Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Đánh giá kết quả sử dụng vạt bên ngón IC trong điều trị sẹo co ngón bàn tay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 110 trang )

1

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bàn tay là cấu trúc quan trọng của cơ thể con người. Nhờ có bàn tay
mà con người ta có thể sử dụng các công cụ lao động và sinh hoạt. Bàn tay có
cấu trúc giải phẫu tinh vi, phức tạp và có đặc điểm sinh lý riêng biệt. Mỗi
thành phần cấu tạo nên bàn tay đều có vai trò quan trọng, góp phần tạo nên
chức năng vận động và cảm giác tinh tế của bàn tay [1].
Bàn tay là cơ quan hoạt động nhiều nhất ở trên cơ thể, là cơ quan sờ
mó, cầm nắm mọi vật, vì vậy rất dễ bị tổn thương. Thương tổn bàn tay do
nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân bỏng thường để lại di chứng dính


và co kéo. Theo số liệu của Viện bỏng Quốc gia, mỗi năm có gần 6000 bệnh
nhân đến khám và điều trị, trong đó có 1200 bệnh nhân điều trị di chứng
bỏng, trong số đó có 300 bệnh nhân bị bỏng vùng bàn ngón tay chiếm tỷ lệ
lớn, sau đó rồi mới đến bỏng vùng cằm, cổ mặt và thân [1].
Theo Phạm Văn Phúc [2] tổn thương bỏng bàn tay nếu không điều trị
tốt từ đầu thì sẽ để lại di chứng nặng nề, làm giảm chức năng của bàn tay.
Việc điều trị những di chứng của sẹo bỏng trở nên khó khăn và phức tạp. Hơn
nữa, di chứng tái phát sau điều trị vẫn còn cao. Tổn thương có thể là sẹo da
đơn thuần gây co kéo các ngón, dính ngón, hẹp khe ngón hoặc nặng hơn là
kèm theo tổn thương gân xương, khớp, mạch máu, thần kinh…
Theo Đặng Tất Hùng [3], trong các hình thái biến dạng thường gặp ở
vùng bàn tay thì sẹo co kéo mặt gan các ngón chiếm đa số (72,4%), sẹo ở gan

tay 10,4% , sẹo mu tay chiếm 17,2%.
Việc điều trị các di chứng sẹo ở vùng bàn tay - ngón tay thường đòi hỏi can
thiệp phẫu thuật cắt sẹo, giải phóng co kéo, giải quyết các tổn thương phối hợp
và phục hồi khuyết da bằng các phương pháp tạo hình. Những khuyết da nhỏ sau
cắt sẹo được tạo hình bằng các vạt da tại chỗ, khuyết da lớn được che phủ bằng


2

2

phương pháp ghép da kinh điển, hoặc các vạt có chân nuôi từ xa [4], các vạt da

cân có cuống mạch liền (vạt bẹn, vạt cẳng tay quay, vạt da cân liên cốt sau, vạt
da cân cẳng tay trụ …) hoặc các vạt tự do có mạch nuôi bằng kỹ thuật vi phẫu
(vạt cân thái dương, vạt da cân bả vai, vạt da cân delta…) để che phủ [5].
Do đặc điểm tổ chức giải phẫu bàn tay, các khuyết da sau cắt sẹo co cần
được phục hồi bằng các vạt da mỏng, có tính chất và màu sắc tương thích và
quan trọng là không gây dính gân và co kéo nhiều. Đáp ứng yêu cầu đó tốt nhất
là sử dụng các vạt tại chỗ và lân cận. Trong các vạt ngẫu nhiên được sử dụng
dưới dạng dồn đẩy, xoay chuyển, có vạt IC (đường rạch nới ngang sẹo hình
chữ I và đường rạch tạo vạt hình C), một vạt do Colson đề xuất từ năm 1960 và
được sử dụng hữu hiệu trong tạo hình di chứng dính ngón tay do bỏng, vạt này
đã sử dụng tại bệnh viện Saint Paul khá lâu [6].
Đã có một số nghiên cứu về các phương pháp được áp dụng tạo hình

sẹo co ngón bàn tay, nhưng không có nhiều nghiên cứu đánh giá sâu việc sử
dụng vạt tại chỗ ứng dụng cho tổn thương dính ngón tay, đặc biệt là vạt IC. Vì
vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả sử dụng vạt bên ngón IC
trong điều trị sẹo co ngón bàn tay”, với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của tổn thương sẹo co ngón tay.
2. Đánh giá kết quả sử dụng vạt IC trong diều trị sẹo co ngón.
Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm giải phẫu và tổ chức học da vùng bàn tay
Bàn tay giới hạn từ nếp gấp cổ tay xa đến các đầu ngón tay.
- Bàn - ngón tay: chứa đựng nhiều tổ chức có cấu trúc tinh vi, phức tạp

như gân, cơ, xương, khớp, dây chằng, mạch máu, thần kinh…


3

3

- Da: phía mu mỏng mềm, di động, cấu lên thành lớp dễ dàng. Tổ chức
mỡ dưới da nghèo nàn, dưới tổ chức này có cân của gân duỗi ngón tay. Ngược
lại, da phía gan tay dày, có lớp mỡ đệm, có các thớ xơ đi xuống sâu, do đó khi
viêm nhiễm thường biến chứng viêm nhiễm gân xương. Tổ chức mỡ dưới da
của ngón tay, nhất là ở đốt 3 phía gân tay là những cum mỡ chắc, có một

mạng lưới dày các mạch máu và thần kinh giúp cho đốt 3 có khả năng xúc
giác.
- Xương: xương và hệ thống dây chằng bao khớp bảo đảm cho mọi
hoạt động tinh vi phức tạp của bàn - ngón tay, không chỉ gãy xương, trật khớp
mà với mọi tổn thương dây chằng, bao khớp viêm nhiễm… nếu cố định lâu
ngày ở tư thế bất lợi sẽ làm giảm trầm trọng chức năng lao động.
- Cơ gân: với hai hệ thống cơ dài (từ cẳng tay) và cơ ngắn (trong bàn
tay) bao gồm hàng chục cơ khác nhau, là động lực cho mọi hoạt động của bàn
tay, ngón tay. Các gân gấp có bao gân, vòng hãm làm cho các động tác cầm
nắm được khỏe, chắc và dễ dàng nhưng khi tổn thương thì rất khó xử lý.
- Thần kinh: chi phối vận động, cảm giác ở bàn - ngón tay do 3 dây
thần kinh giữa, quay trụ chi phối. Dây giữa chi phối vận động gấp, đối chiếu

của cổ, ngón tay, chi phối cảm giác ba ngón rưỡi phía ngoài của gan tay và
các đầu mút các ngón đó phía mu. Dây quay chi phối hoạt động duỗi cổ tay,
đốt 1 các ngón, dạng duỗi ngón cái, cảm giác 3 ngón rười phía ngoài mu tay.
Dây trụ chi phối dạng khép các ngón, khép ngón cái, duỗi đốt 2, 3 các ngón,
cảm giác một ngón rưỡi phía trong. Thương tổn một dây thần kinh nào đó
cũng đều làm ảnh hưởng đến hoạt dộng của bàn, ngón tay [7],[8],[9].


4

4


Hình 1.1. Đặc điểm thần kinh bàn ngón tay [8]
- Mạch máu:
+ Động mạch: bàn ngón tay được cung cấp máu dồi dào từ hai động
mạch quay trụ, nối với nhau bằng 2 cung gan tay nông và sâu. Từ hai cung đó
chia các nhánh chia ra hai bên ngón.

Hình 1.2. Đặc điểm động mạch bàn - ngón tay [8]
+ Tĩnh mạch: phần lớn tĩnh mạch dẫn lưu theo đường mu tay, các tĩnh
mạch ở mu tay nối tiếp với nhau tạo thành mạng lưới tĩnh mạch chạy dưới da
(cung tĩnh mạch mu tay). Từ các cung tĩnh mạch chính của mu tay cho các
nhánh đi, mạng lưới tĩnh mạch tận cùng.



5

5

1.1.1. Tổ chức học của da bàn ngón tay
Về cơ bản, cấu tạo tổ chức học của da bàn ngón tay giống với da bình
thường về các lớp tế bào, về sự phân chia chiều dày của da nói chung. Tuy
nhiên, do chức phận đặc biệt của bàn tay nên về mặt tổ chức của nó có một số
đặc điểm riêng sau đây:
- Da ở gan tay và mặt bàn ngón tay dày từ 2,6 - 4,8 mm có cấu trúc rất
phức tạp và được biệt hóa cao, da ở đây dày chắc và không có lông, nó gần

như dính với cân nông ở gan bàn tay. Da gan bàn tay ít đàn hồi, bám chặt vào
cấu trúc bên dưới để trong quá trình cầm nắm kết hợp với các ngón tay sẽ
không bị trượt hoặc di động quá mức.
- Da dày và dính chắc trừ vùng mô cái, trên mặt da đầu ngón và bàn tay
có các nếp vân tay đặc trưng cho từng cá thể và quần thể người.
- Da che phủ bàn - ngón tay có cấu trúc giải phẫu đặc biệt tùy theo mặt
gan hay mặt mu tay, nhưng nói chung có các tính chất quan trọng như:
+ Tính chất đàn hồi: cho phép các khớp nhỏ ngón tay và kẽ ngón tay
hoạt động dễ dàng, tính chất này rất quan trọng, nhất là vùng mu bàn tay.
+ Nhận được các cảm giác tinh tế vì có nhiều thụ thể cảm giác nhất là
mặt gan các búp ngón tay.
+ Ngay ở dưới da, các gân cơ nằm trong bao có cấu trúc đặc biệt, cho

phép gân cơ trượt tới lui một cách dễ dàng [10],[11].


6

6

1.1.2. Giá trị lâm sàng của các đặc điểm giải phẫu và sinh lý bàn tay
- Vì da cổ tay, bàn tay, ngón tay mỏng, sát xương nên khi tổn thương
lớp da, nhất là vết thương gây mất da diện rộng, thường để lộ gân xương,
mạch máu, thần kinh. Các tổ chức này thường tổn thương thứ phát hoặc hoại
tử, do đó cần che phủ sớm.

- Do đặc điểm là vùng có nhiều xương, khớp, cân lại chia ra thành từng
ô, trong ô có từng lớp và có các bao gân, mạch máu, thần kinh chạy từ cổ tay
xuống gan tay, từ gan tay đến ngón tay, từ ô nọ thông sang ô kia cho nên một
vết thương ở bàn tay khi bị nhiễm khuẩn có thể lan rộng làm nhiễm trùng cả
bàn tay, gây khó khăn cho việc điều trị.
- Da ở cổ tay, bàn tay, ngón tay ít di động nên kỹ thuật khâu đóng vết
thương trực tiếp thường không liền da được nếu vết thương mất da trên 2 cm,
vì đường khâu dễ bị căng, gây hoại tử bục toác vết mổ.
- Da gan bàn tay lại dày, luôn phải chịu áp lực va chạm do có chức
năng cầm nắm. Do vậy, khi có khuyết hổng lớp da này trong nhiều trường
hợp, việc phục hồi phải cần có lớp mỡ dưới da (lớp đệm) chịu va chạm. [12],
[13].

1.2. Các dạng sẹo
1.2.1. Sẹo bỏng nói chung:
Các tổn thương di chứng bỏng liền sẹo nhanh hay chậm tùy thuộc vào
độ sâu của bỏng cũng như biện pháp ngoại khoa kết hợp. Có thể không thành
sẹo nếu tổn thương nông hay sẹo quá phát, sẹo lồi trong trường hợp bỏng sâu.
Các tổn thương bỏng sâu có nhiễm khuẩn nếu không được điều trị bằng ghép
da hay các phương pháp ngoại khoa khác thì sẽ liền sẹo chậm, khi khỏi


7

7


thường để lại di chứng về chức năng vận động hay xuất hiện tổn thương loét
lâu liền (có thể ác tính hóa) trên nền sẹo [15].
* Các biểu hiện lâm sàng:
- Sẹo đơn thuần như sẹo xơ, sẹo quá phát hay sẹo lồi:
+ Sẹo xơ: diện sẹo thường bằng phẳng, nền có thể chắc, thay đổi màu
sắc tại chỗ của sẹo
+ Sẹo phì đại: sẹo do sự quá phát của tổ chức xơ, giai đoạn đầu sẹo có
thể đỏ, nhiều tân mạch tân tạo, gồ trên bề mặt da, lớp biểu bì mỏng và sẹo
không có xu hướng phát triển, dần dần ổn định và bớt đỏ, điều trị có kết quả
và ít tái phát.
+ Sẹo lồi: sẹo căng chắc, màu đỏ hay hồng, ngứa và đau. Sẹo có tính

chất tiến triển và lan rộng sang tổ chức lành, hay tái phát sau phẫu thuật.
+ Sẹo co kéo: là tổn thương hay gặp khi sẹo khu trú vùng khớp vận
động. Mức độ co kéo phụ thuộc vào độ sâu của bỏng, vị trí sẹo co kéo, tính
chất co kéo, thời gian và mức độ hồi phục của cơ quan bên dưới.
- Sẹo dính: là di chứng xuất hiện trong quá trình điều trị, các tổ chức
hạt trong các bộ phận không thể tách rời (vùng bàn tay chân, nách, bẹn, khoeo
chân...) sẽ dính với nhau trong quá trình liền sẹo.
- Các di chứng của cơ quan: mất nhã cầu, biến dạng mi, tổn thương
mũi - mồm - tai, mất lông mày, mất tóc, co kéo vùng miệng.
- Các rối loạn dinh dưỡng tại chỗ: thay đổi sắc tố vùng sẹo (bạch biến
hay nhiễm sắc tố) loét loạn dưỡng.
- Ung thư hóa trên nền sẹo bỏng: thường gặp ở vùng loét lâu liền hay

những vùng sẹo co kéo ở cơ quan vận động, thời gian ác tính hóa có thể kéo
dài trong vòng nhiều năm [16],[17],[18].


8

8


9

9


1.2.2. Sẹo bỏng bàn tay:
Theo Lê Thế Trung, các dạng sẹo bàn, ngón tay được chia làm các loại
sau đây [15].
1.2.2.1. Sẹo da đơn thuần
Các tổn thương không xâm nhập qua lớp cân nông của bàn tay, bao gồm:
sẹo lồi, sẹo phì đại, sẹo xơ, sẹo loét.
1.2.2.2. Sẹo da có xâm nhập tới lớp cân nông của bàn tay
Các dải xơ dưới lớp cân nông của bàn tay gây co kéo các ngón tay với
các mức độ:
Nhẹ: chưa có ảnh hưởng đến hệ xương khớp.
Vừa: gây bán sái khớp.

Nặng: gây sái khớp, biến dạng xương.
Có 2 thể co kéo bàn ngón:
Co kéo các ngón về phía mu hoặc phía gan tay.
Co kéo các ngón về phía bên (phía trụ hoặc phía quay).
1.2.2.3. Sẹo dính
Gây dính các ngón vào nhau hoặc dính các ngón với bàn tay.
Có 5 thể dính:
Dính các kẽ ngón tay (dính kiểu màng, dính hẹp).
Dính kiểu chồng ngón về phía mu tay.
Dính chụm các ngón vào gan tay (bàn tay chụm).
Dính kiểu gấp các ngón tay về phía gan tay.
Dính chụm các ngón và dính kẽ.

1.2.2.4. Thể kết hợp nhiều di chứng trên
Có 3 thể:
Co kéo 4 ngón về phía mu và dính các kẽ các ngón tay.
Co kéo 4 ngón, kéo lệch bên và dính kẽ.
Co kéo 5 ngón và và dính trụ các ngón.


10

10

1.2.2.5. Thể di chứng co kéo cổ tay:

Co kéo lệch bên cổ tay.
Co kéo gấp cổ tay về phía gan tay.
1.2.2.6. Thể đặc biệt
Sái khớp bàn - ngón về phía gan tay.
Mất ngón cái.
Rối loạn vận mạch (viêm tắc động mạch).
Cứng khớp bàn tay ở thể duỗi
1.2.2.7. Thể tổn thương phối hợp
Có kèm theo tổn thương gân xương, cơ khớp, mạch máu, thần kinh, hiện
này chưa có một sự phân loại nào toàn diện kết hợp được cả thương tổn giải
phẫu bệnh với hình thái bệnh lý lâm sàng.



11

11

1.2.3. Cách phân loại sẹo co ngón theo McCauley: là cách phân loại
đơn giản áp dụng dễ dàng trên lâm sàng [17],[18],[19].
Giai

Xuất hiện các biểu hiện

đoạn

I

Triệu chứng nhẹ, nhưng không giới hạn cử động, cấu trúc giải

II

phẫu bình thường.
Giảm nhẹ khoảng vận động nhưng không có biểu hiện ảnh hưởng
các hoạt động thường ngày, không có sự biến dạng của cấu trúc,

III
IV


giải phẫu.
Chức năng bị ảnh hưởng, với sự thay đổi về cấu trúc giải phẫu.
Mất chức năng bàn tay với dấu hiệu biến dạng nặng các cấu trúc
giải phẫu.


12

12

1.3. Các phương pháp phẫu thuật:

Để đóng khuyết da sau khi cắt sẹo bỏng có thể dùng các phương
pháp:
- Đóng trực tiếp
- Ghép da: xẻ đôi, toàn bộ
- Dùng vạt
+ Tại chỗ:
+ Lân cận:
+ Từ xa
Ngẫu nhiên: vạt kiểu Ý, vạt Filatov (ngày nay ít sử dụng).
Trục mạch: cuống liền, cuống ghép vi phẫu.
Các phương pháp đóng khuyết tổ chức.
1.3.1. Cắt sẹo và đóng trực tiếp:

Theo PGS Trần Thiết Sơn, đóng trực tiếp vẫn được xem là phương
pháp lý tưởng để khâu các sẹo nhỏ, dựa vào nguyên tắc là đường sẹo thu
được hợp với nếp nhăn tự nhiên và không gây biến dạng với các tổ chức
xung quanh [1].
Tuy nhiên, những sẹo co ngón hướng sẹo thường vuông góc với nếp
nhăn tự nhiên và có kích thước lớn so với kích thước ngón tay nên
phương pháp cắt sẹo và đóng trực tiếp không khả thi với những sẹo co
ngón.
1.3.2. Ghép da:
Lần đầu tiên được áp dụng vào năm 1804, nhưng cho đến nay đây
vẫn là một kỹ thuật thông dụng để điều trị phẫu thuật các loại di chứng
sẹo bỏng [21],[22].



13

13

Nguyên tắc này là sau khi cắt bỏ sẹo di chứng bỏng, một mảnh da tự
thân từ chỗ nơi cho sẽ chuyển đến vùng KTC trên vùng cơ thể. Có 2 loại
mảnh da ghép khác nhau là: ghép da xẻ đôi, theo kinh điển người ta phải
biết ghép da mỏng như mảnh ghép lấy được 1/3 bề dày của lớp da gọi là
trung bì nông và ghép da dày toàn bộ. Ghép da mỏng có khả năng sống
tốt trên nền nhận, nhưng nhược điểm là co kéo nhiều. Trái lại ghép da dày

toàn bộ ít co kéo nhưng khả năng sống trên nền nhận kém. Ưu điểm của
kỹ thuật ghép da tự thân là có thể cung cấp lượng da lớn để che phủ KTC,
nhưng nhược điểm khó khắc phục là chất lượng mảnh ghép không cao,
không đạt yêu cầu về tính thẩm mỹ [23].
Vị trí lấy da dày rất đa dạng, trong đó ưu tiên chọn vị trí lấy có thể
dấu sẹo (bẹn, cổ tay, vùng gần nách, thậm chí có tác giả còn lấy da quy
đầu để dùng nguyên liệu ghép da cho ngón tay co do di chứng bỏng [24].

Hình 1.3. Ghép da dày bằng da bao quy đầu [23]
1.3.3. Dùng vạt



14

14

- Định nghĩa vạt: vạt là đơn vị tổ chức có thể được chuyển từ vị trí này
(nơi cho) đến vị trí khác (nơi nhận) mà vẫn duy trì được nguồn cấp máu của
nó.
- Vạt khác mảnh ghép: mảnh ghép không có nguồn cấp máu của nó.


15


15
1.3.3.1. Vạt tại chỗ:
* Vạt chuyển (transposition flaps)

Bao gồm các vạt da sử dụng một điểm trục (Pivot point) để di
chuyển đến một điểm mới. Đây là vạt thông dụng nhất trong phẫu thuật
tạo hình sẹo di chứng bỏng.
- Tạo hình chữ Z: Denonvilliers mô tả năm 1856 [31].
Gồm 3 đường rạch da có cùng độ dài tạo ra 2 vạt da tam giác bằng
nhau, chúng sẽ được dịch chuyển vị trí cho nhau. Đây là một kỹ thuật đơn
giản dễ thực hiện, rất hay dùng cho sẹo co kéo nhằm mục đích: (1) Kéo dài
sẹo co kéo thành các đương, (2) Làm phân tán hoặc giảm sức căng tổ chức,

(3) Sắp xếp lại hướng sẹo theo các nếp nhăn tự nhiên. Ngoài ra còn có
nhiều dạng khác của chữ Z: hai chữ Z, nhiều chữ Z, hay chữ Z kết hợp với
vạt đẩy vạt xoay khác.
+ Một chữ Z , hai chữ Z

Hình 1.4. Tạo hình một chữ chữ Z [32]

Hình 1.5. Tạo hình hai chữ Z [33],[34].


16


16
+ Chữ Z phối hợp

Các vạt chữ Z và V-Y xen kẽ nhau.

Hinh 1.6. Chữ Z Thiết kế 7 vạt seven flap plasty [35],[36]


17

17


Hình 1.7. Áp dụng vạt 7 thuỳ trên sẹo co ngón út [35][36]

Nhiều chữ Z với vạt xoay

Hình 1.8. Nhiều chữ Z với vạt xoay áp dụng cho sẹo co ngón I [35]


18

18

+ Vạt ZAR (Z advancement rotation flap) là một biến thể của vạt

chữ Z

Hình 1.9. Vạt ZAR [36],[37].

Hình 1.10. Vạt chữ X [36]
+ Vạt hai chữ Z đối nhau phối hợp vạt V (Double-opposing Z- and
VY- (K-M-N)


19

19


Hình 1.11. Vạt hai chữ Z đối nhau và V plasty [37], [81]
1.3.3.2. Vạt xoay (Rotation flaps)[38]
* Vạt xoay vùng gan tay
Là các vạt có hình bán nguyệt, vạt xoay trên một điểm trục che phủ
khuyết tổ chức kế cận (vạt xoay tròn, vạt imre) nơi cho vạt có thể đóng trực
tiếp hay ghép da, để tăng khả năng di động của vạt, có thể sử dụng đường
back - cut nơi chân vạt hoặc sử dụng tam giác burrow để giảm sức căng cho
vạt.

Hình 1.12. Vạt xoay vùng gan tay [38],[80]
* Vạt chong chóng dạng cơ bản (The scar band rotation flap hay The

original “propeller flap) [44],[45].
Là những vạt sẹo hình thoi (propeller flap, được mô tả bởi
Hyakosuku 1991) xoay 90o trên trục là tổ chức dưới da để đổi hướng và
làm giảm sự co kéo của vạt. Với bàn tay vạt xoay hay sử dụng vùng mu
vì tính di động của da, sử dụng ở vùng gan tay và mặt gan ngón tay ít
hơn.


20

20


Hình 1.13. Vạt chong chóng dạng cơ bản [44],[45]
1.3.3.3. Vạt đẩy:
Là các dạng vạt da được chuyển trực tiếp vào khuyết tổ chức mà không
phải huy động tổ chức 2 bên [5]:
- Tạo hình V - Y [39]: có nguyên tắc vạt đẩy với hai đường rạch da hình
chữ V tạo ra một hình vạt da có thể đẩy ngược hướng với hướng co kéo của
sẹo, tổ chức da hai bên đường rạch được đẩy vô để đóng kín nơi cho vạt. Kỹ
thuật này cho phép kéo dài đường căng, giúp giải phóng sẹo co kéo sau bỏng.

Hình 1.14. Nhiều vạt Y - V ngược chiều nhau [39]
- Vạt chữ X (X- Plasty incision): là vạt đẩy được thực hiện bằng các
đường chéo hình chữ X, giao điểm chữ X nằm trên đường sẹo, tạo thành 2

vạt chữ Y- V huy động vùng da hai bên, có thể áp dụng nhiều vạt chữ X trên
ngón.


21

21

Hình 1.15. Vạt chữ X [41].
- Vạt hình thoi (Double opposing V-Y): còn gọi là 2 vạt Y-V đối
nhau. Uzunismail mô tả năm 1994. Được dùng để kéo dài sẹo co rút, có
thể dùng dưới dạng một hoặc nhiều hình thoi [41],[42].


Hình 1.16. Vạt hình thoi [41],[42]
1.3.4. Vạt lân cận:
1.3.4.1. Vạt hình cờ (axial flag skin flap)
Vạt da hình lá cờ có cuống ở mặt mu của đáy đốt 1 và 2 ngón tay.


22

22

Vạt ứng dụng che phủ mặt gan của cùng ngón tay hoặc ngón kế bên,

tổn thương mất da mu ngón kế. Vạt da xoay được lấy từ lưng đốt 1: với
điểm xoay là gốc kẽ liên ngón lấy mạch là nhánh mu của ĐM bên ngón.
Có thể xoay 3600: che phủ tổn thương mất da ở lưng đốt 1 ngón kế cận,
mặt lòng đốt 1 cùng ngón - ngón kế, mặt lưng và gan bàn tay. Mạch
thường lấy cùng dải da để làm vững cuống.

Hình 1.17. Một vạt hình cờ [49]

Hình 1.18. Bốn vạt hình cờ [49]


23


23

1.3.4.2. Vạt chéo ngón (cross finger skin flap)[47]:
Thường dùng mặt mu che phủ khuyết gan ngón tay sau cắt bỏ sẹo.
Thường dùng cho tổn thương dính đốt 1-2 ngón út. Hạn chế khi áp dụng
cho sẹo dính các ngón khác.

Hình 1.19. Vạt chéo ngón [47]
1.3.4.3. Vạt dạng đảo (Heterodigital Artery island flap): là một vạt lân
cận có cuống mạch được chuyển đến để che phủ tổn khuyết ngón. Vạt
dạng đảo lấy da bên ngón kế cạnh có cuống mạch liền là mạch bên ngón

[50].

Hình 1.20. Một dạng vạt diều bay [50].


24

24


25


25

1.3.4.4 . Vạt vùng gan tay có sử dụng cuống mạch là mạch xuyên:
- Vạt mạch xuyên cuống liền vùng ômô út: (The ulnar digital artery
perforator flap): là vạt da cân mạch xuyên vùng ômô út xoay 180 0 che phủ
mặt gan ngón út) [51].

Hình 1.21. Vạt mạch xuyên cuống liền vùng ômô út [51],[76]
- Vạt mạch xuyên cuống liền từ vùng ô mô cái (Reverse thenar
perforator flap) là vạt da cân mạch xuyên vùng ô mô cái xoay 180 0 che
phủ mặt gan ngón út).


Hình 1.22. Vạt mạch xuyên cuống liền từ vùng ô mô cái [77]


×