn: Trẻ mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người, khi đến chỗ xa lạ, khi
cần tiêm chủng, uống thuốc, khi người lớn yêu cầu (hát, múa,...) hoặc sai bảo,
không nhút nhát, e dè; không sợ nước khi tắm rửa.

-

Tính ngăn nắp: Trẻ ăn mặc gọn gàng, sắp lại đồ chơi ngăn nắp sau khi chơi, không
bày bừa, vứt bỏ lung tung.

-

Tính kỉ luật: Trẻ biết nghe lời, biết tôn trọng những quy tắc sinh hoạt chung, biết tự
kiềm chế,...
2.59.

Cuối cùng, cần chú ý giáo dục những hành vi, những nét tính cách


cho trẻ phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, không làm cho trẻ mất đi cái ngây thơ,
hồn nhiên của lứa tuổi. Một nền tảng đạo đức tốt khiến trẻ càng dễ dàng hòa mình
vào cuộc sống xung quanh, tạo nên sự thoải mái, hạnh phúc của tuổi thơ, tuyệt
nhiên không làm cho trẻ thêm xét nét, lo hãi, sống mất hồn nhiên của tuổi thơ bé.
1.2.

Hoạt động âm nhạc vói việc giáo dục đạo đức cho trẽ mẫu giáo bé

1.2.1. Vai trò của hoạt động âm nhạc với việc giáo dục đạo đức cho trẻ
mẫu giáo bé
2.60.

Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật, phản ánh hiên thực khách

quan bằng những hình tượng có sức biểu cảm của âm thanh. Âm nhạc xuất hiện từ
rất lâu đời, gắn bó mật thiết với con người, từ nhỏ đến lớn cho đến khi ra đời.
Chính vì vậy âm nhạc luôn gắn liền với con người và dễ đi vào lòng người. Như
đại thi hào M. Gorki đã nhận xét: “Âm nhạc tác động một cách kì diệu đến tận đáy
lòng. Nó khám phá ra cái phẩm chất cao quý nhất ở con người”. Nếu việc giáo dục
thế chất, văn học trau dồi thể lực và trí tuệ thì âm nhạc trau dồi cảm xúc và đức
hạnh. PaLo - một tác gia Hy lạp kinh điển đã biện luận rằng: “Âm nhạc là nghệ
thuật đặc biệt thích hợp với việc giáo dục đạo đức vì khả năng độc đáo mô phỏng
những phẩm chất đặc điểm của nó”; ông cũng viết rằng “Việc đào tạo thẩm âm là
một công cụ hiệu lực hơn bất kì công cụ nào khác, bởi vì nhịp điệu và sự hài hòa
tìm thấy đường đi vào những nơi bí ẩn của linh hồn, chúng bám riết ở đó, mang
theo sự thanh nhã và làm cho linh hồn của người nào đó được giáo dục trở nên
thanh nhã”.
2.61.

Âm nhạc là thế giới đầy cảm xũc với trẻ, chúng có thể tiếp nhận âm

nhạc ngay khi còn nằm trong bụng mẹ. Trẻ mầm non dễ xúc cảm, ngây thơ, hồn
nhiên nên tiếp xúc với âm nhạc là nhu cầu không the thiếu. Ớ trường mầm non,
hoạt động giáo dục âm nhạc không nhằm mục đích biến trẻ thành những nhạc sĩ,


ca sĩ tài ba. Mục đích của nền giáo dục là bằng phương tiện nghệ thuật âm nhạc
giáo dục tình cảm, ý chí và tính cách của trẻ. Nhờ sự giúp đờ của nghệ thuật âm

nhạc, trẻ như được tham gia vào cuộc sống xã hội, được thể hiện rõ thế giới quan
của mình. Điều rất quan trọng là cảm xúc, ấn tượng mà trẻ nhận được từ tác phẩm
âm nhạc gắn liền với việc hình thành ở trẻ thái độ và chuẩn mực đánh giá về đạo
đức.
2.62.

Các bài hát gắn liền với các hoạt động, chủ đề học của trẻ: Trường

mầm non, Thế giới thực vật, Thế giới động vật, Gia đình, Giao thông, Nghề
nghiệp, Nước và các hiện tượng tự nhiên, Quê hương - đất nước - Bác Hồ,... giúp
trẻ khám phá thế giới xung quanh qua những lời hát vui nhộn. Ngoài ra, các bài hát
còn góp phần tích cực giáo dục những hành vi, thói quen tốt thái độ ứng xử lịch
thiệp cho trẻ.
2.63.

Những bài ca truyền thống, bài hát đố, những bài vè, những bài hát

truyền miệng,., mang lại cho các em cảm xúc mạnh mẽ và khí thế hào hùng của
dân tộc, giáo dục lòng biết ơn đối với những người đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân
hoặc cả cuộc đời vì Tổ quốc tươi đẹp ngày nay.
2.64.

Trẻ được tiếp xúc với nhũng điệu múa, điệu hò, trò chơi dân gian,

những bài ca của các dân tộc, vùng miền khác nhau. Ngoài ra, trẻ còn được thưởng
thức các giai điệu, tiết tấu của các bài hát hay trích đoạn âm nhạc nước ngoài
không chỉ giúp trẻ mở mang hiếu biết về các dân tộc khác mà còn làm nền tảng
trong lòng trẻ thơ tình hữu nghị quốc tế.
2.65.


Tiết học âm nhạc ở trường mầm non có ảnh hưởng tốt đến văn hóa

trong hành vi của trẻ. Trong khi cùng hát, cùng múa hoặc cùng chơi trò chơi âm
nhạc, giữa các trẻ xuất hiện sự quan tâm đến nhau hơn, trẻ biết kiềm chế, biết điều
khiển vận động để hòa mình vào các bạn khác trong lớp. Qua đó, âm nhạc giáo dục


ở trẻ tính kiên trì, tính đoàn kết tập the, ý chí và sự ham học.
2.66.

Ngoài những tiết học chính khóa, trẻ còn được vận dụng âm nhạc

thông qua các hoạt động chơi tự do, chơi có chủ đích nhằm tạo không khí thêm
thoải mái, dễ chịu, giúp trẻ có những giờ chơi thật ý nghĩa.
2.67.

Trẻ vui thích khi được thê hiện các bài hát, điệu múa trước mọi

người. Từ đó, trẻ thấy mình được khen ngợi,quan tâm, chú ý nhiều hơn làm trẻ
mạnh dạn hơn khi tiếp xúc với mọi người.
2.68.

Như vậy, hoạt động âm nhạc tạo nên những điều kiện cần thiết đế

hình thành những phẩm chất đạo đức của trẻ, đặt cơ sở ban đầu cho một nền văn
minh tươi sáng của đất nước.
1.2.2.

Ỷ nghĩa giáo dục đạo đức của tác phẩm âm nhạc
Qua lòi ca của tác phâm âm nhạc


1.2.2.1.
2.69.

Lời ca của tác phẩm âm nhạc giàu tính biểu hiện và trữ tình; từng

câu hát ngắn gọn, dễ hiếu với trẻ, sử dụng ít từ nhiều nghĩa giúp trẻ dễ hát, dễ phát
âm. Nội dung lời ca không chỉ phong phú về kho tàng kiến thức mà còn là nội
dung giáo dục đạo đức có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với trẻ, đem đến cho trẻ
những tình cảm đạo đức tốt đẹp, tạo ra những phản úng cảm xúc làm rung động
tâm hồn trẻ thơ.
-

Những bài hát giáo dục cho trẻ tình yêu thương gia đình.
2.70.

Với những lời ca ngọt ngào, đầm ấm về tình cảm giữa các thành

viên trong gia đình, về những sinh hoạt hằng ngày trong gia đình,... đã hình thành
và hun đúc ở trẻ tình yêu gia đình, yêu các thành viên trong gia đình và trẻ biết làm
những công việc tốt làm vui lòng ông bà, bố mẹ.
2.71.

Ví dụ: Bài hát: “Biết vần lời mẹ” của tác giả Minh Khang, “Cô và

mẹ” của Phạm Tuyên, “Chiếc khăn tay” của Văn Tấn, “Quà 8-3” của Hoàng Long


-


Những bài hát giáo dục cho trẻ tình yêu và thái độ quan tâm đến mọi người xung
quanh.
2.72.

Ngoài mái ấm gia đình,trẻ quan tâm đến mọi người xung quanh

trước hết là các bạn cùng chăng lứa, bởi vậy cần giáo dục quan hệ bạn bè: biết yêu
quý bạn, chia sẻ, nhường nhịn, giúp đờ bạn. Có nhiều bài hát đề cập đến tình bạn
bè như: “Chơi ngón tay” nhạc Hàn lời Việt, “Nào! Chúng ta cùng tập thể dục” của
Thu Hiền sưu tầm.
2.73.

Bên cạnh tình cảm bạn bè cần giáo dục cho trẻ lòng nhân ái yêu

thương người tàn tật, người cao tuối, những người gặp khó khăn trong cuộc sống.
Như bài hát: “Tình thương bà cháu” của Vũ Trọng Tường, “Bé quét nhà” của Hà
Đức Hậu.
-

Những bài hát giáo dục trẻ biết yêu trường, yêu lớp; biết ơn, kính trọng cô giáo.
2.74.

Đây là một trong nhũng nội dung được nhiều nhạc sĩ quan tâm bởi

trường mầm non gắn liền với tuổi thơ của trẻ. Vậy nên có rất nhiều bài hát liên
quan: “Ai ra ngoài” của Phan Huỳnh Điểu, “Cháu đi mẫu giáo” của Phạm Minh
Tuấn, “Trường cháu đây là trường mầm non” của Phạm Tuyên, “Quả bóng” của
Huy Trần.
-


Những bài hát còn giáo dục trẻ lòng biết ơn đối với những người lao động.
2.75.

Qua những bài hát về công việc của các nghề lao động trong xã hội.

Âm nhạc giáo dục trẻ biết yêu quý lao động, biết tôn trọng, giữ gìn sản phẩm. Đặc
biệt, trẻ được “tự phục vụ” bản thân trong một số hoạt động sinh hoạt trên lớp.
Như bài hát: “Làm chú bộ đội” của Hoàng Long, “Em tập lái ô tô” của Nguyễn
Văn Tý, “Cháu yêu cô chú công nhân” của Hoàng Văn Yen.
-

Những bài hát giáo dục trẻ biết yêu quý, chăm sóc, không làm hại đến các con vật.
2.76.

Trẻ nhỏ luôn có một tâm hồn ngây thơ, trong sáng, chúng luôn ví


những con vật như những người bạn của mình. Trẻ và các con vật có thê trò
chuyện với nhau, cùng chơi đùa với nhau. Đúng vậy, qua các bài hát về các con
vật, hình ảnh các con vật trong trí tưởng tượng của trẻ còn phong phú, sáng tạo
hơn thế nữa. Như bài hát: “Ai cũng yêu chú mèo” của Kim Hữu, “Con chim non”
của Hữu Trọng, “Đàn vịt con” của Mộng Lân, “Gà trống, mèo con và cún con” của
Thế Vinh.
-

Qua bài hát trẻ biết yêu quý thiên nhiên, yêu quý cây cỏ hoa lá.
2.77.

Những bài hát không chỉ thế hiện sự lớn lên của cây cối mà còn


miêu tả sinh động như những bông hoa, những chiếc lá như những em bé đang
từng ngày lớn khôn. Ví dụ như bài: “Lý cây xanh” của Dân ca Nam Bộ, “Cây trúc
xinh” Dân ca quan họ Bắc Ninh, “Lý cây bông” Dân ca Nam Bộ, “Trông cây” của
Phạm Tuyên.
-

Những bài hát giáo dục trẻ tình yêu quê hương, đất nước, Bác Hồ.
2.78.

Đối với trẻ mẫu giáo, nội dung này chỉ dừng lại ở việc giáo dục

những nhân tố sơ đắng của tình yêu quê hương, đất nước, Bác Hồ. Việc này có ý
nghĩa rất quan trọng đối với tình yêu đất nước sau này của trẻ. Có rất nhiều bài hát
tập trung ở chủ đề này.
2.79.

Ví dụ: “Em đi thăm thủ đô” của Bùi Anh Tôn, “Hòa Bình cho bé”

của Huy Chân, “Em bé tập nói” của Hoàng Long.
-

Những bài hát giáo dục trẻ có những thói quen, hành vi đạo đức đúng đắn.
2.80.

Những bài hát có nội dung phê phán nhũng hành vi không đẹp và

dạy trẻ cần có các hành vi tốt đẹp với những lời ca động viên, tế nhị. Hay là những
bài hát giáo dục nếp sống sinh hoạt của trẻ.
2.81.


Ví dụ: bài hát “Hết giờ chơi”, “Mời bạn ăn” của Trần Ngọc, “Đi học

về” của Hoàng Long - Hoàng Lân.


2.82.

Như vậy, bằng nghệ thuật âm nhạc, lời ca của các bài hát đã nhắc

nhở trẻ những hành vi đạo đức thật dí dỏm, nhẹ nhàng, không quá nặng nề, thô
thiển mà gần gũi, giúp trẻ tiếp thu dễ dàng và đạt hiệu quả cao.
Qua giai điệu, tiết tẩu, tỉnh chất,... của tácphấm âm nhạc

1.2.2.2.
2.83.

Ý nghĩa giáo dục đạo đức không chỉ có trong lời ca của tác phấm

âm nhạc mà ngay trong những giai điệu, tiết tấu, tính chất,... của tác phẩm âm nhạc
cũng mang nội dung giáo dục đạo đức sâu sắc. Điều này đã từng chứng minh trong
từng tác phấm âm nhạc.Ví dụ: “Ba ngọn nến lung linh” của Ngọc Lễ giáo dục trẻ
biết yêu thương, đoàn kết các thành viên trong gia đình với nhau. Hay bài “Thương
con mèo” của Huy Du thê hiện tình thương của bé dành cho con mèo bị lấm bẩn.
2.84.

Bên cạnh những ca khúc vui vẻ, nhộn nhịp và dí dỏm là những ca

khúc trữ tình sâu nặng với những làn điệu dân ca và khúc hát ru trầm lắng. Những
điệu hát mượt mà của dân ca Nam Bộ, đến những điêu hát giao duyên qua các làn
điệu dân ca quan họ Bắc Ninh, cùng hòa với giai điệu bay bổng ở vùng đồng bằng

Bắc Bộ. Những bài chan chứa tình dân tộc của Tây Nguyên, với những điệu hát
của các dân tộc miền núi phía Bắc, rồi những điệu hò ví dặm Nghệ An, hò Huế tha
thiết, những điệu lý ở miền Nam Trung Bộ,...
2.85.

Tất cả đều mô tả cuộc sống hạnh phúc, thanh bình, ca ngợi cảnh đẹp

quê hương đất nước, góp phần hình thành ở trẻ tình yêu xóm làng, yêu quê hương,
đất nước. Những bài dân ca phong phú về âm điệu, tiết tấu, phương thức diễn
xướng, phong tục tập quán sẽ giúp trẻ hiếu biết thêm về bản sắc âm nhạc dân tộc
Việt Nam. Như bài hát: “Cây trúc xinh” Dân ca quan họ Bắc Ninh, “Lý con sáo Gò
công” Dân ca Nam Bộ,...
2.86.

Cùng với làn điệu dân ca quen thuộc là những khúc hát ru trầm

bống mà khoan thai được trẻ cảm nhận từ khi còn nằm trên nôi. Khúc hát ru dạy


trẻ biết công lao dưỡng dục của người làm cha mẹ, khúc hát ru dạy trẻ biết đoàn
kết anh em một nhà, khúc hát ru dạy trẻ biết làm điều hay, lẽ phải .Như bài “Khúc
hát ru của người mẹ trẻ ” của Phạm Tuyên, “Ru con” dân ca Nam Bộ.
2.87.

Như vậy giai điệu, tiết tấu, tính chất của tác phẩm âm nhạc cũng

chứa đựng nội dung giáo dục đạo đức sâu sắc và có tác dụng góp phần đưa nội
dung giáo dục tới trẻ một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả, góp phần to lớn vào việc
hình thành tư tưởng, tình cảm và hành vi đạo đức cho trẻ thông qua hoạt động âm
nhạc.

1.2.3.

Đặc điếm khả năng âm nhạc của trẻ mẫu giáo bé
2.88.

Trẻ mẫu giáo bé, bộ máy phát âm còn yếu ớt, rất nhạy cảm và còn

tiếp tục hoàn chỉnh cùng với sự phát triển chung của cơ thể.
-

Trẻ ở độ tuối này có đặc điếm là giọng cao và yếu, nhưng độ tinh nhạy của đôi tai
nghe đang dần tăng lên, do đó năng lực cảm nhận các thuộc tính của âm thanh âm
nhạc như độ cao thấp, mạnh nhẹ, to nhỏ... trong mỗi bài hát, bản nhạc ở trẻ cũng
được bộc lộ khá rõ nét. Tuy nhiên, sự chú ý của tai nghe còn yếu, cảm giác về tai
nghe của trẻ do vậy cũng bị hạn chế về độ chuẩn xác, chưa đáp ứng yêu cầu cần
đạt tới.

-

Trẻ chưa điều khiến được cơ quan thanh quản và hô hấp nên âm thanh phát ra chưa
rõ ràng và nhiều khi không theo chủ định của bản thân.

-

Âm vựng giọng thuận lợi đế trẻ hát một cách tự nhiên, trẻ từ 3 - 4 tuổi: âm vực
giọng từ Rê đến La. Đế giúp trẻ tự điều khiển được gọng hát của mình, cần phải
xác định được âm vực giọng hát của trẻ, có kế hoạch luyện tập, có hệ thống củng
cố và bảo vệ giọng hát cũng như tai nghe của trẻ.
2.89.


Theo sách “Lê Thu Hương (Chủ biên) (2005), Tổ chức hoạt động

âm nhạc cho trẻ mầm non theo hướng tích hợp, NXB Giáo dục” về đặc điểm phát


triển khả năng âm nhạc của trẻ mẫu giáo bé:
-

Đây là giai đoạn chuyển từ nhà trẻ lên mẫu giáo, về ngôn ngữ, trẻ đã nói được liên
tục hơn. Những biếu hiện về thái độ cũng rõ ràng hơn như ngạc nhiên, thích thú,
chăm chú... được bộc lộ rõ trong vận đông như: giậm chân, vỗ tay, vẫy tay... theo
âm nhạc.

-

Ớ trẻ xuất hiện sự hứng thú với âm nhạc, đôi khi trẻ hứng thú với một dạng âm
nhạc hoặc với một tác phấm âm nhạc nào đó. Tuy nhiên cảm xúc và hứng thú âm
nhạc chưa ổn định, nhanh chóng xuất hiện và cũng mất ngay.

-

Trẻ có thể tự hát, hoặc có sự hỗ trợ chút ít của người lớn để hát những bài hát ngắn,
đơn giản.

-

Trẻ độ tuổi này có thể làm quen với một số nhạc cụ, tập sử dụng gõ đệm theo nhịp
bài hát.

1.2.4.


Phương pháp to chức các hoạt động âm nhạc cho trẻ mẫu giáo bé
2.90.

-

ì.2.4.1. Phương pháp trình bày tác phấm

Trình bày, thế hiện diễn cảm tác phẩm.
2.91.

Đó là điều kiện đế trẻ làm quen với âm nhạc, cảm thụ âm nhạc trong

lúc nghe nhạc. Bài hát, điệu múa dù đơn giản đến đâu cũng cần được trình bày rõ
ràng, say sưa, diễn cảm mới thu hút sự tập trung chú ý của trẻ, gợi ở trẻ cảm xúc
thẩm mỹ với âm nhạc.
2.92.

Giáo viên cần hiểu sâu sắc nội dung, tư tưởng, mọi sắc thái tình cảm

trong tác phâm.
2.93.

Trình bày, biếu diễn tác phẩm diễn cảm một cách chân thực, sâu sắc

sẽ tác động mạnh đến trẻ, gợi ở trẻ những cảm xúc tương tự, đồng cảm với âm
nhạc như vui, buồn, lo âu, nuối tiếc, sôi nổi, hào hùng,...Đẻ đạt đến trình độ như
vậy, người giáo viên cần phải tự hoàn thiện trình độ biểu diễn.



2.94.

Cái khó trong trình bày xúc cảm, xúc động là ở chỗ, giáo viên phải

lặp lại thường xuyên các tiết mục quen thuộc, nhưng những tiết mục đó lại là mới
đối với trẻ.
-

Trình bày, biểu diễn các kĩ năng biểu diễn hát, múa, trò chơi.
2.95.

Đó là trình bày rõ nét những chỗ cần lấy hơi, nhấn mạnh, hát to lên

hay nhỏ đi, ngân dài hoặc thay đối âm sắc giọng khi thế hiện sự thay đối của âm
nhạc giữu các đoạn nhanh, chậm,... trong tác phẩm.
2.96.

Trình bày kỹ năng biếu diễn đế làm rõ cách thế hiện một câu nhạc,

một âm ngân dài, hoặc một phần nào đó của tác phẩm. Nó dạy trẻ phối họp các
động tác múa, vận động của cả bài hay từng đoạn nhạc. Đây là phương pháp điển
hình thu hút sự chú ý của trẻ đến các phương tiện diễn tả âm nhạc, tạo cơ hội cho
trẻ lĩnh hội và sáng tạo âm nhạc.
Phương pháp hướng dẫn thực hành, luyện tập

1.2.4.2.
2.97.

Trong quá trình nghe nhạc, giáo viên cần sắp xếp cho mọi trẻ đều


nghe rõ, nhìn rõ các biếu hiện trên khuôn mặt và động tác của giáo viên.
2.98.

Trong các hoạt động múa, vận động theo nhạc cho trẻ ở trường

mầm non, trẻ làm theo từ chậm đến nhanh, từ các động tác đến toàn bài. Bởi vậy,
giáo viên cần kiên nhẫn hướng dẫn trẻ các động tác và làm lại nhiều lần.
2.99.

Trong thực hành ca hát, có các bài hát khó, dài giáo viên chia thành

các đoạn nhỏ để dạy trẻ. Sau các tiết, cô nối các đoạn nhạc với nhau đế thành bài
hoàn chỉnh.
2.100.

Cần bố trí thay đối các dạng thực hành hoạt động âm nhạc từ tĩnh

như nghe nhạc, cảm thụ,... sang động như ca hát, nhảy múa, trò chơi,..một cách
hợp lý để trẻ không bị nhàm chán và hứng thú hơn.
2.101.

Trong quá trình thực hành hoạt động âm nhạc, giáo viên phải luôn


quan sát, chú ý đến toàn bộ lớp học; phát hiện ra những trẻ học tốt, học kém để từ
đó có các biện pháp xử lý phù hợp.
Phương pháp dùng lời

1.2.4.3.
2.102.


Dùng lời trong giáo dục dạy học âm nhạc rất phong phú như: trình

bày, giới thiệu cách thể hiện; giải thích nội dung, phương tiện diễn tả âm nhạc; trò
chuyện về nội dung âm nhạc; kể chuyện về âm nhạc; đặt câu hỏi gợi mở; nhắc nhở
những chồ trẻ quên; khích lệ, động viên trẻ.
2.103.

Dùng lời trong dạy học, giáo dục âm nhạc không phải là phương

pháp quan trong nhất nhưng nó thực sự cần thiết đối với trẻ - nó hồ trợ cho các
phương pháp trình bày tác phẩm, thực hành luyện tập để nắm các kiến thức cơ sở,
các kĩ năng hoạt động âm nhạc. Bởi vậy, giáo viên sử dụng lời nói trong dạy học
âm nhạc cần phải có sự chuẩn bị kĩ càng để sử dựng một cách hiệu quả và tối ưu
nhất đến khả năng ghi nhớ, tư duy của trẻ.
2.104.

Tùy vào các độ tuổi khác nhau mà giáo vên phải sử dụng các biện

pháp dùng lời khác nhau sao cho phù hợp với yêu cầu, mục đích, nội dung của
từng tiết dạy.
2.105.

Việc dùng lời trong hoạt động âm nhạc phải đảm bảo ngắn gọn, rõ

ràng, dễ hiểu đối với trẻ; kết họp với các hình ảnh trực quan sinh động hay các
phương tiện diễn tả âm nhạc cũng phải thế hiện một cách nhuần nhuyễn để có the
gợi mở được cảm xúc của trẻ. Ví dụ như: Trẻ vui vẻ, phấn khích khi được nghe các
bản nhạc sôi động trong các ca khúc thế dục hay trẻ cảm nhận được sự ngọt ngào,
sâu lắng qua những bài hát ru.

2.106.

Trong giới thiệu tác phẩm âm nhạc mà trẻ sắp nghe, sắp tập hát,

múa cô có thể: Giới thiệu ngắn gọn về tên tác giả, tác phẩm và tóm lược nội dung
chính cho trẻ. Trong quá trình dạy trẻ tác phẩm âm nhạc, giáo viên vẫn phải quan


sát, bao quát các hoạt động của trẻ từ đó hướng dẫn kịp thời lỗi sai của trẻ.
2.107.

Đối với trẻ mẫu giáo bé, giáo viên có thể gợi ý câu hởi cho trẻ trả

lời, giúp trẻ nắm bắt rõ nội dung của tác phẩm.
Phương pháp trực quan

1.2.4.4.
2.108.

Ớ độ tuổi mẫu giáo, phương pháp trực quan được sử dụng một cách

tối ưu bởi chúng đáp ứng được nhu cầu truyền tải kiến thức đến trẻ nhanh nhất và
rõ ràng nhất. Sử dụng phương tiện trong dạy học âm nhạc giúp tiết học trở nên dễ
dàng, hấp dẫn và sinh động hơn.
-

Các phương tiện dạy học âm nhạc:




Các loại nhạc cụ phổ thông: Kèn, đàn, trống, mõ, phách, lục lạc, xúc sắc, chuông,...



Các loại đồ chơi mô phỏng hình dáng các nhạc cụ bằng nhựa, gỗ, giấy BVA, xốp
hoặc bìa,...



Các đạo cụ như: Phông màn trang trí sân khấu, búp bê làm khán giả, mũ đội đầu,...



Các thiết bị hỗ trợ khác như: Loa, máy tính, đài, ...



Phòng chức năng âm nhạc.

-

Phương pháp sử dụng phương tiện dạy học âm nhạc
2.109.

Sử dụng nhạc cụ là phương pháp sử dụng phương tiện dạy học

không chỉ là căn cứ đánh giá trình độ học vấn âm nhạc, kiến thức, năng lực hoạt
động âm nhạc của giáo viên; mà còn đánh giá khả năng truyền đạt của giáo viên
đến sự nhận thức đối với từng trẻ.
2.110.


Sử dụng đồ chơi âm nhạc, đạo cụ kết hợp phương pháp dùng lời để

giới thiệu tác phẩm, tác giả nhằm giúp trẻ làm quen âm nhạc. Tuy nhiên, không
được quá lạm dụng các thiết bị hỗ trợ làm ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy trẻ.
1.2.5. Các bước tiến hành việc giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo thông


qua hoạt động âm nhạc
-

Xác định các nội dung giáo dục đạo đức cần trang bị cho trẻ.

-

Xác định các nội dung giáo dục đao đức cho trẻ thông qua hoạt động âm nhạc dự
định tiến hành.

-

Xây dựng hệ thống câu hỏi khai thác và truyền đạt nội dung giáo dục đạo đức, dự
kiến một số tình huống đế lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức.

-

Thực hiện khai thác và truyền đạt nội dung giáo dục đạo đức tới trẻ.
1.2.6.
2.111.

-


Các yêu cầu khi giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua hoạt

động âm nhạc
ì.2.6.1. Khi lựa chọn tác phârn âm nhạc

Tác phâm âm nhạc phải giàu tình cảm, có nội dung lành mạnh, phù họp với chủ đề
giáo dục.

-

Tác phẩm âm nhạc có nội dung cô đọng, súc tích, phân biệt được rõ cái gì là tốt,
xấu; thiện, ác để phù hợp với nhận thức của trẻ.

-

Tác phẩm âm nhạc có khả năng kích thích và phát triển tình cảm đạo đức.
1.2.6.2. Khi khai thác nội dung giáo dục đạo đức cho trẻ từ hoạt động âm

nhạc.
-

Khi khai thác nội dung giáo dục đạo đức từ tác phẩm âm nhạc cần bám sát vào lời
ca, giai điệu, tiết tấu, tính chất,...của tác phẩm. Phân tích kĩ bài hát cho trẻ hiểu sau
đó rút ra nội dung giáo dục đạo đức nhẹ nhàng, linh hoạt rồi định hướng tới những
hành vi đạo đức, việc làm cụ thế.

-

Đối với các hoạt động diễn xuất âm nhạc cần khai thác nội dung giáo dục đạo đức

từ các hình thức diễn xuất âm nhạc và yêu cầu của các hình thức diễn xuất đó. Sau
đó định hướng gợi ý cho trẻ thói quen những hành vi đạo đức cụ thể và phù hợp
với thực tế.

-

Khi phân tích và truyền đạt nội dung giáo dục đạo đức từ hoạt động âm nhạc, giáo
viên cần sử dụng ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, trong sáng mang sắc thái biểu cảm để


×