ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THANH HOAN
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THANH HOAN
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nghiên cứu trong Luận văn chưa được công bố trong bất cứ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đà hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật – Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để cho tôi có
thể bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả Luận văn
Phạm Thị Thanh Hoan
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH
PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI ............... 6
1.1
Khái niệm, đặc điểm của trường hợp phạm nhiều tội ..... 6
1.1.1
Khái niệm phạm nhiều tội............................................................... 6
1.1.2
Đặc điểm của phạm nhiều tội........................................................ 11
1.2
Khái niệm, ý nghĩa của quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội ...........................................13
1.2.1
Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội 13
1.2.2
Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
..................................................................................................... 16
1.2.3
Ý nghĩa quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội .... 17
1.3
Nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội ......................................................19
1.3.1.
Những nguyên tắc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội ....................................................................................... 19
1.3.2.
Căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ..... 27
1.4
Phân biệt quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội với quyết định hình phạt trong trường hợp đặc
biệt ...............................................................................32
1.4.1
Phân biệt quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội với
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội nhiều lần............ 32
1.4.2
Phân biệt quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và
tổng hợp hình phạt của nhiều bản án............................................. 33
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA BLHS HIỆN HÀNH VỀ QUYẾT
ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU
TỘI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .............................................. 35
2.1.
Quy định của BLHS
về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội ...........................................35
2.2
Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội 39
2.2.1
Đánh giá chung về tình hình giải quyết các vụ án phạm nhiều tội . 39
2.2.2
Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. ................................. 47
2.2.3 .
Những tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định của
BLHS hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội ....................................................................................... 51
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BLHS QUY ĐỊNH VỀ
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP PHẠM
NHIỀU TỘI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG............. 67
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện BLHS quy định về quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và nâng
cao hiệu quả áp dụng ....................................................67
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện BLHS quy định về quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ..........73
3.2.1.
Đưa khái niệm phạm nhiều tội vào quy định trong Bộ luật hình sự
..................................................................................................... 73
3.2.2.
Hoàn thiện quy định tại Điều 50 của Bộ luật hình sự .................... 73
3.2.3.
Hoàn thiện quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên
phạm nhiều tội .............................................................................. 76
3.3.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội .............................................................79
3.3.1.
Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ ............................................. 79
3.3.2.
Giải pháp về tổ chức cán bộ.......................................................... 82
3.3.3.
Một số giải pháp khác ................................................................... 83
KẾT LUẬN ................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 89
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CTTP
Cấu thành tội phạm
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GĐHP
Quyết định hình phạt
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyết định hình phạt là hoạt động rất quan trọng trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, có vai trò quyết định sự đúng đắn, chính xác của bản án
hình sự. Nếu như hoạt động định tội danh nhằm làm rõ ai có tội hay không có
tội thì quyết định hình phạt chỉ ra mức độ tính chất nguy hiểm như phạm tội,
từ đó có những biện pháp và hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm mà phạm tội gây ra nhằm giáo dục, răn đe giúp người phạm tội cải
tạo trở về với cộng đồng.
Phạm nhiều tội là một chế định rất phức tạp trong chế định đa nhiều tội
phạm. Hiện nay, trong BLHS 1999 chưa có quy định riêng về khái niệm phạm
nhiều tội mà chỉ được nhắc đến trong quy định tại Điều 50: “Quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội”, mặt khác, về mặt lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác nhau về các
yếu tố định tội danh, căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều tội.
Hiện nay, cả nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, thực hiện nền kinh tế thị trường, giao lưu hội nhập với các quốc
gia trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường kéo theo tình hình xã hội
ngày càng phức tạp, tội phạm ngày càng gia tăng, hành vi phạm tội ngày càng
nguy hiểm, đặc biệt hàng năm nhóm tội phạm và các trường hợp phạm nhiều
tội có dấu hiệu tăng đáng kể.
BLHS lần đầu tiên của nước ta, thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/1986. Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự
để phục vụ kịp thời công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng giai
đoạn cụ thể. Nhà nước ta đã 4 lần sửa đổi, bổ sung bộ luật này. Đến ngày
21/12/1999, Quốc hội nước ta đã thông qua BLHS mới thay thế BLHS năm
1985. Muốn định tội danh và quyết định hình phạt đúng và chính xác trong
từng giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Điều tra viên, kiểm sát viên,
1
thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải xác định đầy đủ chính xác các tình tiết
khách quan của vụ án, nhận thức, áp dụng đúng các quy định của pháp luật
hình sự. Qua thực tế giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố xét xử cho thấy việc
định tội danh và quyết định hình phạt thường gặp khó khăn và có nhiều sai
sót. Trong đó có quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.
Thực tiễn xét xử của các tòa án ở nước ta hiện nay cho thấy còn có
những thiếu sót, hạn chế nhất định nhất là trong hoạt động quyết định hình
phạt trong nhiều trường hợp định tội danh sai hoặc bỏ lọt tội phạm dẫn đến
việc quyết định hình phạt không tương ứng với tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (quá nặng hoặc quá nhẹ) hoặc oan sai,
trong đó số vụ án bị áp dụng hình phạt không chính xác trong trường hợp đặc
biệt (đa nhiều tội phạm, trong đó có phạm nhiều tội) chiếm tỷ lệ cao hơn so
với quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường.
Trước sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng ngừa tội phạm việc
nghiên cứu về hoạt động quyết định hình phạt đối với chế định phạm nhiều tội
trong luật hình sự việt nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng không những về
mặt lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn áp dụng nhằm đưa ra những giải
pháp hoàn thiện chế định này trong bộ luật hình sự Việt Nam. Chính vì vậy
việc nghiên cứu đề tài “Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội theo luật hình sự Việt nam” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn đối với ngành Tòa án nhân dân nói riêng và các cơ quan tiến hành tố
tụng nói chung trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là một đề tài khá mới,
hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về đề tài này.
Một số công trình của các nhà khoa học mới chỉ tập trung đi sâu vào
một vấn đề hoặc là định tội danh hoặc là quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội như:
- Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam trong sách “ Tội
phạm học luật hình sự và tố tụng hình sự” của PGS.TS Võ Khánh Vinh, NXB
Chính trị quốc gia,1995;
2
- “Quyết định hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam” trong sách “Hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam’của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, NXB
Chính trị Quốc Gia, 1995;
Ngoài ra còn nhiều bài viết và những công trình nghiên cứu khác như:
- “ Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”( Luận văn tiến
sĩ Luật học, HN, 2003) của tác giả Dương Tuyết Miên;
- “ Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam”( Luận văn thạc
sĩ Luật học, HN, 1996 của tác giả Trần Văn Sơn;
Nhìn chung các công trình trên mới đề cập đến một số khía cạnh cụ thể
có tính chất khái quát về quyết định hình phạt, mà chưa đi nghiên cứu vấn đè
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội một cách toàn diện và
chi tiết cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy , đây vẫn là đề tài cần được tiếp tục
tìm hiểu và nghiên cứu.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ , phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu: Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật
hiện hành về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, thực tiễn
áp dụng quy định các quy định này; từ đó đề xuất ý kiến hoàn thiện những
quy định đó, góp phần nâng cao hiệu quả của quyết định hình phạt;
Nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề chung về phạm nhiều tội, quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; đánh giá khái quát về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội. Phân tích những nội dung của các
quy định và đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Luật hình sự hiện
hành về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, từ đó đưa ra
kiến nghị và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật;
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ Luật
hình sự, chủ yếu dựa trên cơ sở của BLHS 1999, sửa đổi , bổ sung 2009.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách
Hình Sự; quan điểm, đường lối xử lý tội phạm phạm nhiều tội;
3
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Leenin.
Một số phương pháp cụ thể như: phương pháp thống kê, phân tich và tổng
hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng
kết của các cấp Tòa án. Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các
quy định của pháp luật với nha nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình
nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu
để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt nói
chung và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội nói riêng luôn
là một trong những hướng cơ bản, đồng thời cũng là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng,
được thể hiện trên ba bình diện chủ yếu dưới đây:
- Về mặt lập pháp, bên cạnh các quy định hiện hành như BLHS năm
1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì các
quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội vẫn còn rời
rạc, nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như thông tư liên
tịch số 02/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ công an, Nghị
quyết số 01/2001/NQ – HĐTP ngày 15/03/2001 của Hội đồng thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao dẫn đến việc thiếu thống nhất , thiếu đồng bộ trong việc
giải thích pháp luật.
- Về mặt thực tiễn, chính xuất phát từ thực tiễn quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội trên địa bàn cả nước đã cho thấy sự yếu kém
của một bộ phận cán bộ , công chức trong việc nhận thức cũng như áp dụng
đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự , dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm chưa cao, đôi khi còn bỏ lọt tội phạm, gây
thiệt hại cho các quyền và tự do của công dân, làm giảm hiệu quả của cuộc
đấu tranh chống tội phạm.
- Về mặt lý luận, vấn đề quyết định hình phạt đã được đề cập nhiều
trong các công trình nghiên cứu khác nhau, nhưng hiện chưa có một nghiên
cứu nào đề cập đến việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội giữa mối quan hệ tương quan của chúng với nhau.
Vì vậy:
4
- Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những khía cạnh pháp
lý về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội góp phần xây
dựng, hoàn thiện lý thuyết định tội danh và quyết định hình phạt trong khoa
học pháp lý hình sự.
- Là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án
trong việc quyết định hình phạt, giải quyết vụ án hình sự được đúng đắn.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội
Chương II: Các quy định của BLHS hiện hành về quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội và thực tiễn áp dụng
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện BLHS quy định về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội và nâng cao hiệu quả áp dụng
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG
TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI
1.1 Khái niệm, đặc điểm của trường hợp phạm nhiều tội
1.1.1 Khái niệm phạm nhiều tội
Bộ luật hình sự Việt Nam quy định về tội phạm và trách nhiệm hình sự
của người phạm tội. Tội phạm quy định trong BLHS Việt Nam là tội phạm
riêng lẻ và các tội phạm được thực hiện có thể mang tính chất độc lập hoặc
liên quan đến nhau. Thực tế cho thấy rằng , trường hợp phạm nhiều tội xảy ra
rất nhiều trên thực tế với tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn rất nhiều so
với trường hợp phạm tội đơn lẻ. Do sự khác nhau về tính chất mức độ nguy
hiểm dẫn đến sự khác nhau về trách nhiệm hình sự giữa trường hợp phạm
nhiều tội và phạm tội đơn lẻ mà không đơn thuần chỉ là phép cộng hình phạt
thông thường.
Chính vì vậy, Ở 2 BLHS 1985 và BLHS 1999 đều đề cập và quy định
khá cụ thể về định tội danh và quyết định hình phạt liên quan đến trường hợp
phạm nhiều tội. Mặc dù vậy, cả hai Bộ luật hình sự này đều chưa đưa ra khái
niệm “ phạm nhiều tội’, do đó để có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc định tội
danh và quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội ta cần phải xác
định khái niệm phạm nhiều tội.
Qua nghiên cứu và thực tiễn đã có tổng kết về khái niệm phạm nhiều
tội, “Phạm nhiều tội” gồm 2 khái niệm “ phạm tội” và “nhiều”. Trong đó
phạm tội là hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm được mô tả trong các quy
định của BLHS, nhiều được hiểu là từ hai trở lên.
Theo nghĩa này Từ điển luật học đã xây dựng khái niệm phạm nhiều tội
như sau: “ Chủ thể có nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ có một hành vi
mà hành vi đã thực hiện đó thỏa mãn cấu thành tội phạm khác nhau thì phạm
nhiều tội”[29, tr.45].
Theo nghĩa hẹp, phạm nhiều tội gắn với hoạt động định tội danh và
quyết định hình phạt và là một trường hợp đặc biệt của quyết định hình phạt.
6
Theo nghĩa này, điều 50 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội và Điều 51 BLHS quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều
bản án thì thời điểm đưa ra xét xử của các tội danh này khác nhau còn theo
Điều 50 khi đưa ra xét xử cùng một lần người phạm tội, do đó cần phải áp
dụng đúng quy định của BLHS về định tội danh và quyết định hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội. Hiểu theo nghĩa như vậy thì Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm về phạm nhiều tội
như sau: “Phạm nhiều tội là trường hợp người có nhiều hành vi phạm tội hoặc chỉ
có một hành vi phạm tội nhưng thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau và bị
đưa ra xét xử cùng một lần về các tội phạm đó”[31, tr.285].
Còn theo Luật hình sự một số nước trên thế giới, đã có nước đã đưa
khái niệm phạm nhiều tội vào quy định trong luật của nước mình. Ví dụ như
Điều 45 BLHS Nhật Bản quy định : “Phạm nhiều tội là trường hợp một
người thực hiện hai hoặc nhiều tội phạm mà đối với các tội đó chưa có bản
án có hiệu lực pháp luật của tòa án, khi bản án phạt tù không có quy định lao
động bắt buộc hoặc hình phạt nặng hơn của tòa án được tuyên đối với một tội
phạm đã có hiệu lực pháp luật thì chỉ có thội phạm đó và tội phạm khá được
thực hiện trước khi bản án nói trên có hiệu lực pháp luật mới tạo thành
trường hợp phạm nhiều tội”[3, tr.21]
Từ những phân tích nêu trên, có thể nêu lên khái niệm về phạm nhiều
tội một cách đầy đủ nhất là:
Trường hợp một chủ thể phạm từ hai tội trở lên hoặc khi hành vi của
người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy
định tại các điều luật khác nhau (hoặc các khoản các khác nhau của cùng
một điều luật nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) được quy định trong
phần các tội phạm của BLHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào
trong số tội ấy.
* Phân biệt phạm nhiều tội với phạm tội nhiều lần
Xuất phát từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trong lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng, sự nhầm lẫn giữa trường hợp phạm nhiều tội và
7
phạm tội nhiều lần đã xảy ra bởi chúng đều có những điểm chung. Tuy nhiên,
giữa chúng có sự khác biệt về chứng cứ pháp lý, nên để đưa ra một khái niệm
phản ánh chính xác nhất bản chất của “phạm nhiều tội” chúng ta cần nghiên
cứu phân biệt 02 trường hợp này như sau:
- Thứ nhất: Bản chất của phạm nhiều tội và phạm tội nhiều lần
Phạm tội nhiều lần
Phạm nhiều tội
- Là một tình tiết tăng nặng
- Là trường hợp một người
được quy định tại Điểm g khoản 1 phạm vào hai tội khác nhau trở lên
Điều 48 phản ánh trường hợp người có thể vào thời điểm khác nhau hoặc
phạm tội thực hiện hành vi ấy được cùng một thời điểm và tất cả những
quy định tại cùng một điều luật lần phạm tội đó đều chưa bị truy cứu
(hoặc cùng một khoản của Điều trách nhiệm hình sự lần nào, nay đưa
tương ứng trong phần các tội phạm ra truy cứu cùng một lần.
của BLHS đồng thời với những tội
ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và người phạm tội
chưa bị xét xử). Như vậy người
phạm tội thực hiện từ 2 lần trở lên
hành vi phạm tội mà mỗi lần có đầy
đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm
cơ bản , nhưng lần thứ nhất chưa bị
phát hiện và chưa bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo mức độ tương
ứng với cấu thành tội phạm tăng
nặng hoặc đặc biệt tăng nặng.
VD: Các tội theo Khoản 2, 3
của một số Điều trong BLHS năm
1999, cũng như luật sửa đổi bổ sung
một số Điều của BLHS năm 2009,
8
Điểm D khoản 2 Điều 111 (tội hiếp
dâm), điểm C khoản 3 Đ 112 (tội
hiếp dâm trẻ em), điểm b khoản 2
Điều 113 (tội cưỡng dâm) điểm b
khoản 3 Điều 114 (tội cưỡng dâm
trẻ em) điểm a khoản 2 Điều 115
(tội giao cấu với trẻ em). Điểm a
khoản 2 Điều 116 (tội dâm ô với trẻ
em), điểm d khoản 2 Điều 123 (tội bắt
giữ hoặc giam người trái pháp luật)
- Thứ hai: Khách thể xâm hại
Phạm tội nhiều lần
Phạm nhiều tội
- Người thực hiện hành vi nguy
- Người phạm tội thực
hiểm cho xã hội xâm phạm vào một khách hiện hành vi nguy hiểm cho xã
thể (một quan hệ xã hội) mặc dù đối tượng hội, xâm hại cho khách thể (các
bị xâm hại (đối tượng tác động) có thể có quan hệ xã hội) khác nhau.
khác nhau.
VD: Nguyễn Quang Huy và Đặng
VD:
Nguyễn
Đình
Hoài Thu mở quán Karaoke, tại đây Huy Thung sau khi biết Đỗ Hoàng
và Loan đã bàn bạc nếu có khách mua Quân có hành vi ăn cắp tài
dâm được Huy đồng ý thì Loan sẽ bán sản, Thung đã không thông
dâm cho khách mỗi lần thu được báo với cơ quan công an mà
100.000đ. Trong tháng 9/2010 Long đã 2 còn che giấu, ngoài ra Thung
lần thực hiện hành vi chứa Lê Thị Loan lại còn mua lại chiếc máy tính
bán dâm cho khách tại buồng nhà riêng xách tay của Quân để tiêu thụ.
của mình. Trong đó 1 lần vào sáng ngày
Như vậy trong trường
27/09/2010 và lần 2 vào sáng ngày hợp này Thung bị truy tố và
30/09/2010, lần 3 vào khoảng 20h ngày xét xử về hai tội là tội che giấu
30/09/2010 bán dâm cho Nguyễn Văn tội phạm (Điều 313) và tội tiêu
9
Tiến bị công an Huyện B bắt quả tang. ở thụ tài sản do người khách
đây hành vi của Long đã phạm tội “Chứa phạm tội mà có theo Điều 250
mại dâm” với tình tiết là phạm tội nhiều của BLHS năm 1999.
lần theo Điều 254 BLHS.
Thứ ba: Khi định tội danh và quyết định hình phạt
Phạm tội nhiều lần
Phạm nhiều tội
- BLHS quy định phạm tội nhiều lần
Vụ án được đưa ra xét
được coi là tình tiết tăng nặng khi đưa ra xử cùng một vụ án, Hội đồng
xét xử cùng một lúc (cùng một vụ án).
xét xử xem xét định tội danh
Nếu truy tố và xét xử ở các thời và quyết định hình phạt đối
điểm khác nhau thì khi định tội danh và với từng tội, sau đó tổng hợp
quyết định hình phạt không áp dụng tình hình phạt của bản án. Trên
tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần mà thực tế khi xét xử, chúng ta
phải theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt cũng cần phân tích hành vi
của nhiều bản án theo Điều 51 BLHS.
phạm tội của từng tội, xem có
thuộc trường hợp phạm tội
nhiều lần hay không thì áp
dụng tình tiết tăng nặng cho
tội đó (có thể áp dụng điểm g
cho khoản 1 Điều 48 BLHS
hoặc những tình tiết đã là yếu
tố định tội hoặc định khung
hình phạt thì không được coi
là tình tiết tăng nặng). Sau đó
quyết định hình phạt chung
cho các tội đối với bị cáo.
[51, tr.15-16].
10
1.1.2 Đặc điểm của phạm nhiều tội
Sau khi phân tích như trên có thể đưa ra 4 đặc điểm của phạm nhiều tội
để thấy rõ sự khác biệt với các hình thức phạm tội khác như sau:
- Đặc điểm thứ nhất: Về số lượng, người phạm tội thực hiện từ hai lần
trở lên hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
từng lần đó.
- Đặc điểm thứ hai: Các hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy trong mỗi lần
thực hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
độc lập hay nói cách khác các hành vi đó phải được quy định trong các điều
luật khác nhau của BLHS.
- Đặc điểm thứ ba: Tội phạm do một điều luật (hoặc một khoản của
điều) tương ứng trong phần các tội phạm của BLHS quy định.
- Đặc điểm thứ tư: Các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó còn thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự và người thực hiện hành vi đó chưa bị đưa ra xét
xử một lần nào về một trong những hành vi nguy hiểm đã thực hiện từ đó đến
nay đưa ra xét xử cùng một lần.
VD: Khoảng 01h ngày 27/10/2011 Hoàng Duy Dũng là đối tượng
nghiện ma túy cùng Nguyễn Văn Ba đến nhà Lê Văn Hà để mua ma túy. Hà
đã bán cho Dũng 04 gói heroin giá 60.000 đồng, sau đó Dũng xin Hà giấy bạc
hút ngay tại chỗ, Hà nhìn thấy nhưng không nói gì. Hút xong Dũng cất 3 gói
heroin vào trong túi quần rồi cùng Ba đi đến Thị trấn TT thì bị công an huyện
TT kiểm tra và thu giữ 3 gói heroin có tổng lượng là 21mg và 200.000 đồng.
Cùng ngày công an huyện TT đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Hà thu giữ 02
gói heroin tổng trọng lượng 106,5mg và 10.820.000 đồng trong đó có 60 tờ
tiền giả loại Polyme mệnh giá 100.000đ. Với hành vi nêu trên, bị cáo Lê Văn
Hà phạm các tội “mua bán trái phép chất ma túy” khoản 2 Điều 194 chứa
chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy khoản 2 điều 180 BLHS. Vấn đề đặt
ra ở đây phải xác định khi nào chủ thể bị coi là phạm nhiều tội (bị xét xử về
11
nhiều tội) và khi nào chỉ bị coi là phạm một tội (bị xét xử về một tội phạm), từ
đó giải quyết theo các hướng sau đây:
- Trong trường hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chủ thể thực
hiện thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm nhưng các hành vi đó không có quan
hệ với nhau thì bị coi là phạm nhiều tội.
- Trong trường hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà chủ thể thực
hiện thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm nhưng các hành vi đó có quan hệ với
nhau thì chủ thể bị coi là phạm nhiều tội, khi các hành vi phạm tội này có tính
nguy hiểm độc lập và loại trừ lẫn nhau.
- Trong trường hợp chủ thể thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà hành vi này thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm thì chủ thể bị coi là phạm
nhiều tội khi không có tội phạm nào loại trừ được tội phạm còn lại do tội còn
lại này được coi là không đáng kể so với tội phạm đó.[67, tr.34].
Từ những đặc điểm trên, ta có thể nhận thấy tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội trong trường hợp phạm nhiều tội
Quyết định hình phạt phù hợp với các tội mà người phạm tội mắc phải
thì vấn đề xác định tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội là một vấn đề rất quan trọng. Mức độ nguy hiểm cho xã hội được hiểu là
chuẩn đánh giá so sánh tính nguy hiểm cho xã hội giữa các trường hợp phạm
tội cụ thể đã thực hiện thuộc khung hình phạt của cùng tội phạm. Mức độ tính
chất nguy hiểm của hành vi phạm tội cụ thể nào đều là sự thống nhất của hai
yếu tố và được thể hiện qua hai yếu tố là mức độ phủ định khách quan của tội
phạm ( mức độ gây thiệt hại) mức độ phủ định chủ quan của tội phạm ( mức
độ lỗi)
Thứ nhất là mức độ phủ định khách quan của tội phạm thì trong trường
hợp này, người phạm tội phạm nhiều tội là phạm từ hai tội trở lên. Mỗi tội
phạm đều có đối tượng bị xâm hại, tác động đến. Trong trường hợp phạm
nhiều tội thường có nhiều đối tượng bị xâm hại, bị tác động ,nên xét về mức
độ thiệt hại thì phạm nhiều tội để lại một mức độ thiệt hại lớn hơn so với
12
phạm tội đơn lẻ. Điều đó dẫn đến việc trách nhiệm hình sự mà người đó phải
chịu nhiều hơn so với việc phạm tội đơn lẻ.
Thứ hai, về mức độ phủ định chủ quan của tội phạm . Về mức độ ý chí
của người phạm tội thì trong trường hợp phạm nhiều tội thể hiện mức độ ý
chí cao hơn so với trường hợp phạm tội đơn lẻ bởi trong trường hợp này
người phạm tội phải có quyết tâm phạm tội cao hơn thì mới có thể thực hiện
được nhiều tội phạm. Về mặt nhân thức thì trong trường hợp phạm nhiều tội ,
thông thường người phạm tội cũng có nhận thức về tính nguy hiểm cho xã hội
của mình, bởi họ không chỉ phạm một điều mà pháp luật cấm. Vì vậy bản
thân họ cũng biết được mức độ nguy hiểm của hành vi mình gây ra là lớn thế
nào[67, tr.39].
Chính vì vậy khi xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm nhiều tội là rất nguy hiểm bởi hậu quả của nó thường lớn hơn
so với việc phạm tội đơn lẻ. Về mức độ ý chí của người phạm tội trong trường
hợp này cũng thường nguy hiểm hơn cho xã hội. Nên cần phải xác định chính
xác được người phạm tội có phạm nhiều tội hay không để áp dụng đúng các
quy định của pháp luật một cách phù hợp. Buộc người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự đúng với tội danh mà mình thực hiện. Đảm bảo yếu tố
răn đe, giáo dục cho người phạm tội.
1.2 Khái niệm, ý nghĩa của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội
1.2.1 Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Mặc dù thuật ngữ quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội đã có thời gian dài được sử dụng nhưng vẫn chưa có một văn bản pháp
luật chính thức nào đưa ra định nghĩa về khái niệm này. Việc nghiên cứu xây
dựng định nghĩa về thuật ngữ này hầu như chỉ được các nhà khoa học luật
hình sự quan tâm. Tuy nhiên trong khoa học luật hình sự hiện nay, cũng có
khá nhiều quan điểm về khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội, nhưng tựu chung lại khái niệm quyết định hình phạt trong
13
trường hợp phạm nhiều tội có thể được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo nghĩa hẹp
là việc “Tòa án lựa chọn ra hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và có
thể có cả hình phạt bổ sung tùy mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp
dụng đối với người phạm nhiều tội” . Hay nói cách khác, quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội theo nghĩa hẹp là quyết định hình phạt chính
và quyết định hình phạt bổ sung.
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội theo nghĩa rộng
bao gồm: quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt bổ sung, quyết
định biện pháp chấp hành hình phạt, quyết định các biện pháp tư pháp với
mục đích thay thế hoặc hỗ trợ cho hình phạt.
Một số tác giả còn cho rằng, quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn nữa là quyết định biện
pháp xử lý đối với người phạm nhiều tội.
Tác giả cho rằng, khi quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội, luật hình sự nước ta luôn luôn xuất phát từ nguyên tắc tương xứng
giữa hình phạt và mức độ tội phạm. Hình phạt phải là hậu quả thực tế của tội
phạm. Hay nói cách khác, hình phạt là hậu quả tất yếu mà người tội phạm
phải gánh chịu khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm. Do vậy, khi quyết định hình phạt Tòa án không thể không cân nhắc một
cách toàn diện các tình tiết của tội phạm từ các biểu hiện khách quan bên
ngoài như hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả,công cụ, phương tiện phạm
tội, thời gian, địa điểm phạm tội…đến những đặc điểm chủ quan, cũng như
nhân thân người phạm tội. Hình phạt chỉ được quyết định trên cơ sở sự đánh
giá thống nhất giữa đặc điểm khách quan và chủ quan của tội phạm. Việc quá
coi trọng hay xem nhẹ một mặt nào đó sẽ làm mất tính đúng đắn, công bằng
của hình phạt được quyết định và tất nhiên mục đích của hình phạt cũng sẽ bị
hạn chế. Bởi vậy khi quyết định hình phạt, Tòa án phải thực hiện nguyên tắc
14
cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội. Tức là trên cơ sở quy định pháp
luật, ý thức pháp luật mà quyết định loại và mức hình phạt tương ứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người
phạm tội. Hình phạt mà Tòa án lựa chọn phải trong phạm vi chế tài của điều
luật quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm đó, đảm bảo sự thống nhất
về đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần tăng cường pháp chế
XHCN [49, tr.36].
Đối với hình phạt chính, nếu trong khung hình phạt nhà làm luật quy
định nhiều loại hình phạt khác nhau thì quyết định hình phạt. Tòa án lựa chọn
một loạt hình phạt và quyết định mức hình phạt trong phạm vi giới hạn tối
thiểu và tối đa của khung hình phạt đối với loại hình phạt đó để áp dụng đối
với người phạm tội. Đối với một số loại hình phạt không quy định thời hạn
như cảnh cáo, trục xuất, tù chung thân hoặc tử hình thì quyết định hình phạt
thực chất chỉ là việc lựa chọn hình phạt mà thôi, không có bước án định mức
hình phạt cụ thể áp dụng đối với người phạm tội.
Đối với hình phạt bổ sung, việc quyết định hình phạt được thực hiện
tương tự như hình phạt chính, tức là Tòa án lựa chọn loại và quyết định mức
hình phạt trong phạm vi cho phép của khung hình phạt để áp dụng kèm theo
hình phạt chính nhằm mục đích bổ sung cho hình phạt chính, mở rộng khả
năng pháp lý cho Tòa án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất mức
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và đặc điểm nhân thân người phạm tội.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái
niệm quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là việc xác định
giai đoạn định khung hình phạt có thuộc về hoạt động quyết định hình phạt
không? Chúng ta cần coi giai đoạn định khung hình phạt là một trình tự của
hoạt động quyết định hình phạt, thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi
vì định khung hình phạt là việc làm được thực hiện sau khi xác định xong loại
tội danh và hoạt động đầu tiên xác định giới hạn luật định, hình phạt có thể sẽ
được quyết định. Mặt khác việc định tội danh phải được thực hiện trên cơ sỏ
15
cấu thành tội phạm cơ bản chư không phải là các cấu thành tội phạm tăng
nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh xong, cơ quan tố tụng mới
xác định khung hình phạt (nếu điều luật về tội phạm cụ thể chỉ có một khung
hình phạt thì tòa án đương nhiên là không phải xác định khung hình phạt).
Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
định khung. Định khung hình phạt sai sẽ dẫn đến hình phạt quyết định sai và
định khung hình phạt sai sẽ làm thay đổi tội danh mà các bị cáo đã phạm. Như
vậy, định khung hình phạt ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định hình phạt.
Do đó chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng định khung hình phạt thuộc
về hoạt động quyết định hình phạt.
Từ những sự phân tích trên, chúng tôi cho rằng định nghĩa khái niệm
quyết định hình phạt cần được hiểu toàn diện như sau: “Quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường hợp bị
cáo đã phạm từ hai tội trở lên mà các tội đó chưa được đưa ra xét xử và
cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. khi quyết định hình
phạt đối với người phạm tội trong trường hợp này, Tòa án quyết định cho mỗi
tội một hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung nếu có , sau đó Tòa án sẽ
tổng hợp các hình phạt này theo quy định của BLHS. Khi quyết định hình
phạt đối với từng tội, Tòa án phải tuân thủ các quy định đặc thù áp dụng
riêng đối với trường hợp phạm nhiều tội”.
1.2.2 Đặc điểm của quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là xác định loại
và mức hình phạt cụ thể ( kể cả hình phạt bổ sung nếu có) trong phạm vi luật
cho phép để áp dụng đối với người phạm nhiều tội
Việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội phải tuân
theo nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù của quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội. các nguyên tắc chung ở đây bao gồm các
nguyên tắc Pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc nhân đạo; nguyên tắc cá
thể hóa hình phạt và nguyên tắc công bằng. Các nguyên tắc đặc thù bao gồm
16
các nguyên tắc: nguyên tắc cộng toàn bộ; nguyên tắc cộng một phần; nguyên
tắc thu hút và nguyên tắc cùng tồn tại.
Để thực hiện việc quyết định hình phạt một cách chính xác cần phân
biệt rõ rõ quyết định hình phạt trong từng trường hợp phạm nhiều tội với các
trường hợp khác như quyết định xử phạt trong trường hợp phạm tội nhiều lần
hay trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.
Việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội phải tuân theo
một trình tự nhất định, các hình phạt đối với từng tội danh phải được xác định
riêng rồi sau đó mới được tổng hợp lại với nhau thành một hình phạt chung.
Khi thực hiện việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều
tội, việc tổng hợp hình phạt phải dựa vào quy định của Điều 50 BLHS. Trong
mỗi trường hợp , mỗi loại hình phạt đều có những các tổng hợp khác nhau
dựa trên các nguyên tắc của pháp luật Việt Nam
Đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội cũng có những quy định
khác biệt so với trường hợp phạm nhiều tội thông thường. Ngay đối với người
chưa thành niên phạm nhiều tội mà các tội thực hiện ở các thời điểm khác
nhau cũng có những điểm khác nhau nhất định. Việc tổng hợp hình phạt với
trường hợp này cũng cần căn cứ vào các thời điểm phạm tội khác nhau của người
chưa thành niên phạm nhiều tội để đưa ra quyết định hình phạt chính xác.
1.2.3 Ý nghĩa quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Thứ nhất, quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính
trị- xã hội và pháp lý . Quyết định hình phạt góp phần củng cố và giữ vững
pháp chế,trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Hình phạt mà toà án tuyên cho
người phạm tội phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội. Hình phạt đã tuyên thoả đáng sẽ làm cho người bị
kết án thấy được tính chất sai trái của hành vi của mình cũng như sụ cần thiết
của bản án đã tuyên cho họ,từ đó tự giác tuân thủ pháp luật ; đồng thời hình
phạt đã tuyên thoả đáng sẽ đủ sức răn đe những người không “vững vàng”
trong xã hôị để họ từ bỏ ý định phạm tội, tự giác chấp hành pháp luật của Nhà
17
nước. Hơn nữa, việc toà án tuyên hình phạt thoả đáng cho người phạm tội sẽ
có tác dụng giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân, làm cho quần
chúng nhân dân thấy được sự nghiêm minh của luật pháp để tự giác tuân thủ
pháp luật, tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Thứ hai, quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được mục
đích của hình phạt : trừng trị và giáo dục.Việc quyết định hình phạt phải đảm
bảo cho hình phạt đã tuyên đạt được cả hai mục đích này.Trừng trị nhau và
giáo dục là hai mặt có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau
và là hai mặt của một thể thống nhất trong khi quyết định hình phạt và Toà án
không được coi nhẹ mặt nào.Chỉ khi hình phạt được quyết định một cách
chính xác và công bằng thì mục đích của hình phạt mới đạt được,tức là có tác
dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục
người khác. Hình phạt được quyết định quá nhẹ so với tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội phạm đã được thực hiện sẽ sinh ra ở người phạm tội và ở
những ngưòi khác thái đọ xem thường pháp luật, còn hình phạt được quyết
định quá nặng sẽ gây ra ở người bị kết án sự không tin tưởng vào tính công
bằng của pháp luật và sự công minh của các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó
dẫn đến hậu quả là giảm ý nghĩa phòng ngừă riêng và phòng ngừă chung của
hình phạt.
Thứ ba, quyết định hình phạt đúng là cơ sở quan trọng để có thể nâng
cao hiệu quả của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố khác nhau như xây dựng pháp luật hình sự,quyết định hình phạt, chấp
hành hình phạt,tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.Trong
các yếu tố trên thì quyết định hình phạt là yếu tố quan trọng nhất.Việc xây
dựng hệ thống pháp luật hình sự hoàn thiện chỉ có ý nghĩa khi quyết định hình
phạt trong thực tế được đúng.Mặt khác,việc chấp hành hình phạt chỉ phát huy
tác dụng nếu toà án quyết định hình phạt đúng.Những yếu tố xã hội khác đảm
bảo hiệu quả của hình phạt như vấn đề tuyên truyền giáo dục pháp luật cho
công dân để công dân tự giác chấp hành hình phạt sẽ không thể phát huy tác
18