Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

hoạt động thành lập trường học mới trong phong trào duy tân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.67 KB, 35 trang )

A.
1. Lý do chọn đề tài

PHẦN MỞ ĐẦU

Cuối thế kỷ XIX, phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp dưới ngọn
cờ Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Huyết đứng đầu đã thất bại.
Một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng
xâm lược nước ta, phải duy trì cuộc đấu tranh trong những điều kiện hết
sức khó khăn, địa hình hiểm trở, đã dần làm cho phong trào suy yếu dần và
đang trên đà tan rã. Bên cạnh đó, phong trào yêu nước mang màu sắc tôn
giáo xã hội vào những năm cuối thế kỷ XIX chứng tỏ sự khủng hoảng của
hệ tư tưởng phong kiến không còn đủ khả năng tập hợp nhân dân vào
công cuộc cứu nước. Trước yêu cầu đó buộc dân tộc ta phải đứng trước
hai sự lựa chọn một mất một còn: hoặc tiếp tục đi theo con đường cứu
nước theo tư tưởng phong kiến để tiếp tục cảm chịu cảnh nô lệ, phụ thuộc
vào thực dân Pháp, hoặc tìm ra con đường cứu nước mới, phù hợp với
tình hình đất nước và thế giới.Trong bối cảnh đó sự ra đời của phong trào
Duy Tân “là một cuộc cách mạng thật sự, cách mạng rất cơ bản về tư duy,
về phương hướng cứu nước và phát triển dân tộc”.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân phải làm
kiếp trâu ngựa trước sự bành trướng của bọn thực dân tư bản Phương
Tây. Với tinh thần yêu nước tỏ ra tức thời, không có thái độ bảo thủ trong
xử sự, bàng quang trước tình hình. Một số người, ngay cả quan lại trong
triều đình, nhất là những người có dịp ra nước ngoài nên thấy rõ sức
mạnh của văn minh kỹ thuật thế giới và cũng phải lên tiếng, đề đạt với
triều đình những công việc bức bách cần thực hiện để cho dân giàu nước
mạnh, trên cở sở đó mới bảo vệ được độc lập dân tộc. Phong trào Duy Tân
xuất hiện trong thời gian đó đã là một đòn bẩy mạnh làm thay đổi đất
nước từ kinh tế đến chính trị và đặc biệt là sự phát triển không ngừng về
văn hóa giáo dục. Trong quá trình cải cách, các nhà Duy Tân đặt nội dung


khai dân trí lên hàng đầu với hành động thực tiễn là mở hàng loạt các
trường học mới từ Bắc vào Nam. Họ coi đây là chìa khóa, là nền tảng cơ sở
để đất nước ta tiến gần hơn với độc lập dân tộc, tiến gần hơn với văn minh
nhân loại.
Việc tìm hiểu hoạt động mở trường học mới trong phong trào Duy
Tân đầu thế kỷ XX giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về sự chuyển
biến tư tưởng, nhận thức của một tầng lớp nho sĩ thức thời trước vận
mạnh dân tộc đầy chông chênh. Trong điều kiện lịch sử mới, một mặt họ
nêu lên vấn đề tiếp thu truyền bá văn minh Phương Tây lên hàng đầu làm
1


cho đất nước ta mở mang tiến lại gần hơn với những tiến bộ mới của thế
giới. Mặt khác, đó là tiếng nói khẩn thiết, tích cực của các chí sĩ yêu nước
về cuộc vận động yêu nước và cứu nước gắn liền với việc xây dựng văn
hóa, học thuật, đến việc đấu tranh giữa cái củ và cái mới, việc mở mang trí
tuệ, đào tạo nhân tài thay đổi tận gốc con người và xã hội Việt Nam. Do đó,
việc tìm hiểu hoạt động mở trường học mới trong phong trào Duy Tân đầu
thế kỷ XX là việc làm có ý nghĩa về mặt khoa học và giá trị thực tiễn sâu
sắc. Thứ nhất, nó góp phần tìm hiểu sâu sắc về hoạt động yêu nước cuối
thế kỷ XIX đầu thế Kỷ XX. Thứ hai, từ công trình nghiên cứu này nhằm đúc
rút được những bài học, những kinh nghiệm đắt giá cho sự nghiệp đổi mới
và phát triển ngành giáo dục học hiện nay.
Với những lý do trên đây, tôi quyết định chọn đề tài “Hoạt động thành
lập trường học mới trong phong trào Duy tân ở Việt Nam” làm đề tài tiểu
luận của mình.
2. Lịch sử vấn đề

Trong kho tàng tri thức nhân loại, đã có không ít tác giả đặt bút
nghiên cứu về phong trào Duy Tân vào khoảng những năm 30 của thế kỉ

XX. Liên quan đến đề tài “Hoạt động thành lập trường học mới trong
phong trào Duy Tân, đã có không ít tác giả đặt bút nghiên cứu về phong
trào Duy Tân và hoạt động của phong trào, mà nổi bật là hoạt động thành
lập trường học nổi lên khá rầm rộ. Mỗi công trình nghiên cứu của mỗi tác
giả, có cách tiếp cận vấn đề, hiểu vấn đề và trình bày vấn đề khác nhau,
nhưng quy tụ lại đều nhằm một mục đích là cung cấp cho chúng ta những
tư liệu quý giá, để chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn về hoạt động thành lập
trường học trong chặng đường canh tân đất nước trong khoảng thời gian
từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế XX và có sức ảnh hưởng lan tỏa trong tiến
trình cách mạng của đất nước ta cho đến nay.
Công trình nghiên cứu liên quan tới quá trình thành lập trường học
mới trong phong trào Duy Tân đa dạng và phong phú. Trong đó nổi bật lên
một số tác phẩm tiêu biểu của các tác giả nổi tiếng trong giới sử học, phải
kể đến như:
1. Chủ biên TS. Đỗ Thị Minh Thúy: Phong trào Duy Tân với sự chuyển biến văn
hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX, nxb từ điển bách khoa và viện Văn hóa, Hà
Nội, 2010.
Công trình nghiên cứu này đi sâu vào sự chuyển biến của văn hóa Việt
Nam đầu thế kỉ XX, thể hiện qua phong trào Duy Tân. Đặc biệt trong tác
phẩm này, tác giả cũng chú ý lột tả hết các đặc điểm về: nội dung, hình
2


thức, mục đích và cách thức tổ chức hoạt động chủ yếu trong việc cải cách
giáo dục theo hướng mới. Công trình đã có những đóng góp quan trọng
trong việc phát hiện những chi tiết mới, đặc sắc trong việc xây dựng
trường học trong phong trào Duy Tân. Tác phẩm này không chỉ cung cấp
thêm tri thức, hiểu biết cho bạn đọc mà còn là nguồn tài liệu quý báu cho
những ai quan tâm nghiên cứu về vấn đề này.
2. Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam. Miền Nam đầu thế kỉ XX, Biên khảo

Sơn Nam, 2004.
Công trình này không chỉ đề cập một cách chi tiết hay đi sâu nghiên
cứu về quá trình thành lập trường học mới rong phong trào Duy Tân. Tác
phẩm chỉ giới thiệu quá trình ra đời và hoạt động của phong trào Duy Tân
ở Bắc – Trung - Nam. Tuy nhiên, trong phần hoạt động của phong trào, tác
giả đã chú ý đi sâu, làm rõ quá trình thành lập và hoạt động của quá trình
thành lập trường học mới ở cả Bắc Trung Nam vào khoảng những năm 30
của thế kỉ XX trong phong trào Duy Tân ở Việt Nam.
3. Năm 2005, tác giả Lý Tùng Hiếu cho ra đời tác phẩm Lương Văn Can và
phong trào Duy Tân do nhà xuất bản văn hóa Sài Gòn ấn hành. Tác phẩm
cùng phần nào gói gọn được nội dung chính của phong trào Duy Tân và
phần nhỏ nào đó cũng phản ánh hoạt động thành lập trường học mới ở cả
Bắc – Trung - Nam.
4. Tác giả Chương Thâu với tác phẩm “Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào
cải cách văn hóa đầu thể kỷ XX” do nhà xuất bản văn hóa thông tin ấn
hành. Tác phẩm cho người đọc sống lại với phong trào Duy Tân đầu thế kỷ
XX, với nội dung chi tiết, lối viết uyển chuyển cùng những tư liệu vô cùng
đắt giá. Bên cạnh đó tác giả còn giới thiệu một cách chi tiết về ngôi trường
“Đông Kinh Nghĩa Thục”, một ngôi trường có tiếng và phát triển nhất
trong thời kỳ phong trào Duy Tân nổ ra ở miền Bắc và còn rất nhiều tác
phẩm khác có liên quan đến đề tài trên mà tôi đang tìm hiểu.
Như vậy, vấn đề “Hoạt động thành lập trường học mới trong phong
trào Duy tân ở Việt Nam” bước đầu đã được các nhà nghiên cứu đề cập ở
một mức độ khác nhau. Tuy nhiên, do mục đích các công trình, cho đến nay
vẫn chưa có một công trình thật sự có hệ thống, toàn diện và chi tiết về
riêng vấn đề này. Mặc dù vậy, các công trình trên đây là nguồn tư liệu quý
để tôi có thể tham khảo nhằm hoàn thành bài tiểu luận này.
3. Mục đích và phương pháp nghiên cứu
Bắt tay vào nghiên cứu đề tài này, trước hết mục đích của bản thân
tôi là để tự học tập, tự rèn luyện việc tìm hiểu một vấn đề cụ thể trong lịch

sử Việt Nam. Đồng thời, cũng bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu
3


khoa học, góp phần nhỏ bé của mình để bổ sung vào bài giảng lịch sử Việt
Nam thời cận đại. Ngoài ra cũng dần bồi dưỡng cho bản thân lòng yêu
nước, tự hào về con người Việt Nam, về sức sống của văn hóa, trí tuệ Việt
Nam, để tăng thêm niềm tin vào tiền đồ của sự nghiệp xây dựng và phát
triển đất nước của dân tộc.
Để hoàn thành bài tiểu luận này, tôi đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: Phương pháp luận Mác Lênin, phương pháp Logic,
phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp sưu tầm, phương pháp tập
hợp tài liệu, phương pháp tổng hợp và khai thác tài liệu.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu

Đối thượng nghiên cứu của Tiểu luận là hoạt động thành lập trường
học mới trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để hoàn thành bài tiểu luận với nội dung
“Hoạt động thành lập trường học mới trong phong trào Duy Tân”, tác giả
tiểu luận sẽ thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
+ Khái quát về phong trào Duy Tân ở Việt Nam và nêu tính chất tất
yếu, hoạt động chủ yếu của phong trào ở cả ba vùng Bắc – Trung – Nam.
+ Từ đó tác giả trình bày quá trình thành lập trường học mới, giới
thiệu chi tiết về một số trường học tiêu biểu được thành lập trong giai
đoạn đó.
+ Trên cơ sở đó rút ra vai trò và tầm ảnh hưởng của các trường
học đó đối với sự phát triển của phong trào Duy Tân.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
gồm 2 chương:

Chương 1: Khái quát về phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế
kỉ XX.

1.1.
1.2.

Tính tất yếu của phong trào Duy Tân ở Việt Nam
Khái quát về phong trào Duy Tân
1.2.1. Phong trào Duy Tân ở miền Bắc
1.2.2. Phong trào Duy Tân ở miền Trung
1.2.3. Phong trào Duy Tân ở miền Nam
4


Chương 2: Hoạt động mở trường học trong phong trào Duy Tân
4.1.
4.2.
4.3.

Những tiền đề thúc đẩy sự phát triển của hoạt động mở trường học trong
phong trào Duy Tân
Một số trường học tiêu biểu
Vai trò của của trường học đối với sự phát triển của phong trào Duy Tân.

5


B. NỘI DUNG

Chương 1: Khái quát về phong trào Duy Tân ở Việt Nam đầu thế

kỷ XX
1.1.

Tính tất yếu của phong trào Duy Tân ở Việt Nam
Phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX thất bại, ngọn cờ phong kiến
không còn cứu vãn được. Nhiều sĩ phu rơi vào tình trạng hoang mang,
chán nản. Một bộ phận sĩ phu không chịu được cảnh gian khổ, bế tắc, họ
tìm cách liên lạc, quay lại bắt tay với Pháp, phục tùng chính quyền đô hộ.
Một số khác tìm con đường an toàn hơn, họ lánh xa cuộc đời chính trị , tìm
nơi ẩn dật sống cuộc đời thanh đạm, không màng thế sự chính trị. Tuy
nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số bộ phận sĩ phu vẫn hăng hái tham gia
cách mạng, ý chí chiến đấu vẫn sôi sục trong họ, cháy bỏng lan tỏa đều
trong từng huyết quản của những con người ấy. Họ quyết tâm dốc hết sức
lực, trí tuệ ra cống hiến cho đất nước, giúp dân. Song khó khăn vẫn không
ngừng theo đuổi họ, sự bế tắc trong đường lối cứu nước, tư tưởng đã
không còn phù hợp với điều kiện lúc bấy giờ, cùng với những tác động, ảnh
hưởng mạnh mẽ trong nước và ngoài nước đã thúc đẩy họ đi tìm một con
đường cứu nước mới, mở ra một phương trời mới cho dân tộc, họ hy vọng
rằng đất trời Việt Nam sẽ không còn chỗ dung thân cho bọn quan cường
hách dịch, bọn cướp nước hại dân.Những người này trong quá trình tìm
đường cứu nước mới, đã cố gắng tìm tòi, học hỏi gương các nhà “cách
tân” ở các nước láng giềng như: Trung Quốc, Nhật Bản.
Trong khoảnh khắc giao thời giữa hai thế kỉ (XIX và XX), ở vùng
Đông Á lúc bấy giờ diễn ra nhiều sự kiện trọng đại với những thành công
lớn cho cách mạng ở các nước vùng Đông Nam Á. Nổi bật nhất là ở Nhật
Bản và Trung Quốc. Công cuộc Duy Tân của Nhật Bản bắt đầu từ năm
1868, vua Mịnh Trị đã tiến hành hàng loạt các cuộc cải cách dựa trên ý chí
Nhật Bản cộng với mô hình xã hội và thiết chế chính trị từ phương Tây.
Nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng trầm trọng về mặt kinh tế, xã
hội, chính trị. Cuộc khởi nghĩa này đòi hỏi Nhật Bản phải lựa chọn một

trong hai con đường : một là tiếp tục duy trì chế độ phong kiến lạc hậu để
thế lực thống trị Mặc Phủ giữ được quyền lợi càng lâu càng tốt với nguy
cơ trở thành một nước thuộc địa hoặc đi theo con đường cải cách đất
nước với cơ hội trở thành một cường quốc như các nước phương Tây.
Đứng trước sự lựa chọn đầy khó khăn, Nhật Bản quyết định mở cuộc vận
động Duy Tân cải cách đất nước với cơ hội đưa đất nước phát triển vươn
6


lên ngang hàng với các nước phương Tây. Được sự ủng hộ của tầng lớp
Samurai là tầng lớp tư sản mới lên. Thiên Hoàng Minh Trị và các nhà Duy
Tân Nhật Bản nhanh chóng đưa Nhật Bản trở thành một quốc gia hùng
cường ở Châu Á, có tiềm lực trí tuệ và tiềm lực vật chất kỉ thuật để đuổi
kịp và vượt qua các nước Âu – Mỹ chỉ trong vòng trên dưới 30 năm.Chính
sự lớn mạnh của mình, Nhật Bản nhanh chóng đánh bại Nga sa hoàng,
buộc nước Nga nhận lời điều đình với việc ký Hòa ước Po-xmut ngày
5/9/1905 chịu mất cho Nhật nhiều quyền lợi. Thắng lợi này ngày càng tỏ
rỏ sức mạnh, ý chí cũng như lực lượng của một đế quốc trẻ đang sung sức
khiến bọn đế quốc phương Tây phải dè chừng Chính cả thế giới, đặc biệt là
Đông Á và Đông Nam Á, cũng đã thừa nhận rằng, nhờ có Duy Tân nước
Nhật mới đạt được thành tựu lớn. Uy tín của Nhật Bản vang dội khắp thế
giới, tác động trực tiếp đến các nhà yêu nước Việt Nam. Để tuyên truyền về
sức mạnh của nước Nhật Bản duy tân, các nhà Nho yêu nước đã sáng tác
nhiều bài ca như:
“Cờ độc lập đứng đầu đất nước
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn
Thái Đông nổi hiệu duy tân
Nhật Hoàng là đứng anh quân ai bì”
Và họ cũng cho rằng:
“Nhật là bạn, Pháp là thù,

Mưu cao phải học, thù sâu phải đền’’ [1; tr. 8]
Ngoài những hoạt động rầm rộ của Duy Tân hội diễn ra ở Nhật
Bản, cũng chưa hẳn làm rung chuyển tư tưởng cách mạng của tầng lớp
Nho sĩ Việt Nam lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, vào thời kì này ở Trung Quốc
cũng xảy ra các sự kiện đáng chú ý. Trung Hoa đối với nước ta mà nói
không chỉ là đồng văn, đồng chủng, mà còn là nước cùng cảnh ngộ, ảnh
hưởng nho giáo Trung Quốc ở Việt Nam hết sức sâu đậm. Thời kỳ này
nhiều tác phẩm của phái cấp tiến ở Trung Quốc đã đưa vào Việt Nam, với
nhiều nhân vật nổi tiếng như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu với nhiều cải
cách mới mẽ và tiến bộ. Nhiều vị thức gia bắt đầu cuộc vận động Duy Tân
ngay từ sau trận Nha Phiến chiến tranh. Họ thấy rằng bế quan tỏa cảng là
thất sách. Họ muốn canh tân hóa nước nhà, đặt ưu tiên cho việc canh tân
về quân sự. Sau khi thua Nhật năm 1895, phong trào Duy Tân ở Trung
Quốc được khích động với hai lãnh tụ là Khang Hữu Vi và Lương Khải
Siêu, khi bàn về cải cách mới, Lương tiên sinh với chủ trương “Tôi suy
ngẫm lại, cảnh lớp người bị trị nước Trung Hoa ngày nay, cần phải được
quét sạch tận gốc rễ tù túng, phải loại bỏ cũ, mà phơi bày cái mới một
7


cách rộng rãi vậy” [13, tr. 32]. Nhưng bọn cựu thần trong triều đình ngấm
ngầm chống đối, đi đến hậu quả là xảy ra cuộc chính biến năm Mậu Tuất
1898, các cuộc cải cách đó dần dần đi vào thất bại, Khang Hữu Vi, Lương
Khải Siêu bị truy nã phải chạy sang Nhật Bản. Các cuộc đấu tranh nói trên
đã dẫn tới cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) của giai cấp tư sản do Tôn
Trung Sơn lãnh đạo. Cuộc cách mạng này như LêNin đã đánh giá “Đã kết
thúc chế độ phong kiến tồn tại hai nghìn năm đưa quan niệm Dân Chủ
Cộng Hòa vào sâu trong tận đáy lòng mọi người”.
Chính cuộc khởi nghĩa này đã làm cho giới nho sĩ Trung Quốc sực
tỉnh, chuyển biến theo đường lối mới và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các

nước ở trong vùng và có ảnh hưởng không nhỏ đến khu vực Đông Á, đang
bắt đầu thức tỉnh trong đó có Việt Nam.
Bên cạnh đó, các tân thư tân văn cũng là một trong những nguồn
tư liệu quý giá góp phần vào việc thức tỉnh ý thức, tư tưởng dân tộc cho
từng lớp sĩ phu lúc bấy giờ. Tân thư là những cuốn sách chứa đựng kiến
thức mới, những kiến thức này bao gồm về khoa học tự nhiên và khoa học
xã hội, toán, lý, hóa cho đến địa lý, lịch sử được dịch từ sách phương Tây,
với mục đích giới thiệu về văn minh phương Tây. Những cuốn tân thư dịch
tiêu biểu đã được phổ biến ở Trung Quốc và Nhật Bản với các tác phẩm
như Dân ước luận của Lư Thoa, Vạn pháp tinh lý của Mạnh Đức Tư Cưu và
rất nhiều tân thư của nhiều tác giả khác. Ngoài tân thư còn có các tân văn,
tân văn là những tờ báo, những bài vờ tin tức do các nhà duy tân Trung
Quốc sáng tác. Với các tờ như Thời vụ báo, Thanh nghị báo, Tân dân tùng
báo của Lương Khải Siêu, với chủ trương cải cách duy tân và tư tưởng dân
chủ tư sản phương Tây. Các tân thư, tân văn được du nhập nhiều vào nước
ta trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hầu hết những sĩ phu
yêu nước đầu thế kỷ XX đều được tiếp xúc với các tân thư tân văn du nhập
từ Nhật Bản và Trung Quốc sang, các tân thư tân văn này đã tác động
mạnh đến giới sĩ phu còn nặng về hủ tục nho học, như một hồi chuông tỉnh
mộng đối với các sĩ phu yêu nước. Huỳnh Thúc Kháng đã đưa ra ý kiến của
mình như một minh chứng chung cho sự thức tỉnh đó: «Địa ngục mấy
tầng, ngọn triều Âu tràn vào ở bốn mặt, đồng nội mịt mù, đêm dài dằng
dặc, bổng đâu gà hàng xóm gáy lên một tiếng, giấc mộng quần chúng
thoạt tỉnh đậy: Sau cuộc Trung – Nhật chiến tranh (1894), canh Tý liên
bình (1900), người Trung Hoa đã dịch các học thuyết Đông Tây; sách báo
của danh nhân như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi; tạp chí của các phái
cách mạng Tôn Dật Tiến lần lần lọt vào nước ta . Trong học giới có bạn đã
8



sẵn có tư tưởng quốc gia cùng lòng đau đớn với giống nòi, được đọc loại
sách báo nói trên, như trong buồng tối, bỗng chợt thấy tia ánh sáng lọt
vào, nhưng học thuyết mới «cạnh tranh sinh tồn», «nhân quyền tự do» gần
chiếm cả cái chủ đích môn khoa cử ngày trước, mà một tiếng sét nổ đùng.
Có sức kích thích mạnh nhất thấm vào tâm não người Việt Nam ta là trận
chiến tranh 1904 Nhật Bản thắng Nga » [7, tr. 31].
Những sự kiện trên đã ảnh hưởng mạnh mẽ và tạo điều kiện khách
quan thuận lợi cho phong trào Duy Tân nảy nở. Tuy nhiên, với những ảnh
hưởng sâu sắc của tình hình cách mạng thế giới chưa đủ mạnh mẽ làm lay
chuyển tình hình cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Chính tình hình trong
nước cũng là một trong những nhân tố quan trọng, thúc đẩy phong trào
cách mạng nước ta thay đổi và phát triển lên phong trào Duy Tân.
Đầu thế kỉ XIX, ở nước ta vào thời kì này cũng đầy những biến
động. Phong trào Cần Vương vừa bùng nổ đã bị dập tắt. Nhưng tinh thần
cứu nước vẫn chưa chìm xuống. Tiếng vang từ các cuộc khởi nghĩa từ
Phan Đình Phùng đến Đề Thám vẫn còn ảnh hưởng lớn, vẫn còn thôi thúc
mọi người tham gia cách mạng, dương cao ngọn cờ đấu tranh giành độc
lập cho dân tộc. Bên cạnh đó, vào những năm 1858, trong cuộc bình định
Việt Nam của thực dân Pháp đã căn bản hoàn thành. Kể từ ngày
15/9/1896 với sắc lệnh của tổng thống Pháp cho phép toàn quyền Đông
Dương được thành lập hội đồng đề hình, thực dân Pháp đã hoàn toàn thay
thế Nam Triều để trực tiếp xét xử những người Việt Nam chống Pháp ở
Trung Kỳ và Bắc Kỳ bằng những bản án tàn khốc nhất.
Vào ngày 22/3/1897, chúng đưa ra một bản dự án gồm 7 điều,
bản dự án này như là một bản kế hoạch với quy mô và hình thức tiến hành
khai thác thuộc địa ở nước ta của thực dân Pháp. Để xúc tiến kế hoạch
mau lẹ và diễn ra thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Chúng ra sức cũng cố,
tăng cường viện trợ về phương tiện chiến tranh, binh lính, lương thực
thực phẩm, chúng thiết lập bộ máy thống trị, thành lập tòa án, sở ám sát,
nhà tù, cầu cống, đường sá..nhằm phục vụ tốt nhất, tân tiến nhất, với mục

đích đáp ứng một cách thiết yếu nhất cho công cuộc khai thác thuộc địa ở
Việt Nam. Bắt tay vào con đường khai thác thuộc địa, chúng tiến hành bóc
lột nhân dân ta trên tất cả các mặt: về kinh tế, chính trị và văn hóa giáo
dục.
Về quân sự: Với chính sách dùng người Việt trị người Việt chúng
muốn nhân dân ta tàn sát lẫn nhau, chia rẽ nội bộ, phá bỏ tinh thần yêu
nước, truyền thống dân tộc Việt Nam. Ngoài ra chúng còn thành lập các
9


1.2.

lực lượng lính cơ, lính khố xanh, bắt thanh niên đi lính. Đối với tư pháp,
chính quyền chúng thành lập các sở cảnh sát và nhà tù ở huyện trở lên.
Chúng còn xây dựng các ngân hàng Đông Dương với những quyền lực
rộng lớn, phát triển mạng lưới giao thông, đánh thuế nặng vào nông
nghiệp, lâm nghiệp và thương mại.
Về văn hóa: chúng thi hành chính sách ngu dân và đầu độc nặng về
văn hóa. Truyền thụ các hủ tục, lối sống đồi bại, chúng tăng cường dịch
thuật các tác phẩm Pháp, bắt nhân dân ta sống cổ hủ theo lối phong kiến
Trung Hoa. Chúng tiến hành xây dựng một nền giáo dục thực dân – nữa
phong kiến với mục đích nô dịch và đồng hóa nhân dân Việt Nam.
Về chính trị: Chúng sử dụng chính sách chia để trị, chia Việt Nam
ra thành ba xứ với ba chế độ chính trị khác nhau.
Trước tình hình các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa- giáo dục
của đất nước đều bị chế độ thực dân bán phong kiến giam cầm, phanh
hãm như vậy, các sĩ phu yêu nước không cam chịu, họ vẫn nung nấu ý
nguyện phục thù, vẫn mong muốn vì non nước tuốt gươm ra. Ngay trong
bản dự án chương trình hành động gửi cho bộ trưởng thuộc địa Pháp vào
ngày 22/3/1897 sau khi bình định, viên toàn quyền Đông Dương Paul

Doumer đã nhận ra điều đó: “Nhân dân toàn xứ đều như đã khuất phục
dưới quyền thống trị của chúng ta, nhưng chưa phải đã thấm nhuần tính
chất vĩnh viễn của nền đô hộ Pháp và sẵn sàng nắm lấy một thời cơ thuận
lợi hay một giây phút yếu đuối của chúng ta để lật đổ ách nặng trên đầu”
[2, tr. 73]. Quả vậy, không lâu sau khi tiếng súng Phan Đình Phùng lịm tắt,
một đường lối mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc đã được các sĩ phu
yêu nước vạch ra dưới ánh sáng của tư tưởng Duy Tân của Nhật Bản,
Trung Hoa của thiên hạ đại thế luận và các loại tân thư, tân văn truyền bá
tư tưởng dân chủ tư sản phương tây. Ngay sau khi giác ngộ được tư
tưởng mới, đường lối mới, các sĩ phu yêu nước đã hăm hở dấn thân,
giương cao ngọn cờ Duy Tân cứu nước, lôi cuốn quần chúng Bắc – Trung –
Nam, hồi sinh phong trào yêu nước, đưa sự nghiệp cứu nước sang giai
đoạn mới - giai đoạn hóa tư sản để tự cường giành độc lập. Chính vì vậy
phong trào Duy Tân ra đời vào thời điểm đó là một tất yếu, một yêu cầu
bức thiết của lịch sử, không ai có thể chối cải hay phủ nhận tầm quan
trọng và ảnh hưởng của nó đối với sự ra đời của phong trào Duy Tân.
Khái quát về phong trào Duy Tân
Độc lập dân tộc và canh tân đất nước luôn là khát vọng của người
Việt Nam. Mục đích, lý tưởng ấy đã thôi thúc các thế hệ Việt Nam chiến
10


đấu quên mình, vượt qua mọi thử thách để vươn lên tìm con đường cứu
nước đúng đắn. Tư tưởng Duy Tân khởi sắc trong những năm đầu của thế
kỷ XX đã phần nào phản ánh nhịp độ phát triển nhanh chóng về chính trị
của các tổ chức cách mạng và hình thái biểu hiện.
Trong lịch sử Việt Nam tư tưởng canh tân đã nhiều lần xuất hiện, đặc
biệt là trong giai đoạn vận nước chông chênh, đòi hỏi phải tiến hành sửa
sang tận gốc để làm vững lại nền móng giữ nước. Năm 1858, thực dân
Pháp chính thức nổ súng mở đường xâm lược nước ta, nhà Nguyễn chống

cự yếu ớt rồi dần dần đi vào thỏa hiệp với các hiệp ước năm 1862, 1874,
1883, 1884. Thực dân Pháp đã biến nước ta từ một nước độc lập có chủ
quyền dân tộc, bổng chốc trở thành một nước lệ thuộc vào Pháp, mất đi vị
trí trên bản đồ thế giới. Trong hoàn cảnh đất nước nằm dưới ách thống trị
của thực dân, tầng lớp trí thức Nho học cấp tiến đã được lịch sử giao phó
cho sứ mạnh chèo chóng con thuyền cách mạng. Các tầng lớp sĩ phu yêu
nước đại diện cho trào lưu “quốc gia chủ nghĩa”, họ là những người có trí
thức, yêu nước, nhưng tư tưởng cứu nước của họ bị chi phối mạnh mẽ bởi
đạo vua tôi trong giáo lý Khổng Mạnh. Bởi vậy những hy sinh của họ là vì
cá nhân “vua” chứ không phải hy sinh vì tập thể “nhân dân”. Chính vì lẽ đó,
ngọn cờ phong trào Cần Vương vừa bùng nổ đã được sự hưởng ứng đông
đảo của quần chúng nhân dân. Mặc dù rất oanh liệt nhưng cũng sớm đi
vào thất bại, vì ngọn cờ theo hệ tư tưởng phong kiến đã không còn đủ sức
để đưa phong trào tiến lên nữa. Bởi vậy phong trào giải phóng dân tộc vào
cuối thế kỷ XIX lâm vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc về đường lối
chiến đấu khá nghiêm trọng. Ngay sau khi phong trào Cần Vương và
phong trào Văn thân thất bại, nhiều cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
ở Việt Nam liên tục nổ ra với nhiều hình thức nhưng đại đa số các cuộc
khởi nghĩa nổ ra đã đi theo chiều hướng mới chiều hướng canh tân đất
nước theo mô hình Duy Tân ở Trung Quốc và Nhật Bản. Đầu thế kỷ XX, với
phong trào Duy Tân – Đông Du tư tưởng canh tân mới lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam, bộc phát thành một phong trào xã hội, có ý nghĩa như
một cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa, làm thay đổi sâu sắc xã hội Việt
Nam cả trên ba phương diện dân tộc, dân chủ và dân sinh. Thức thời,
trước cảnh đen tối của đất nước, mong muốn được giải phóng, cởi bỏ ách
thống trị thực dân. Các nhà khoa bảng đã sớm có những định hướng giống
nhau cùng xướng xuất một cuộc “cách mạng” ý tưởng đó đã được nhen
nhóm khi họ còn là những tú tài trong các cuộc thi Hương, thi Hội. Chính
ước mơ thưở thiếu thời đó đã soi sáng ước mơ cho các sĩ tử Qủang Nam
11



tìm đến con đường cứu nước mới. Họ khước từ việc làm quan, cởi bỏ mủ
áo quan quyền mà tìm đến nhân dân huấn dục và tạo niềm tin cho họ vào
cách mạng. Nổi bật trong số đó có Huỳnh Thúc Kháng, Lê Ba Trinh, Phan
Thục Duyệt, Phan Châu Trinh, Nguyễn Lộ Trạch, Trần Quý Cáp…
Năm 1903, sau nhiều cuộc luận đàm của Phan Châu Trinh với Lê
Cơ, Phan Thúc Duyện, Huỳnh Thúc Kháng. Đặc biệt là sau cuộc mật nghị
tại nhà Tiểu La Thành ở Nam Thạnh sơn trang, các sĩ phu đã quyết định
phát động phong trào Duy Tân theo phương châm “Khai dân trí, Chấn dân
khí, Hậu dân sinh”.
Phong trào Duy Tân hoạt động theo chủ trương bất bạo động, khôi
phục đất nước bằng con đường nâng cao dân trí, cải tổ xã hội về mọi mặt,
trong đó có kinh tế, giáo dục và văn hóa, với các hoạt động thực tiễn như
là mở mang kinh tế, lập các nhà buôn lớn để tự lực. Đặc biệt phong trào
này chú trọng lớn đến cải cách giáo dục, coi giáo dục là con đường tân tiến
nhất trong việc canh tân đất nước. Với các hoạt động như thành lập các
trường học mới theo lối học hiện đại: dạy chữ quốc ngữ, bỏ dần lối học
khoa bảng từ chương, dạy thêm khoa học và ngoại ngữ cũng như hướng
đến nền chính trị dân chủ.
Khai dân trí: Bỏ lối học tầm chương trích cú, dạy chữ quốc ngữ,
khoa học. Vận động từ bỏ lối sống xa hoa, bài trừ hủ tục lạc hậu. Giáo dục
cả về đạo đức, nhân cách, phẩm chất.
Chấn dân khí: Vận động, tuyền truyền, thức tỉnh, làm cho mọi
người hiểu rõ được giá trị của bản thân, thấy được quyền lợi vốn có của
mình. Bên cạnh đó nâng cao tinh thần tự cường, chống lại sự bóc lột hà
hiếp của bọn quan lại cường hào.
Hậu dân sinh: Khuyến khích nhân dân học nghề nghiệp, khai
hoang làm vườn, lập hội buôn và sản xuất hàng hóa và rất nhiều các hoạt
động khác liên quan đến lợi ích của quần chúng nhân dân.

Như vậy, cuộc vận động cải cách Duy Tân khởi phát từ Quảng nam
và dần lan rộng ra Quảng Ngãi, các tỉnh Trung Kì và nhanh chóng phát
triển và lan rộng ra cả nước.
1.2.1. Phong trào Duy Tân ở Miền Bắc
Phong trào Duy Tân phát khởi thật sự trên mảnh đất Quảng Nam.
Thừa Tuyên – Quảng Nam (Nam Hà) đã trở thành căn cứ của phong trào
từ Quảng Nam lan ra khắp Trung Bộ và vượt Trường Sơn ra đến Bắc Hà, ở
đây phong trào phát triển hết sức sôi nổi, những cải cách diễn ra ở Bắc Kỳ
nhanh chóng trở thành những cuộc cải cách tiêu biểu có tiếng vang xa và
nhanh chóng trở thành trung tâm văn hóa của phong trào.
12


Lúc trước, với những bất công của các triều Lê Nguyễn đã khiến cho
một số sĩ phu miền Bắc ngày càng chui vào cái vỏ tiêu cực và họ mất dần ý
thức quật cường, ý thức chủ nhân thực sự của một đất nước trong thời
gian lâu dài. Với cuộc đấu tranh Cần Vương không mấy sĩ phu tỏ ra có chí
khí cho đến khi thế xâm lăng của Pháp đã thành nề nếp. Đề Thám hiên
ngang chiếm một biên thùy, các sĩ phu miền Bắc mới vội giật mình, nhớ tới
trách nhiệm của mình lần đầu tiên sau nhiều năm trì trệ trong cái vỏ bọc
cá nhân đầy mặc cảm, sĩ phu miền Bắc thức dậy với một khí thế linh hoạt,
một tinh thần hợp tác trong công việc cứu nước, cứu dân, họ đã quyết
định đứng lên làm mới mẽ phong trào Duy Tân. Sau nhiều lần bàn bạc với
nhau, họ nhận định rằng : phong trào Duy Tân không chỉ thuần túy về văn
hóa mà giữa duy tân và phái bạo động là sự phân công lẫn nhau. Ông
Nguyễn Hiến Lê đã đi tới xác nhận :
«Khi cụ Lương văn Can hòa giải hai cụ Sào Nam và Nguyễn Quyền
mà nói : Theo ý tôi, ngoại viện và tự cường phải đồng thời tiến hành với
nhau mới được,cụ đã có ý cùng với cụ Tây Hồ và một số đồng chí trong
nước chuyên lo việc duy tân, tự cường, còn việc cầu ngoại viện và bạo

động để Kỳ Ngoại Hầu với cụ Sào Nam đảm nhiệm. Cụ Sào Nam hiểu như
vậy nên từ đó về sau ít liên lạc trực tiếp với cụ Lương và cụ Tây Hồ, sợ trở
ngại công việc của hai cụ này. Tự nhiên, hai phái ôn hòa và bạo động vẫn
ngầm giúp nhau, hồi đó tinh thần đảng phái ít hơn ngày nay có thể nói là
gần như hoàn toàn không có » [13, tr. 222].
Đây chính là tính chất của vấn đề, là một tiến bộ rất lớn, đáng kể
của các nhà cách mạng đã biết đặt học thuyết, tư tưởng, lý tưởng trên tình
cảm đã có đường lối, chủ trương, kế hoạch cụ thể chứ không phất phơ
trong mớ tư tưởng mơ hồ. Bởi vậy, các sĩ phu yêu nước ở miền Bắc nhanh
chóng bắt tay vào xây dựng phong trào duy tân với các hoạt động sôi nổi,
tiêu biểu nhất là chấn hưng kinh tế và thành lập trường học.
Trong hoạt động chấn hưng kinh tế: vấn đề mở mang công thương
nghiệp được đặt lên hàng đầu, với mục đích tích lũy nguồn vốn nhằm
trang trải chi phí cho việc trường học, sau nữa là giúp vào quỹ bí mật, ủng
hộ học sinh Đông Du. Phong trào còn vận động đồng bào mạnh dạn tự lực
bước trên con đường thực nghiệp. Thời phong kiến, việc lao động bị xem
là ti tiện, việc mua bán chỉ dành cho kẻ ham lợi. Vì lệ thuộc vào Trung Hoa,
từ lâu ta cho rằng sản phẩm của tàu đều tốt, coi thường hàng nội. Ở Bắc
kỳ hiện tượng này trở nên phổ biến, chính sự việc đó đã khiến cụ Đỗ Chân
Thiết cùng với bạn mình lập ra hiệu Đồng Lợi Tế chuyên bán hàng nội hóa,
13


mở thêm tiệm thuốc Bắc Tuy Phương. Chưa hết, cụ Hoàng Tăng Bí mở
hiệu Đồng Thành Xương vừa buôn bán vừa sản xuất lọai xuyến đen, sản
xuất trà mạn, trà tàu. Phong trào lan rộng tới Phúc Yên, Hưng Yên.
Về nông nghiệp, các sĩ phu ra sức lập đồn điền gồm có hai đồn điền
lớn : một ở Yên Lập (thuộc Yên Bái) còn lại ở Mỹ Đức.
Về công nghiệp, hoạt động khai thác mỏ cũng được chú ý tới.
Nói chung, các công trình đã để lại tiếng vang lớn, kích thích lòng

yêu nước. Còn về mặt tài chính thì hoàn toàn thất bại.
Đối với hoạt động thành lập trường học ở miền Bắc lúc bấy giờ thì
Đông Kinh Nghĩa Thục là một trong những ngôi trường nổi tiếng và có sức
ảnh hưởng lớn trong công cuộc cải cách văn hóa theo phong trào Duy Tân
của nước ta vào khoảng thế kỷ XIX.
Trường học được thành lập theo chủ trương nhằm cải cách cách
thức học, học để phụng sự tổ quốc nhân dân chứ không phải học để làm
quan, làm người kẻ sĩ. Học không theo lối tầm chương trích cú, học không
thi, học để biết để làm, đừng quá tin vào đạo lý thánh hiền mà phải bắt
đầu học từ thực tiễn. Với nội dung chương trình học mang tính toàn diện
từ tư tưởng khoa học, địa lý, lịch sử dân tộc đặc biệt là chú trọng và
khuyến khích học nghề. Bởi vì họ cho rằng «Loài người đã không tìm nghề
nghiệp phải sinh ra nhiều kiếp gian nan» [13, tr.19]. Đây chính là lối học
đúng đắn nhất để đưa nền giáo dục nước nhà đổi mới, thoát khỏi vỏ bọc
của hệ tư tưởng phong kiến. Cuộc cải cách này nhằm mục tiêu dân quyền,
tập hợp được quần chúng đấu tranh theo ý thức hệ mới, cuộc đấu tranh
không kể xương máu, tù đày, tra tấn mà các lãnh tụ của phong trào là một
trong những người yêu nước bậc nhất lúc bấy giờ và Đông Kinh Nghĩa
Thục đã làm được điều đó.
Ngoài ra các sĩ phu duy tân còn sáng tác, dịch sách mong làm cho
đồng bào thức tỉnh. Họ ra sức diễn thuyết và coi đây là phương tiện hữu
hiệu nhất để hoạt động tuyên truyền và công khai. Vào ngày rằm năm
Đinh Mùi (1907), nhân lúc đồng bào tập trung tại đền Ngọc Sơn để nghe
hòa thượng thuyết pháp như mọi năm, hại cụ Dương Bá Trạc và Lương
Trúc Đàm chực sẵn để kêu gọi duy tân và các cuộc vận động khác.
Như vậy, phong trào Duy Tân ở miền Bắc tuy mới mẻ (1907 – 1908)
những đã có tiếng vang xa rộng làm cho vẻ vang cả phong trào toàn quốc.
Nhưng Bắc cũng như Nam, vì phong trào còn non, vì thiếu cách thâm nhập
quần chúng, lại thêm miền Bắc cổ tục quá nhiều, qúa nặng nên phong trào
chỉ lơ lửng trên hàng sĩ phu và thị dân, tức là một ít quần chúng có những

liên lạc mật thiết về quyền lợi với quần chúng nhân dân đông đảo. Bởi thế
14


nó nặng về tinh thần trau dồi kiến thức hơn là tranh thủ các quyền lợi của
dân, tranh đấu cho đời sống nhân dân. Vì thế phong trào ở miền Bắc phát
triển ở một mức độ nhất định rồi cũng nhanh chóng đi vào thất bại.
1.2.2. Phong trào Duy Tân ở miền Nam
Do điều kiện kinh tế - xã hội khác với Trung và Bắc nên hoạt động duy
tân trên đất này diễn ra có nhiều nét khác biệt chung với cả nước. Sự khác
biệt đó đầu tiên thể hiện ở tên gọi, ở Nam Kỳ phong trào Duy Tân mang
tên Minh Tân với ý nghĩa “làm cho đức sáng và đổi mới cho dân”. Phong
trào Minh Tân phát khởi năm 1901 đến năm 1907 thì phát khởi thành
phong trào kéo dài cho đến năm 1908 thì tan rã. Phong trào Duy Tân ở
Nam Kỳ gắn liền với tên tuổi của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng,
Trần Quý Cáp những nhân vật làm bùng nổ Duy Tân.
Mục đích của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ cũng có những điểm
khác biệt, với mục đích phát triển công thương nghiệp, mở rộng trường
học, sửa đổi phong tục là những vấn đề tương quan nhau để đạt mục đích
sau cùng là đánh đổ ách thống trị của thực dân, thành lập chế độ quân chủ
lập hiến. Là sự kết nối giữa phong trào Đông Du và Duy Tân nhằm cải cách
xã hội, chấn hưng dân khí, bồi dưỡng dân khí và phát triển công thương,
cạnh tranh với tư bản Pháp và Hoa Kiều nhằm đánh đuổi thực dân.
Các hình thức vận động của phong trào Duy Tân ở Nam Kỳ khá phong
phú. Một trong những hoạt động đầu tiên khá mạnh ở Nam Kỳ là hưởng
ứng phong trào Đông Du, với số học sinh chiếm một nữa trong số 200
thanh niên Việt Nam đi Đông Du lúc bấy giờ. Để đưa học sinh đi du học,
Nguyễn Thần Hiến đã thành lập “Khuyến học Đông Du”. Số tiền ủng hộ
Đông Du từ trong nước gửi ra thì Nam Kỳ chiếm nhiều nhất. Nhiều phụ
huynh học sinh của Nam Kỳ sang Nhật động viên du học sinh.

Ngoài ra ở Nam Kỳ lúc bấy giờ hoạt động về kinh tế diễn ra khá mạnh
với các hoạt động về kinh tài do Chánh Chiếu và Nguyễn An Khương chủ
trương. Hoạt động này nhằm cải cách và canh tân đất nước theo con
đường kinh tế. Các cơ sở trải rộng ở Sài Gòn rồi lan rộng ra hầu khắp các
tỉnh Nam Kỳ, các cơ sở này vừa là nơi tập hợp, liên lạc, hội họp, phân phát
tài liệu và cũng chính là nơi kinh doanh lấy tiền cung cấp cho hội. Trong
hoạt động đó có các cơ sở kinh doanh lớn như: Nam Trung Khách Sạn,
khai trương vào ngày 15/11/1907, tổng lý là do Trần Chánh Biểu đảm
nhận. Hoạt động của khách sạn vừa kinh doanh chỗ ở vừa buôn bán các
loại hàng hóa như: chocolat, cà phê và sữa, whisky..cùng với đó là cơ sở
kinh doanh Minh Tân khách sạn bước tiếp ra đời, Minh Tân xây dựng ở Mỹ
15


Tho, do một nhân sĩ yêu nước ơ Gò Công làm thông ngôn. Minh Tân khách
sạn đã trở thành nơi kinh tài, hội họp, diễn thuyết và phân phát các tài liệu
sách báo do Phan Bội Châu truyền từ nước ngoài vào để tuyên truyền yêu
nước và kêu gọi Duy Tân. Minh Tân hoạt động mạnh trên lĩnh vực kinh
doanh phòng ngủ, cơm nước, bán hàng tạp hóa, tổ chức biểu diễn ca nhạc,
tư vấn miễn phí dịch vụ về pháp luật…Đặc biệt trong phong trào Duy Tân
nổi bật lên với hoạt động kinh doanh Minh Tân công nghệ, đây là công ty
cổ phần đặt trụ sở tại chợ Mỹ Tho được thành lập năm 1908 do Nguyễn
Thành Út và Trần Chánh Chiếu làm thông ngôn. Phương thức hoạt động
đề ra rõ ràng lập lò chỉ, lò dệt, lò xà bông, thuộc da và làm đồ pha ly với
điểm mấu chốt công ty sẽ dạy học sinh làm những nghề nói trên. Với hoạt
động sôi nổi này, nhanh chóng thu được lợi nhuận cao tạo công ăn việc
làm cho nhân dân và đang trên đường cạnh tranh phương thức sản xuất
mới với trình độ công nghệ của thế giới.
Ngoài các hoạt động phát triển kinh tế, hoạt động thành lập trường
học cũng không ngừng được quan tâm. Mặc dù bị lệ thuộc vào các trường

học do thực dân Pháp mở song các sĩ phu duy tân cũng tiến hành mở các
trường học để khai dân trí chấn dân khí. Vào năm 1907 ở Nam Kỳ thành
lập trường học “Đồng văn học quán” với chủ trương hoạt động như Đông
Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Trường thu hút đông đảo học sinh tới học, nội
dung giáo dục được cải cách, hướng tới nội dung giáo dục lòng yêu nước,
hô hào lối sống thực nghiệp. Ngoài ra các giáo viên ở Gò Công còn thành
lập “Hội đồng tương trợ giáo viên” nhằm giúp đở nhau khi đau ốm, bệnh
tật. Bởi những hoạt động tích cực đó nền giáo dục Nam Kỳ có cơ sở để
phát triển.
Chưa dừng lại ở các hoạt động trên, hội còn tổ chức xuất bản báo chí
nhằm tuyên truyền và vận động lòng yêu nước và phong trào Duy Tân đến
gần hơn với quần chúng nhân dân. Với hoạt động chủ yếu là cho xuất bản
các tờ báo bằng chữ quốc ngữ với hai tờ báo nổi tiếng Nông cổ mín đàm,
Lục tỉnh tân văn. Các tờ báo được phát hành phổ biến hầu hết các Lục
tỉnh, tuy nhiên số người mua hạn chế chủ yếu là quan chức biết đọc chữ
quốc ngữ, còn nhân dân hầu như không được tiếp cận. Minh Tân Hội kêu
gọi các nghiệp chủ, điền chủ, hương chức làng gia nhập Duy Tân hội, cùng
nhau chung sức đưa phong trào đi lên. Bên cạnh đó, nếu tờ Nông cổ mím
đàn ra sức cổ xúy cho hoạt động duy tân, với nội dung kêu gọi nhân dân
đổi mới về văn hóa mà tiêu biểu là chủ trương cắt tóc ngắn, thì tờ Lục tỉnh
tân văn bằng chữ quốc ngữ do Trần Chánh Biểu làm chủ bút lại công khai
16


cổ xúy cho phong trào Duy Tân, hô hào bỏ cờ bạc, hút xách, giảm bớt các
nghi thức khi cưới xin, ma chay, thực hiện thuần phong mĩ tục, kêu gọi
giành quyền lợi kinh tế trong thương mại, dịch vụ, đấu thầu đang nằm
trong tay Hoa Kiều và Ấn Kiều được chính phủ Pháp bảo trợ. Mặt khác, Lục
tỉnh tân văn còn lên án bọ tham quan ô lại, kêu gọi đồng bào hợp quần,
tương thân tương ái, “Có thể nói đây là tờ báo đầu tiên của làng báo Việt

Nam ra đời trong hoàn cảnh chính trị, kinh tế đặc biệt ở xứ Nam Kì” [ 5, tr.
203]. Đối với người Nam Kỳ mà nói, dù đã được tiếp xúc với nền văn hóa
phương Tây nhưng họ vẫn tôn thờ phong tục cổ truyền, bởi vậy việc vận
động nhân dân thay đổi cổ tục là rất khó thực hiện. Tuy nhiên phong trào
Duy Tân nổ ra ồ ạt khắp nước, sĩ phu yêu nước bừng tỉnh, họ ra sức vận
động, hô hào đồng bào đọc các tân thư tân văn của Trung Quốc, báo chí
mà tiêu biểu là Nông cổ mím đàn, Lục tỉnh tân văn. Nhờ vậy cúp tóc đã trở
thành một phong trào của quần chúng, nó đã làm thay đổi được cách nghĩ
của quần chúng để hướng tới một xã hội phát triển.
Như Vậy, việc cho ra đời các tờ báo mới đã góp phần thúc đẩy chủ
trương tuyên truyền phong trào duy tân vào sâu trong quần chúng nhân
dân.
1.2.3. Phong trào Duy Tân ở miền Trung
Phong trào Duy Tân nổ ra đầu tiên ở miền Trung, bởi vậy cơ cấu tổ
chức và hoạt động của hội phát triển mạnh và sôi nổi hơn so với Nam Kỳ
và Bắc Kỳ. Sở dĩ ở Trung Kỳ phong trào Duy Tân phát triển mạnh nhờ có
các chí sĩ lãnh đạo kiên trì, dồi dào sáng kiến. Các vị thường được nhắc
đến là cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp.
Nếu phong trào Đông Du của Phan Bội Châu đặt nặng vấn đề vũ trang
bạo động, tin cậy vào sự giúp đở ủng hộ của Nhật Bản, thì phong trào Duy
Tân của Phan Châu Trinh gần như trái hẳn lại, ông chú trọng đến vấn đề
đòi dân quyền và không tin cậy vào ngoại bang. Ông tổ chức cải cách theo
cách thức phương tây trên các lĩnh vực về kinh tế, văn hóa và cả giáo dục
trường học.
Phong trào tổ chức ở miền Trung nổi bất lên với các hoạt động thiết
thực như: Lập hội buôn, mở trường học, chống thuế…và lan rộng ra các
tỉnh trên địa bàn như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Thừa
Thiên Huế vào những năm 1906.
Đầu thế kỷ XX, ở Quảng Nam trở thành một trọng tâm của Pháp trong
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Bởi đây không chỉ là vùng đất có bề

dày lịch sử văn hóa mà thêm vào đó đây còn là vùng đất giàu tiềm lực kinh
17


tế, địa thế thuận lợi, thương nghiệp phát triển và rất nhiều yếu tố tác động
thuận lợi khác. Với điều kiện thuận lợi như Pháp sớm biến Đà Nẵng trở
thành một nhượng địa phát triển, sự phát triển của Đà Nẵng giúp cho
nhân dân xứ Quảng nói riêng cũng như nhân dân Miền Trung nói chung
nhận thức được sức mạnh của kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng như sức
mạnh quân sự của Phương Tây. Có thể nói, cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp vừa là nguyên nhân vừa là động lực thúc đẩy nhân dân xứ
Quảng nhanh chóng tìm con đường canh tân, đây cũng chính là tiền đề
đưa họ đến gần hơn với tư tưởng canh tân của Phan Châu Trinh. Đây là
một trong những cơ sở mà Phan Châu Trinh chọn xứ Quảng Nam làm đất
khởi sự.
Chính những yếu tố thuận lợi trên đây đã giúp Quảng Nam trở
thành quê hương của phong trào Duy Tân. Ở Quảng Nam, trong những
năm 1903 đã tiến hành chuẩn bị và đến năm 1906 thì phong trào Duy Tân
thật sự khởi động. Với nhiệm vụ “Chấn dân khí, Khai dân trí, Hậu dân
sinh”, phong trào diễn ra sôi nổi trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo dục,
văn hóa xã hội. Về kinh tế, không chỉ kêu gọi chính quyền thục dân giảm
thuế khóa, mở mang kính tế, mà Phan Châu Trinh còn kêu gọi nhân dân
phát triển kinh tế dựa vào khả năng và điều kiện vốn có của mình để phát
triển kinh tế. Về nông nghiệp, chủ trương mở rộng khai hoang làm ruộng,
tăng diện tích đất canh tác, mở rộng trồng trọt đa dạng các loại thực
phẩm khác nhau. Đặc biệt về giáo, các nhà Duy Tân đương thời rất quan
tâm, chú ý đến nền giáo dục nước nhà, đã có lối suy nghĩ mới theo hướng
tích cực đối với nền giáo dục. Các nhà Duy Tân ở Trung Kỳ chủ trương phê
phán cựu học, đề cao tân học, kêu gọi chính quyền bảo hộ mở trường học
cho người Việt vào học. Nền tân học mà các nhà Duy Tân cổ xúy có chương

trình, nội dung, mục đích và phương pháp đào tạo tiến bộ. Đây chính là
học thức học đi đôi với hành, vừa học vừa áp dụng vào thực tế, tránh lối
học tầm chương trích cú, tiếp thu lối học từ phương Tây thông qua các tân
thư tân văn của Nhật Bản, Trung Quốc. Ở Trung Kỳ có khoảng hơn 40
trường học được xây dựng trong thời gian phát khởi phong trào Duy Tân,
Phan Châu Trinh là người đi đầu trong việc mở trường dạy học. Ở Trung
Kỳ nổi bất lên các trường học, Phú Lâm – Diên Phong – Phước Bình –
Thăng Bình – An Phước (ở Quảng Nam), Trường Sung Tích (ở Quảng
Ngãi). Về văn hóa xã hội, với nội dung đổi mới phong hóa, phê phán lối
sống lệ cổ, bài trừ hủ tục, đề cao nếp sống văn minh, có tinh thần khoa
học..các nhà Duy Tân ra sức vận động nhân dân đổi mới trong nếp sống
18


văn minh. Bởi thế nhân dân đã dần chấp nhận lối sống mới, họ thi nhau
hớt tóc ngắn, mặc vải nội, học võ ta, bỏ rượu chè, bớt cúng bái..v..v..bên
cạnh đó, họ còn ăn mặc gọn gàng theo người Tây và học chữ quốc ngữ.
Trong phong trào Duy Tân, nổi bật lên phong trào chống thuế
1908. Đây là phong trào diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi và được sự hưởng ứng
đông đảo của nhân dân Trung Kỳ. Vào ngày 15/8/1906, trong bức thư gửi
nhà cầm quyền Pháp, Phan Châu Trinh đã trình bày rõ quan điểm của
mình như sau: Thứ nhất, dưới ách thống trị của Pháp, quan lại Nam Triều
người dân không có quyền lợi, bị bóc lột dẫn đến bị bần cùng hóa, không
có cơ hội để than thở kêu oan. Thứ hai, người dân bị sưu cao thuế nặng
đến mức không còn cơm áo mà sống. Bởi vậy, phải đòi dân quyền, làm cho
người dân được cơm no áo ấm, thoát khỏi tình trạng lạc hậu thì phải tự
lực, không thể khoanh tay chờ đợi thiện chí của thực dân.
Vào những năm 1908, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ phát
triển rầm rộ, phong trào diễn ra với mục đích xin giảm sưu, kháng thuế.
Những cuộc biểu tình đầu tiên nổ ra ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam vào

ngày 9/3/1908, khoảng 400 – 500 người dân làng kéo đến huyện nhà, yêu
cầu phóng thích ba người vừa bị bắt tuyên truyền chống đối chính quyền,
buộc họ phải thả ba người bị bắt. Đến ngày 11/3/1908, dân chúng kéo đến
tòa sứ Faifoo (ở Hội An) đòi giảm sưu thuế nhưng không được chấp nhận.
Sáng ngày 13/3/1908 dân chúng kéo đến yểm trợ mặc dù bị đánh đuổi
nhưng dân chúng vẫn kiên quyết. Tiếp đến, vào ngày 21/3/1908 dân
chúng kéo đến thành Quảng Nam, một số nhỏ sĩ phu thay mặt dân chúng
đến tự dinh quan tổng đốc Hồ Đắc Trung, buộc ông ta đến tòa xứ xin giảm
bớt sưu thuế cho dân.
Ở Quảng Ngãi, vào ngày 31/3/1908 dân chúng nổi dậy bao vây
tỉnh thành rầm rộ, đến ngày 4/4/1908 viên công sứ chịu điều đình và miễn
thuế cho dân nghèo. Chính cuộc biểu tình 1908 này đã làm cho tinh thần
đấu tranh của nhân dân Trung Kỳ nói riêng và dân chúng cả nước nói
chung trở nên hăng hái trong sự nghiệp đòi quyền lợi cho bản thân mình.
Sự vụ 1908 đã tác động tới vụ biến động ở Thừa Thiên Huế, Bình Định và
Quãng Ngãi.
Như vậy, với mục tiêu trực tiếp là chống sưu thuế, cuộc nổi dậy của
nhân dân miền Trung năm 1908, thực chất là một phong trào quần chúng
công khai đầu tiên ở Việt Nam, được dấy lên bởi những tư tưởng dân chủ,
dân quyền do các sĩ phu duy tân đầu thế kỷ XX truyền bá. Đây là một bước
đột phá mới trong lịch sử đấu tranh của dân tộc về cả quy mô, tính chất và
19


cả hình thức đấu tranh. Đây được xem là một trong những sự kiện tiêu
biểu nhất của vùng Viễn Đông năm 1908. Vì, phong trào diễn ra một cách
mạnh mẽ, quyết liệt với quy mô to lớn, hình thức và phương pháp đấu
tranh phong phú, độc đáo, chưa hề có ở Việt Nam trước sự kiện này, sự
kiện này đã buộc thực dân Pháp nhượng bộ một số quyền lợi như, thay đổi
một vài loại thuế và có ảnh hưởng lâu dài về sau, bên cạnh đó cũng làm

cho Pháp hoang mang lo sợ, chấn động đến thị trường nước Pháp.

20


Chương 2: Hoạt động mở rộng trường học trong phong trào Duy
Tân

2.1.

Những tiền đề thúc đẩy sự phát triển của hoạt động mở trường học trong
phong trào Duy Tân
Hoạt động thành lập trường học mới trong phong trào Duy Tân là
một trong những nội dung quan trọng, được các chí sĩ yêu nước đặt lên
hàng đầu. Bởi lẽ, hoạt động thành lập trường học trở nên cấp bách, bức
thiết như vậy là do những yếu tố khách quan và chủ quan chi phối như:
thứ nhất, nó xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của đất nước – tìm ra con
đường cứu nước mới cho dân tộc, kết hợp cứu nước với Duy Tân và cải
cách, mà giáo dục là một trong những con đường thiết yếu nhất dẫn đến
thành công nhanh nhất, phù hợp với sự phát triển của thế giới. Thứ hai, để
chống lại nền giáo dục thực dân nữa phong kiến đang ngày làm tha hóa đi
bản sắc văn hóa của dân tộc, lợi dụng nó để bần cùng hóa nhân dân tạo ra
những phần tử nhất nhất phục vụ cho chính quyền thực dân. Thứ ba, nền
giáo dục nho học đã lạc hậu, lỗi thời, không còn đủ sức để đưa ngành giáo
dục bắt kịp với những phát minh mới của thế giới, nếu tiếp tục con đường
học thuật này chắc có lẽ không chỉ riêng ngành giáo dục bị ảnh hưởng mà
cả đất nước và các cuộc đấu tranh giành độc lập tiếp theo sẽ mãi dậm
chân tại chổ. Bởi những tiền đề trên, đã thôi thúc nền giáo dục nước ta
phải cải cách, đòi hỏi phải xây dựng nền giáo dục mới theo mô hình của
các nước phương Tây, bỏ lối học tầm chương trích cú theo lối nho học đã

cũ mà tiêu biểu là mở các trường học mới, hoạt động theo những tiêu chí
mà cuộc cải cách Duy Tân yêu cầu.
Sau khi ngọn cờ khởi nghĩa của phong trào Cần Vương và khởi nghĩa
Yên Thế tắt lịm. Tình hình trong nước có nhiều biến động. Nhân dân không
còn hăng hái với kháng chiến, các sĩ phu yêu nước lúc bấy giờ bất lực thờ
ơ trước vận mệnh suy tàn của dân tộc. Tuy vậy, vẫn còn một số sĩ phu tha
thiết với cách mạng, ra sức nghiên cứu sách vở, nghe ngóng tin tức, xem
xét học hỏi kinh nghiệm, cốt để tìm ra con đường cứu nước mới phù hợp
với vận mệnh dân tộc.
Các sĩ phu yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ XX họ nhận thức được rằng,
mất nước là do thiếu dân trí và dân khí. Muốn khôi phục lại độc lập thì
phải mở mang dân trí, chấn hưng dân khí. Mặt khác, các sĩ phu tiến bộ rút
ra được bài học thức tế rằng: với một kẻ thù có trình độ văn minh, khoa
21


học kỷ thuật tiên tiến, đi trước nước ta cả một thời đại. Để đương đầu với
chúng, ta không thể gò ép dân tộc vào các loại vũ khí thô sơ, tư tưởng nho
học đã lỗi thời lặp đi lặp lại một cách đánh mà cha anh đã xây dựng từ
trước đó. Ta phải biết phát huy làm cho nó mới mẻ hơn, tân tiến hơn, khoa
học hơn, để làm được điều đó đòi hỏi ta phải học hỏi từ bây giờ và chỉ có
giáo dục mới đáp ứng được những đòi hỏi đó của dân tộc.
Chưa dừng lại ở đó, sau khi hoàn thành công cuộc bình định ở nước
ta, thực đân Pháp bắt đầu từng bước thiết lập nền thống trị trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa – giáo dục. Với lĩnh vực giáo dục chúng đặc
biệt nhấn mạnh: “Thật không thể nào để cho người An Nam được học lịch
sử và đọc sách của chúng ta mà không gây cho họ lòng yêu nước, yêu tự
do. Kinh nghiệm của các dân tộc Châu Âu khác đã chỉ rõ rằng việc truyền
bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại dột” [6, tr164].
Rõ ràng rằng thực dân Pháp đang thực hiện chính sách ngu dân, đầu độc

về mặt văn hóa, chúng muốn dân tộc ta ngày càng xa rời với văn minh dân
tộc, lãng quên truyền thống dân tộc. Chúng muốn dùng giáo dục như một
công cụ để nô dịch nhân dân Việt Nam, ngấm ngầm tiêu diệt giống nòi
nước ta. Đó là một nền giáo dục nô dịch, bưng bích.Nền giáo dục chỉ nhằm
đào tạo nên những tên thông ngôn, ký lục bản xứ làm tay sai cho thực dân
Pháp. Để thực hiện mục đích trên, thực dân Pháp đã xây dựng một nên
giáo dục mang tính chất thực dân nữa phong kiến. Với nền giáo dục này
chúng tìm mọi cách loại bỏ những ảnh hưởng tích cực của nền văn hóa
dân tộc, chúng coi nền giáo dục phong kiến lạc hậu là công cụ tối tân để
kìm hãm nhân dân ta vào vòng u tối, dốt nát và phục vụ cho công cuộc
thực dân hóa của chúng. Còn nhớ, vào năm 1905, chính quyền Pháp cho
xây dựng một nền giáo dục mới, gọi là nền giáo dục Pháp – Việt. Nền giáo
dục này hoạt động nhằm mục đích, tuyên truyền đến nhân dân ta chính
sách xâm lược, bóc lột của thực dân Pháp, du nhập nền văn hóa Pháp, lối
sống Pháp vào Việt Nam, chúng mở một loạt trường học chỉ dạy tiếng
Pháp để nhằm đào tạo ra một số người làm tay sai cho Pháp. Bên cạnh đó
còn muốn nhân dân ta lãng quên văn hóa dân tộc, bôi nhọ và làm lu mờ đi
giá trị truyền thống của dân tộc ta.
Đồng thời, nền giáo dục theo lối nho học giường như đã quá lạc hậu,
không còn phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Chính lối học
này đã trở thành hòn đá cản đường sự tiến bộ của xã hội. Do đó, để cải
cách nền giáo dục theo con đường tân tiến hơn, lịch sử yêu cầu các sĩ phu
tiến bộ phải chủ trương chống lại nền Nho học lạc hậu. Trên tờ Đăng Cổ
22


tùng báo, một giáo sư của “Nghĩa Thục” đã viết: “Nước Nam ta bây giờ
dột tệ lắm, mà cũng vì cái dốt nên phải làm như trâu như bò, được đồng
nào đem sắm đồ tàu hết. Cũng vì cái dốt, nên nghề hay không làm, ai cũng
muốn làm cái nghề ăn không . Cũng vì cái dốt, nên người đói meo không

lo, lo Quan Âm đói, nói tóm lại thì bao nhiêu cái khổ sở, nhọc nhằm ở nước
Nam ta cũng vì cái dốt mà ra cả” [9, tr. 17]. Nguyên nhân cái dốt này theo
các nhà Duy Tân là do thái độ bảo thủ, lạc hậu, trì trệ, ỷ lại và tự cao tự đại
của bọn hủ nho. Nước đã mất, guồng máy thực dân đã đặt xong và chạy
đều, thế mà phần đông các hủ nho không chịu thừa nhận sự thất bại của
mình. Để che giấu sự thất bại của mình, các cụ chủ trương bất hợp tác với
Pháp coi đây như một thái độ đúng đắn đối với cách mạng. Sở dĩ, các nhà
nho cố chấp như vậy là do chịu sự gò ép quá lâu cũng như không thể thoát
khỏi hệ tư tưởng phong kiến. Chính sự thiểu hiếu biết, hẹp hòi, nông cản
bảo thủ và cả cổ hủ nhìn chung là sợi dây vô hình kéo nước ta đến gần hơn
với cái mác thuộc địa nữa phong kiến.
Như vậy, đứng trước vận mệnh sống còn của dân tộc và tương lai của
đất nước, bằng ý thức trách nhiệm của mình cùng với lòng yêu nước tha
thiết. Tầng lớp sĩ phu yêu nước tiến bộ đã tố cáo một cách kịch liệt nền
giáo dục thực dân nữa phong kiến mà thực dân Pháp đang áp đặt ở Việt
Nam, đồng thời họ củng chủ trương xóa bỏ nền giáo dục Nho học đã lỗi
thời không còn phù hợp, thay vào đó là xây dựng một nền giáo dục mới
với hình thức mở một mô hình trường học mới đáp ứng cho nguyện vọng
được giáo dục của nhân dân Việt Nam. Xây dựng hệ thống trường học mới
này, các chí sĩ Duy Tân muốn thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân, cổ vũ
nhân dân đứng lên đấu tranh thoát khỏi nền giáo dục nô lệ, để đổi mới và
xây dựng một nền giáo dục mới làm cơ sở cho việc xây dựng và phát huy
nguồn nội lực. Duy Tân đổi mới thì dân trí mới được mở mang, dân khí
mới lớn mạnh, dân quyền mới phát đạt, văn minh mới thông suốt, tự do
mới mở rộng, báo chí mới đầy đường, tân thư mới đầy ngõ. Và để làm
được điều đó, phải tiến hành đổi mới giáo dục mở mang tri thức, để tri
thức mới, lối học mới, phương pháp mới, nội dung mới đến được với quần
chúng nhân dân, thì trước hết phải xây dựng trường học mới từ Bắc vào
Nam, không ngừng cải cách và phát triển nền giáo dục trong nhà trường.
Hoạt động này nó đã trở thành một yêu cầu tất yếu trong phong trào Duy

Tân nói riêng và phong trào giải phóng dân tộc nước ta đầu thế kỷ XX nói
chung. Chính vì vậy, thành lập trường học mới là một trong những yêu cầu
cấp bách mà đòi hỏi phong trào Duy Tân phải xúc tiến kịp thời.
23


24


2.2.

Một số trường học tiêu biểu
Phong trào Duy Tân được phát động từ năm 1903 đến năm 1905
phát triển mạnh mẽ, phong phú từ Quảng Nam nhanh chóng lan ra cả
nước với các hoạt động vô cùng phong phú và sôi nổi trên các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hóa giáo dục. Trong số đó nổi bật lên hoạt động giáo
dục với nội dung thực tiễn thành lập các trường học theo mô hình mới,
học hỏi từ các nước phương Tây.
Trong khoảng thời gian từ năm 1903 đến năm 1908, trên lĩnh vực
giáo dục phong trào Duy Tân đã ảnh hưởng đến mọi từng lớp nhân dân.
Một hệ thống trường học đã được các sĩ phu yêu nước tiến bộ thành lập ra
từ Bắc kéo dài vô Nam, trong đó phát triển nhất ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Khi
phong trào phát triển mạnh mẽ, khắp nơi các tỉnh miền Trung ra đến Hà
Nội đều thành lập trường Nghĩa Thục.
Ở Quảng Nam theo số liệu của Phan Châu Trinh, trong lúc Trung Kỳ
dân biến thỉ mạc kỉ 1911, có hơn 40 ngôi trường lớn nhỏ được thành lập.
Ngôi trường thứ nhất phải kể đến là trường An Phước. Nhà sử học
Dương Trung Quốc trong một lời tựa cuốn trường tiểu học An Phước 95
năm truyền thống đã nhận mạnh “Riêng ở Quảng Nam có thể coi là cái lò
bễ thổi tư tưởng Duy Tân từ ngoài vào trong nước với những chí sĩ tiên

phong như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp…thì tiếp sau Nghĩa Thục là
một cuộc vùng dậy “dân biến” làm điên đảo chế độ thực dân phong kiến”.
“Nghĩa Thục An Phước” đã ra đời trong cái lò luyện dân khí ấy. Trường An
Phước được thành lập năm 1888, do ông tú Lâm Hữu Mẫn thành lập.
Trường được mở tại nhà của cha ông là Lâm Nhĩ ở xóm Gò Lôi, thôn Cẩm
Toại, tổng An Phước, huyện Đại Lộc (nay thuộc xã Hòa Phong, huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng).
Sau đó trường được giao lại cho ông Nghè Lâm (con trai Lâm Hữu
Mẫn), sau khi tiếp nhận công việc ông tiến hành một cuộc cách tân giáo
dục theo phong trào Duy Tân: chuyển dạy chữ Nho sang dạy chữ Quốc
Ngữ, bải bỏ lối học từ chương, đưa dần vào giảng dạy các môn, sử ký, địa
dư, cách trí, toán, thủ công và ngay cả võ nghệ. Năm 1908, khi phong trào
kháng sưu thuế nổ ra ở Đại Lộc rồi lan rộng ra vùng đất phía tây Hòa
Vang, trường phải di dời đến địa điểm mới nằm bên tỉnh lộ 102, tức quốc
lộ 14b ngày nay. Trường đã nhiều lần bị thực dân Pháp đàn áp nhưng đến
nay vẫn được dữ vững. Như vậy, trường tiểu học An Phước cho đến bây
giờ vẫn là niềm tự hào của nhân dân Đà Nẵng với câu ca dao: “Quê mình
có chợ Túy Loan/Có trường An Phước tiếng vang một thời”
25


×