ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM ÁI LINH
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT
SINH TỪ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG Ở
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM ÁI LINH
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT
SINH TỪ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG Ở
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 60.38.01.07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận
Hà Nội - 2015
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên,
giúp đỡ của rất nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn –
Tiến sĩ Nguyễn Thị Thuận, người đã đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá trình
thực hiện luận văn.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các quý thầy cô giáo, người
đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong những năm
học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo,
Khoa Sau đại học, Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội… đã tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và viết luận văn này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Học viên
Phạm Ái Linh
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
NGƢỜI CAM ĐOAN
Phạm Ái Linh
2
MỤC LỤC
Trang
Lời cam loan ………………….………………………………...………...…2
Mục lục ………………………………………………………..…….………3
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ……………………………...………6
MỞ ĐẦU …………………………………………………………...……….7
1.
Tính cấp thiết của đề tài ……………………………………………...……...7
2.
Mục tiêu nghiên cứu ……………………………………………..………….8
2.1.
Mục tiêu tổng quát …………………………………………...……………..8
2.2.
Mục tiêu cụ thể …………………………………………..…………………..8
3.
Tình hình nghiên cứu đề tài ……………………………………..…………..8
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………..…………9
5.
Phương pháp nghiên cứu ……………………………………………...…….9
6.
Kết cấu luận văn ………………………………………………………….….9
Chƣơng 1. Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh ngân hàng, giải quyết
tranh chấp và pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động
bảo lãnh ngân hàng ………………………………………………….....…11
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, vai trò về hoạt động bảo lãnh ngân hàng ……...……11
1.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng ………………………………....…………..11
1.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng …………………………...………….....14
1.1.3. Phân loại bảo lãnh ngân hàng ………………………………...…......……..14
1.1.4. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng ………………...……………….……..16
1.1.5. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng ………………………………………....….17
1.2.
Khái niệm, đặc trưng về tranh chấp, giải quyết tranh chấp và sự cần thiết
phải giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng...…..18
1.2.1. Khái niệm về tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng ..……18
1.2.2. Một số đặc trưng của tranh chấp phát sinh từ hoạt động BLNH …… …….20
1.2.3. Giải quyết tranh chấp và sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hoạt động bảo lãnh ngân hàng ……………………………………………...23
3
1.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân
hàng…………………………………………………………………………..25
1.3.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh về bảo lãnh ngân
hàng…………………………………………………………………………25
1.3.2. Nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
bảo lãnh ngân hàng …………………………………………………………25
1.4. Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở một
số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam …………...……………38
Chƣơng 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp phát
sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam……………..………..41
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong giải quyết tranh chấp
phát sinh từ hoạt động BLNH ở Việt Nam…………………………….…….41
2.1.1. Thực tiễn các quy định pháp luật về bảo lãnh ngân hàng……………...……41
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động BLNH ở Việt Nam……………..………………48
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động BLNH ở Việt Nam…………………………………….……50
2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp……..51
2.3.1. Thực tiễn quy định pháp luật về phương thức giải quyết tranh chấp…...…..51
2.3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về phương thức giải quyết tranh chấp…....53
2.4.
Thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp……….….54
2.5.
Các tranh chấp phổ biến trong hoạt động BLNH ở Việt Nam và thực tiễn giải
quyết….......…………………………………………………………………55
2.6.
Tóm tắt Chương 2.……………………………………………….…………63
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp từ hoạt động bảo lãnh ngân
hàng ở Việt Nam ………………………………………...…………...……66
3.1.
Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong bảo lãnh ngân
hàng ………………………………………………………...………………66
4
3.2.
Một số giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp phát sinh trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam ...….68
3.2.1. Về chủ thể giải quyết trong quan hệ pháp luật bảo lãnh ngân hàng……..…68
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật quy định về bảo lãnh ngân hàng trong giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam……...………71
3.2.3. Giải pháp về phương thức giải quyết tranh chấp…………………………...78
3.2.4. Giải pháp về thủ tục giải quyết tranh chấp ………………………………….81
3.2.5. Một số giải pháp, kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước…………………84
KẾT LUẬN ……………………………………………...…………...……86
Danh mục tài liệu tham khảo …………………………..……………...…88
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
Bộ luật Dân sự
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
BLNH
Bảo lãnh ngân hàng
KDTM
Kinh doanh thương mại
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
TCTD
Tổ chức tín dụng
TTTM
Trọng tài thương mại
Quyết định 26
Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006
Ngân hàng Nhà nước về Quy chế bảo lãnh ngân hàng
Thông tư 28
Thông tư 28/2012/TT-NHNN ngày 03/10/2012 của
Ngân hàng Nhà nước
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các tổ chức tín dụng nói chung và ngân hàng nói riêng luôn có một vai trò
quan trọng trong việc bình ổn thị trường tiền tệ, giữ vững sự ổn định của thị trường
tài chính quốc gia, thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế đất nước. Để khẳng định vai
trò của mình và phù hợp với xu thế phát triển kinh tế, các Ngân hàng thương mại
trên thế giới ngày càng có xu hướng đa dạng hóa các loại hình dịch vụ của mình.
Bảo lãnh ngân hàng là một trong những hoạt động tín dụng phổ biến của Ngân hàng
thương mại hiện đại, đồng thời cũng là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đem
lại cho ngân hàng nhiều lợi ích thiết thực, thúc đẩy các giao dịch về vốn, hỗ trợ các
giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong lĩnh vực tín dụng mà cả trong lĩnh vực dự
thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm… Tại Việt Nam, bảo lãnh
ngân hàng được thực hiện từ những năm 90 của thế kỷ 20 với các quy định pháp
luật được hoàn thiện dần qua các thời kỳ và đã có những tác động tích cực đến sự
phát triển vững mạnh của đất nước. Tuy nhiên, trước sự biến động của khủng hoảng
kinh tế thế giới và trong nước, hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung và hoạt động
dịch vụ nói riêng trong đó có hoạt động bảo lãnh ngân hàng càng ngày càng tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Việc thực trạng các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, dẫn tới
các tranh chấp có liên quan đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng đang có xu hướng
tăng dần, giá trị tranh chấp đặc biệt lớn, nguy cơ rủi ro cao cho doanh nghiệp, đặc
biệt là các ngân hàng đứng ra bảo lãnh gây mất an toàn tín dụng, ảnh hưởng đến nền
kinh tế. Các tranh chấp trong hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam đang diễn
ra rất phổ biến trong thời gian gần đây song việc giải quyết tranh chấp còn nhiều bất
cập và chưa đáp ứng được đòi hỏi của các quan hệ kinh tế. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này nhưng lý do chủ yếu nhất là do các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động bảo lãnh còn chưa rõ ràng và đầy đủ,
nhiều khi còn chồng chéo gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung
và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo lãnh
ngân hàng nói chung là một yêu cần bức thiết để khơi thông dòng chảy của hoạt
7
động kinh doanh tiền tệ, góp phần phát triển kinh tế đất nước nhất là trong xu thế
hội nhập. Nghiên cứu pháp luật về giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động
bảo lãnh ngân hàng để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hạn chế các nguy cơ tiềm ẩn
trong các tranh chấp cũng như việc giải quyết hiệu quả các tranh chấp là một yêu
cầu cấp thiết. Vì lý do đó tôi đã chọn: "Pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh
từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam" làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của
mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu đánh giá thực trạng pháp
luật về bảo lãnh ngân hàng và các tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân
hàng ở Việt Nam cũng như thực tế việc giải quyết những tranh chấp đó bằng cơ chế
tài phán để trên cơ sở đó đề xuất các các giải pháp cần thiết góp phần giải quyết
những tranh chấp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo lãnh ngân hàng và pháp luật về
giải quyết tranh chấp phát sinh từ BLNH để làm cơ sở cho việc nghiên cứu pháp
luật thực định về vấn đề này, qua đó phát hiện những bất cập trong hoạt động
BLNH và những tranh chấp phát sinh thực tế. Đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật trong hoạt động BLNH và các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động BLNH ở Việt Nam.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói cho đến thời điểm hiện nay, BLNH là một trong những đề tài
được nhiều tác giả lựa chọn nghiên cứu, trong đó có thể kể đến một số đề tài nghiên
cứu như "Những vấn đề pháp lý về bảo lãnh ngân hàng" của Nguyễn Thành Long,
Đại học Luật Hà Nội, năm 1999, "Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam", của Bùi Vân Hằng, Đại học Quốc
gia Hà Nội, năm 2008, "Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo lãnh
thanh toán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội", của Vũ Hồng Minh,
8
Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2009, Luận văn “Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng
và thực tiễn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Techcombank ở Việt Nam” của Vũ
Thị Khánh Phượng, Khoa Luật, Đại học Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011… Ở
nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, các đề tài trên đã đóng góp những kết quả khoa
học có giá trị nhất định về cơ sở lý luận cũng như giá trị thực tế của chế định bảo
lãnh ngân hàng trong hoạt động ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu
sâu, một cách có hệ thống những đặc trưng của tranh chấp trong hoạt động BLNH
cũng như thực trạng pháp luật giải quyết các tranh chấp này ở Việt Nam vẫn còn
chưa được giải quyết thấu đáo. Vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cũng như thực tiễn quy định pháp luật hiện hành về bảo lãnh ngân
hàng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động này là cần thiết, phù hợp
với xu thế chung và không có sự trùng lặp trong quá trình nghiên cứu so với những
đề tài khác đã được đưa ra.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài là các quy phạm pháp luật về hoạt động
BLNH và giải quyết các tranh chấp trong hoạt động này tại Việt Nam. Phạm vi
nghiên cứu, trong khuôn khổ của đề tài và khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, tác giả
giới hạn nghiên cứu ở các quy phạm pháp luật điều chỉnh về hoạt động BLNH và
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động BLNH của các TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam bằng cơ chế tài phán.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt các yêu cầu đặt ra của đề tài, Học viên đã sử dụng đồng thời
các phương pháp nghiên cứu chính bao gồm: Phương pháp phân tích, so sánh tổng
hợp, thống kê, biện chứng qua việc nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận về
hoạt động bảo lãnh ngân hàng và việc giải quyết những tranh chấp phát sinh từ hoạt
động này thông qua pháp luật thực định và các vụ việc cụ thể.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
9
Chƣơng 1. Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh ngân hàng, giải quyết tranh
chấp và pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân
hàng ở Việt Nam.
Chƣơng 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam.
Chƣơng 3. Phương hướng và một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng ở Việt Nam.
10
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG, GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP PHÁT
SINH TỪ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò về hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.1.1. Khái niệm bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được sử
dụng từ lâu trong xã hội loài người, đến nay bảo lãnh không những tồn tại mà còn
phát triển rộng rãi trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội và
được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Theo pháp luật La Mã: Bảo lãnh được hiểu là hợp đồng, theo đó bên thứ ba
với mục đích bảo đảm quyền lợi của bên có quyền đã cam kết thực hiện thay nghĩa
vụ của bên có nghĩa vụ khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm của bên thứ ba là trách nhiệm bổ sung với trách
nhiệm của bên có nghĩa vụ và nó chỉ tồn tại khi nghĩa vụ nó đảm bảo tồn tại trên
thực tế.
Trong pháp luật Hoa Kỳ: “Bảo lãnh chính là sự thỏa thuận, theo đó người
bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ nợ của bên nợ chỉ khi bên nợ không trả
nợ, là việc bên bảo lãnh bảo đảm hoặc hứa thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ
trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện”. [29]
Theo pháp luật dân sự Việt Nam thì: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau
đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo
lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải
thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình”. [13, Điều 361]
Như vậy, ta có thể hiểu bảo lãnh là thoả thuận giữa các bên, trong đó bên bảo
lãnh cam kết sẽ thực hiện các nghĩa vụ theo thoả thuận đối với bên nhận bảo lãnh
11
khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo
thoả thuận. Với định nghĩa trên thì ta thấy bảo lãnh có hai đặc điểm cơ bản :
Một là, bảo lãnh là sự thoả thuận của các bên trong đó các bên tham gia có
thể là: Bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh trong đó bắt buộc
phải có bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
Hai là, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trước tiên thuộc về bên được bảo
lãnh. Trong bảo lãnh đối tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là sự cam kết. Chỉ khi
nghĩa vụ bị vi phạm thì người thứ ba cam kết mới thực hiện các nghĩa vụ thay cho
người được bảo lãnh theo thỏa thuận.
Bảo lãnh có nhiều hình thức đa dạng như: Bảo lãnh vay vốn ngân hàng, bảo
lãnh của cơ quan, tổ chức đối với các cán bộ, nhân viên của mình, bảo lãnh xã hội
khác…. Riêng bảo lãnh ngân hàng chỉ xuất hiện khi tiền tệ ra đời và nền kinh tế
hàng hoá phát triển mạnh mẽ, khái niệm bảo lãnh ngân hàng chịu tác động bởi
những biến đổi về kinh tế xã hội, tập quán và pháp luật của quốc gia trong từng giai
đoạn nhất định. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế nước ta là kinh tế tập
trung bao cấp, pháp luật Việt Nam đã đề cập đến bảo lãnh ngân hàng. Trong giai
đoạn này, biện pháp bảo lãnh được sử dụng như là công cụ để hỗ trợ doanh nghiệp
nhà nước khi có nhu cầu vay vốn nước ngoài. Vấn đề bảo lãnh ngân hàng đã được
Nhà nước quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhưng nhìn chung đều
có điểm chung là:
Thứ nhất, bảo lãnh của ngân hàng là bảo lãnh của Ngân hàng Nhà nước cấp
cho các đơn vị, tổ chức trong việc vay vốn nước ngoài để phát triển sản xuất kinh
doanh. Ngân hàng Nhà nước đưa ra bảo lãnh cho các tổ chức vay vốn nước ngoài
thực chất là Nhà nước đã thực hiện tài trợ cho doanh nghiệp.
Thứ hai, chưa có quy định cụ thể, xác định bản chất pháp lý của bảo lãnh
ngân hàng. Trong giai đoạn này, cũng chưa có quy định về khái niệm bảo lãnh,
quan hệ giữa tổ chức được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh. Việc bảo lãnh của ngân
hàng nhà nước hoàn toàn thực hiện theo mẫu thư bảo lãnh do bên cho vay đưa ra.
Từ những năm 90 đến nay hệ thống văn bản pháp luật về bảo lãnh ngân hàng được
12
xây dựng khá chi tiết và từng bước hoàn chỉnh. Bảo lãnh ngân hàng với tư cách là
một nghiệp vụ cấp tín dụng của các ngân hàng đã được quy định tại Quy chế về
nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng ban hành theo Quyết định số 196/QĐ-NH14
ngày 16/9/1994 của Thống đốc ngân hàng nhà nước. Tiếp theo và hoàn thiện các
văn bản này là Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000, Quyết định
số 386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/04/2001 và Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN
ngày 11/02/2003.
Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng đã được hoàn thiện dần qua các văn bản
pháp luật, tại Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/06/2006 của Ngân hàng
Nhà nước về Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì "bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng
văn bản của TCTD (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận
bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD số tiền đã được trả thay".
Tại Khoản 18, Điều 4 Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 thì "Bảo
lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng theo đó TCTD cam kết với bên nhận bảo
lãnh về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách
hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho TCTD theo thỏa thuận".
Và sau đó là Thông tư 28 /2012/TT-NHNN ngày 03/10/2012 của Ngân hàng
Nhà nước (thay thế Quyết định số 26) đã khẳng định: “Bảo lãnh ngân hàng (sau
đây gọi là bảo lãnh) là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết bằng
văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được
bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả
cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận”.
Nhìn chung, khái niệm "bảo lãnh ngân hàng" theo định nghĩa tại các văn bản
trích dẫn trên đều có những điểm cơ bản: Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn
bản của một bên thứ ba ngoài quan hệ hợp đồng giữa hai bên. Cam kết bằng văn
13
bản là văn bản bảo lãnh của bên thứ ba, bao gồm Thư bảo lãnh và Hợp đồng bảo
lãnh.
1.1.2. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng
Xét về bản chất pháp lý, bảo lãnh ngân hàng thực chất là hình thức bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ với các đặc điểm đặc thù của hoạt động này là:
Thứ nhất, BLNH là mối quan hệ đa phương, với sự tham gia của nhiều chủ
thể: Hoạt động BLNH phải có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, đó là bên được
bảo lãnh, bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Do đó, hoạt động bảo lãnh không chỉ
đơn thuần là quan hệ giữa bên được bảo lãnh với ngân hàng bảo lãnh mà còn bao
hàm mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Trong quan hệ đa
phương này, quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh bao giờ cũng là
quan hệ gốc, làm phát sinh nghĩa vụ được bảo lãnh. Trên cơ sở này sẽ xuất hiện
thêm hai quan hệ nữa giữa bên được bảo lãnh với bên bảo lãnh và giữa bên bảo lãnh
với bên nhận bảo lãnh.
Thứ hai, BLNH mang tính độc lập: Mặc dù BLNH là quan hệ đa phương,
các quan hệ có mối liên hệ nhau, tuy nhiên chúng lại độc lập nhau. Sự độc lập của
bảo lãnh được hiểu là sự độc lập của quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh với quan hệ giữa bên được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh, cho dù có sự
vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh với ngân hàng bảo lãnh thì ngân hàng bảo
lãnh cũng không thể vì thế mà có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Thứ ba, BLNH là một hoạt động ngoại bảng của ngân hàng: TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài bảo lãnh đã dùng uy tín của mình để cam kết với bên
nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, khi đó quyết định
bảo lãnh cho bên được BLNH không phải xuất tiền ngay do đó sẽ không ảnh hưởng
đến bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Đó chính là nguyên nhân khiến BLNH
được xếp vào hoạt động ngoại bảng của ngân hàng. [25]
1.1.3. Phân loại bảo lãnh ngân hàng
Căn cứ vào mục đích bảo lãnh gồm có (i) Bảo lãnh vay vốn: là cam kết của
TCTD với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường
14
hợp khách hàng không trả hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận
bảo lãnh; (ii) Bảo lãnh thanh toán: là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh về
việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường hợp khách
hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán của mình
khi đến hạn; (iii) Bảo lãnh dự thầu: là cam kết của TCTD với bên mời thầu, để đảm
bảo nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng phải nộp
phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc nộp không đầy đủ tiền phạt
do bên mời thầu thì TCTD sẽ thực hiện thay; (iv) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là
cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ
các nghĩa vụ của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh.
Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo
lãnh mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay;
(v) Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: là cam kết của TCTD với bên nhận
bảo lãnh, bảo đảm việc khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của
sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng
vi phạm chất lượng sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay; (vi) Bảo lãnh
hoàn trả tiền ứng trước: là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh về việc bảo
đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký với bên
nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng
trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay.
Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh có (i) Bảo lãnh trực tiếp: là bảo
lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm phát hành bảo lãnh trực tiếp theo
yêu cầu của người được bảo lãnh. Sau khi ngân hàng đã bồi thường cho người thụ
hưởng bảo lãnh, người được bảo lãnh chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân
hàng phát hành.
Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát hành
bảo lãnh, người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Trường hợp người thụ
hưởng bảo lãnh là người nước ngoài có thể có thêm ngân hàng ở cùng quốc gia với
15
người thụ hưởng bảo lãnh trong vai trò ngân hàng thông báo; (ii) Bảo lãnh gián tiếp
hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là bảo lãnh ngân hàng, theo đó TCTD, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài (bên bảo lãnh đối ứng) cam kết với bên bảo lãnh về việc sẽ
thực hiện nghĩa vụ tài chính cho bên bảo lãnh, trong trường hợp bên bảo lãnh thực
hiện bảo lãnh và phải trả thay cho khách hàng của bên bảo lãnh đối ứng; (iii) Bảo
lãnh được xác nhận: là việc xác nhận của một ngân hàng đối với một bảo lãnh do
một ngân hàng khác phát hành để xác nhận lại tính bảo đảm của bảo lãnh. Bảo lãnh
được xác nhận thường phát sinh trong trường hợp người thụ hưởng muốn một ngân
hàng khác trong nước có uy tín với người thụ hưởng xác nhận bảo lãnh do một ngân
hàng nước ngoài phát hành. Như vậy, người thụ hưởng có thể xuất trình những
chứng từ theo yêu cầu của bảo lãnh đến ngân hàng xác nhận và thanh toán nếu
người được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; (iv) Đồng bảo
lãnh là việc hợp vốn để bảo lãnh của từ 02 TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
trở lên bảo lãnh cho nghĩa vụ của bên được bảo lãnh hoặc TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài cùng TCTD nước ngoài bảo lãnh cho nghĩa vụ của bên được bảo
lãnh.
Ngoài ra dựa vào bản chất chứng từ, bảo lãnh ngân hàng có thể được phân
loại thành bảo lãnh độc lập và bảo lãnh kèm chứng từ.
1.1.4. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng bao gồm
Một là, chức năng bảo đảm: Là chức năng quan trọng nhất của BLNH, cung
cấp cho người nhận bảo lãnh một sự đảm bảo chắc chắn với quyền lợi của họ. Theo
đó thì người nhận bảo lãnh sẽ được hưởng một khoản bồi thường về tài chính nếu
người được bảo lãnh vi phạm cam kết, từ đó hình thành nên sự đảm bảo chắc chắn
cho người nhận bảo lãnh. Chính sự đảm bảo này tạo ra sự tin tưởng khiến cho các
hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng và thuận lợi. Đây là điểm khác biệt giữa
bảo lãnh và tín dụng chứng từ.
Hai là, chức năng công cụ tài trợ vốn: Không chỉ là bảo đảm, bảo lãnh còn là
công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh người được bảo lãnh
không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời
16
gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn
như trong cho vay nhưng BLNH giúp cho bên được bảo lãnh được hưởng những
thuận lợi về ngân quỹ như trong trường hợp cho vay.
Ba là, chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng: Bảo lãnh cho phép người
nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi phạm hợp
đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và bên bảo lãnh có
quyền đòi lại những khoản tiền này. Do đó, bên bảo lãnh luôn phải theo dõi kiểm
tra giám sát và đôn đốc việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Mặt khác,
trong trường hợp bên bảo lãnh phải thanh toán tiền bồi hoàn cho bên nhận bảo lãnh
thì bên được bảo lãnh cũng sẽ phải có trách nhiệm nợ và hoàn trả khoản bồi hoàn đó
cho bên bảo lãnh. Người được bảo lãnh luôn bị một áp lực cho việc bồi hoàn bảo
lãnh. Như vậy, bảo lãnh có chức năng đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện hoàn
tất hợp đồng đã ký kết. Điều này càng làm tăng thêm tính bảo đảm cho người nhận
bảo lãnh và có mối liên quan chặt chẽ giữa chức năng bảo đảm và chức năng đôn
đốc hoàn thành hợp đồng. Mặc dù vậy, khi ký kết hợp đồng và thụ hưởng bảo lãnh,
người nhận bảo lãnh vẫn mong muốn người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng chứ
không mong chờ ở khoản bồi hoàn tài chính từ bảo lãnh.
1.1.5. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng
Hiện nay, bảo lãnh đã phát triển rộng rãi trên hầu hết các lĩnh vực, có vai trò
rất to lớn đối với nền kinh tế. BLNH có vai trò kép, vừa là hoạt động cấp tín dụng
vừa là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, là công cụ tiện ích được sử dụng rộng
rãi để trợ giúp các giao dịch kinh tế, không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng thương mại
mà cả giao dịch phi thương mại, tài chính. BLNH không chỉ là một động lực tạo sự
phát triển của ngân hàng mà còn có vai trò quan trọng đối với từng chủ thể tham gia
quan hệ bảo lãnh ngân hàng, đó là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bảo
lãnh, bên được bảo lãnh và đem lại cho bên nhận bảo lãnh 01 sự bảo đảm về thực
hiện nghĩa vụ tài chính trong giao dịch kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, bảo lãnh ngân hàng đối với các doanh
nghiệp này có ý nghĩa rất quan trọng nó tạo động lực để các doanh nghiệp này cạnh
17
tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đồng thời tạo nền tảng để các doanh nghiệp
vừa và nhỏ mở rộng sự hợp tác với các đối tác nước ngoài khác.
Đối với doanh nghiệp, vai trò của bảo lãnh ngân hàng thể hiện: Thúc đẩy
cạnh tranh, mở rộng sản xuất. Sở dĩ vậy do bắt nguồn chức năng của bảo lãnh ngân
hàng, tạo điều kiện cho bên nhận bảo lãnh tìm kiếm đối tác, tham gia ký kết và thực
hiện hợp đồng không tốn nhiều thời gian và kinh phí, đồng thời là biện pháp đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ nên đã hạn chế rủi do đến với bên nhận bảo lãnh. Mặt khác,
đối với các doanh nghiệp khi được ngân hàng bảo lãnh thì phải chịu một khoản phí
bảo lãnh, đó là khoản chi phí của doanh nghiệp do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải
có biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một cách có hiệu quả, từ đó sẽ nâng
cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, vai trò bảo lãnh ngân hàng
được thể hiện: BLNH đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng thông qua chi phí bảo
lãnh, phí này đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng không nhỏ
trong tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, BLNH góp phần
không nhỏ trong việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng. BLNH cũng
hỗ trợ các hình thức thanh toán khác của ngân hàng như thanh toán quốc tế (bảo
lãnh hối phiếu, bảo lãnh L /C trả chậm ….).
1.2. Khái niệm, đặc trƣng về tranh chấp, giải quyết tranh chấp và sự cần thiết
phải giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng
1.2.1. Khái niệm về tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Tranh chấp là một hiện tượng khách quan trong xã hội. Từ khi hàng hóa xuất
hiện thì cũng diễn ra các hoạt động thương mại, con người bắt đầu tiến hành các
trao đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Những mâu thuẫn xuất phát từ
việc sản xuất, trao đổi và thông thương hàng hóa cũng bắt đầu xuất hiện, đó là tranh
chấp thương mại. Sự hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm
đầu của thế kỷ này được diễn ra trong bối cảnh sự phát triển theo chiều rộng và
chiều sâu của các quan hệ kinh tế với tốc độ nhanh chóng chưa từng có để từng
18
bước khẳng định nó là bộ phận không thể thiếu được của thị trường thế giới. Tranh
chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói riêng với tính cách là hệ quả
tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về chủng loại và gay gắt phức
tạp hơn về tính chất và quy mô. Tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, song đa số các nhà
khoa học đều thống nhất rằng, tranh chấp kinh tế được hiểu là sự bất đồng chính
kiến, sự mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể
tham gia vào các quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau. Ở đâu có hoạt động kinh
doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát sinh tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả
tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh, vì vậy giải quyết các tranh chấp phát
sinh được coi là tự thân của các quan hệ kinh tế. Ở góc độ khái quát chung, giải
quyết tranh chấp trong kinh doanh chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp
thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập
lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được [30]. Trong nền
kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế càng phát triển, tranh chấp càng trở nên đa
dạng và phức tạp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dưới sự tác động của quy
luật cạnh tranh, những bất đồng, xung đột xảy ra giữa các chủ thể kinh doanh là
điều khó tránh khỏi, tranh chấp đã trở thành một hện tượng bình thường đối với mọi
nền kinh tế. Giải quyết được các mâu thuẫn, tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy
các quan hệ kinh tế phát triển.
Hiện nay, vấn đề tranh chấp thương mại vẫn chưa đưa ra được một khái niệm
thống nhất, đặc biệt là chưa có văn bản pháp lý nào quy định mà nó mới chỉ dừng
lại ở vấn đề quan điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông qua luật nội
dung và luật tố tụng, chẳng hạn “tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất
đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các
họat động thương mại [22, Tr 432].
Một số quan điểm khác thì cho rằng tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn,
bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan tới việc thực
hiện (hoặc không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng [7, Tr 53]; hoặc
tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa
19
vụ, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ kinh tế [8, Tr 98]; hoặc
tranh chấp trong kinh doanh là mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa
các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh [12, Tr 73]. Có
thể nhận thấy quan điểm của các tác giả Việt Nam về tranh chấp thương mại là
tương đối thống nhất và có thể nhận thấy tranh chấp thương mại là tranh chấp khi
có đủ các yếu tố đó là: Tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại (theo hợp đồng hay
không theo hợp đồng) xảy ra trước, trong hay sau thỏa thuận của các bên [11, Tr
15].
Tuy nhiên, hoạt động bảo lãnh ngân hàng lại là hình thức cấp tín dụng, theo
đó bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ
tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo
lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận [10, Điều 3, Khoản
1]; hoạt động này được sử dụng để trợ giúp các giao dịch kinh tế, hỗ trợ cho các
hợp đồng thương mại mà cả giao dịch phi thương mại, tài chính, là hoạt động kinh
tế. BLNH được thực hiện thông qua hình thức bằng văn bản, bao gồm Hợp đồng
bảo lãnh, Thư bảo lãnh, các hình thức khác pháp luật không cấm và phù hợp với
thông lệ quốc tế, qua đó xác lập quan hệ bảo lãnh ngân hàng với các chủ thể bên
bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh.
Do đó, tranh chấp phát sinh từ các hoạt động bảo lãnh ngân hàng là những
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, là những mâu thuẫn, bất đồng
(hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quan hệ bảo lãnh ngân
hàng, xảy ra khi có sự vi phạm các nghĩa vụ trong quá trình thực hiện các hợp đồng.
1.2.2. Một số đặc trƣng của tranh chấp phát sinh từ hoạt động BLNH:
1.2.2.1. Các dạng tranh chấp cơ bản phát sinh trong hoạt động BLNH:
BLNH là mối quan hệ đa phương, với sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, đó là
bên được bảo lãnh, bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Trong quan hệ đa phương
này, quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là quan hệ gốc, làm phát
20
sinh nghĩa vụ được bảo lãnh. Trên cơ sở này sẽ xuất hiện thêm hai quan hệ nữa giữa
bên được bảo lãnh với bên bảo lãnh và giữa bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Vì
vậy, khi có tranh chấp xảy ra sẽ có 03 dạng tranh chấp cơ bản phát sinh trong hoạt
động bão lãnh ngân hàng.
Thứ nhất, tranh chấp đó cụ thể là những mâu thuẫn, bất đồng về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ bảo lãnh, nảy sinh khi có một bên có hành
vi vi phạm nghĩa vụ hoặc các điều khoản của hợp đồng;
Thứ hai, những mâu thuẫn, bất đồng đó phát sinh từ văn bản cam kết bảo lãnh
của một bên thứ ba ngoài quan hệ hợp đồng giữa hai bên.
Thứ ba, những mâu thuẫn, bất đồng đó phát sinh giữa các chủ thể: Bên bảo
lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
1.2.2.2. Mối quan hệ hiệu lực giữa các hợp đồng trong hoạt động BLNH khi
giải quyết tranh chấp:
Theo khái niệm “Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên
bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh
phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh theo thỏa thuận” và theo Khoản 3 và
Khoản 4, Điều 406 BLDS “hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực của nó không
phụ thuộc vào hợp đồng khác” và “hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ
thuộc vào hợp đồng chính” thì rõ ràng quan hệ hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và
bên được bảo lãnh là hợp đồng chính (hợp đồng cơ sở), là quan hệ gốc làm phát
sinh nghĩa vụ được bảo lãnh và quan hệ hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh là
hợp đồng phụ (hợp đồng cấp bảo lãnh), nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh phát
sinh chỉ khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa
vụ đã cam kết trong hợp đồng chính với bên nhận bảo lãnh.
Vậy, giữa hợp đồng cơ sở và hợp đồng cấp bảo lãnh có sự phụ thuộc lẫn
nhau về hiệu lực, do đó, khi giải quyết tranh chấp trong hoạt động BLNH phải xem
xét tính hiệu lực của các hợp đồng này với nhau.
21
Khoản 2, Khoản 3, Điều 410 BLDS quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu thì
“Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không
áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự” và “Sự vô hiệu
của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên
thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.”.
Hợp đồng cơ sở và hợp đồng cấp bảo lãnh có mối quan hệ hợp đồng chính và hợp
đồng phụ nhưng với vai trò và bản chất của BLNH thì quan hệ bảo lãnh ngân hàng
này là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Chính vì vậy, khi giải quyết tranh
chấp phát sinh trong hoạt động bảo lãnh thì ngoài việc căn cứ quy định Khoản 2,
Khoản 3, Điều 410 BLDS còn phải áp dụng Nghị định 163/2006/NĐ–CP của Chính
phủ ngày 29/11/2006 về giao dịch đảm bảo đã được sửa đổi, bổ sung năm 2012
(Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012), cụ thể quy định tại Điều 15 về quan
hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, theo đó thì:
1. Hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh bị vô hiệu mà các
bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì BLNH chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần
hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì BLNH không chấm dứt, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
2. BLNH vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và
bên được bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh bị huỷ bỏ hoặc
đơn phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì BLNH
chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm thì BLNH không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. BLNH bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm
dứt hợp đồng giữa bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
22
5. Trong trường hợp BLNH không chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh
toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình.
1.2.3. Giải quyết tranh chấp và sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp phát
sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng
Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động bảo lãnh ngân hàng được hiểu
là các hình thức, các phương pháp, nguyên tắc, thủ tục nhằm giải quyết các bất
đồng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có tranh chấp. Việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh này mang ý nghĩa quan trọng: Đảm bảo việc giải quyết tranh
chấp nhanh chóng kịp thời, chính xác, nghiêm minh, đúng pháp luật; bảo đảm hạn
chế đến mức thấp nhất sự gián đoạn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể
tranh chấp.
Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động BLNH
Trong những năm gần đây, hoạt động BLNH đang diễn ra sôi động trên
nhiều lĩnh vực khác nhau mang lại nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế. Tuy
nhiên, bên cạnh đó tình trạng bảo lãnh tràn lan, kém hiệu quả đã gây ra không ít hậu
quả xấu cho hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, TCTD thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
là các trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, do đó hoạt
động bảo lãnh cũng luôn chứa đựng nhiều rủi ro, tổn thất là rất đa dạng, bên cạnh
đó, các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng còn bất
cập, quy định chưa đầy đủ, rõ ràng như: Cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý của biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, quy trình cấp hợp đồng cấp bảo lãnh chưa
chặt chẽ, thẩm quyền ký hợp đồng cấp bảo lãnh, cam kết bảo lãnh, quyền và nghĩa
vụ của bên trong quan hệ bảo lãnh, điều kiện gọi bảo lãnh... Chính những hạn chế,
bất cập, không rõ ràng này đã tiềm ẩn những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và
nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật bảo lãnh ngân hàng.
23