Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Hiệu quả điều trị bệnh trứng cá thông thường bằng thuốc bôi Klenzit-C

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.93 MB, 94 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trứng cá (acne) là một bệnh chiếm tỉ lệ khá cao ở độ tuổi thanh
thiếu niên từ 13 đến 25 tuổi, đa số tập trung ở lứa tuổi 14-19, khởi đầu ở tuổi dậy
thì, tăng dần theo tuổi và sau 20 tuổi thì bắt đầu thuyên giảm. Có tới 80% người
trưởng thành bị bệnh trứng cá. Bệnh thường xuất hiện ở mặt, ngực, lưng, tiến triển
từng đợt, dai dẳng. Bệnh gây nên do hiện tượng tăng tiết chất bã kèm theo viêm
nhiễm ở hệ thống nang lông tuyến bã. Tính chất bệnh không nguy hiểm nhưng vị
trí tổn thương thường ở mặt nên gây trở ngại lớn về mặt thẩm mỹ, ảnh hưởng tới
tâm lý và chất lượng cuộc sống của người bệnh [1], [2], [3].
Biểu hiện lâm sàng của bệnh trứng cá rất đa dạng với nhiều dạng tổn
thương khác nhau: vi nhân trứng cá, nhân đầu trắng, nhân đầu đen, sẩn, mụn
mủ, cục, nang... Dựa vào hình thái, triệu chứng lâm sàng và tính chất của
bệnh, người ta chia bệnh trứng ra làm nhiều thể khác nhau: trứng cá thông
thường, trứng cá do thuốc, trứng cá sẹo lồi, trứng cá kê hoại tử... Trong đó
trứng cá thông thường chiếm đa số.
Có nhiều nguyên nhân và yếu tố liên quan đến bệnh trứng cá. Nguyên
nhân chủ yếu gồm 4 yếu tố: tăng sản xuất chất bã, tăng sừng hóa cổ nang lông
tuyến bã, hiện diện của vi khuẩn (đặc biệt là P.acnes) và tình trạng viêm.
Ngoài ra yếu tố gia đình, tâm lý, môi trường, vệ sinh cá nhân, cách sử dụng
thuốc và mỹ phẩm không hợp lý... cũng là tác nhân gây bệnh hoặc làm nặng
thêm tình trạng bệnh [1], [2], [4],[5], [6].
Do căn nguyên của bệnh trứng cá rất phức tạp nên có nhiều phương
pháp điều trị khác nhau. Các phương pháp đều nhằm mục đích: chống tăng
tiết chất bã, chống sừng hóa cổ nang lông và chống viêm, bao gồm: thuốc tại
chỗ, thuốc toàn thân, vật lý trị liệu, laser, ... Hiện nay, có rất nhiều loại thuốc
tại chỗ để điều trị bệnh trứng cá. Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về


2



hiệu quả điều trị của một số thuốc bôi tại chỗ như: kem con ong,
erythromycin, kem lô hội AL- 04, duac và chỉ cho kết quả nhất định [7], [8],
[9], [10].
Klenzit- C là thuốc bôi dạng gel, gồm hai thành phần chính là
clindamycin và adapalene [11]; trong đó clindamycin là một kháng sinh có tác
dụng kìm khuẩn, tác động tốt lên lên vi khuẩn P.acnes, một tác nhân quan
trọng hình thành tổn thương viêm trong bệnh trứng cá, còn adapalene khi dùng
trên da có tác dụng tiêu nhân mụn, tác động đến quá trình sừng hóa và biệt hóa
của biểu bì, kháng viêm thông qua ức chế hóa ứng động bạch cầu. Klenzit-C
được sử dụng ở Việt Nam chưa lâu, chưa có nghiên cứu nào đánh giá một cách
hệ thống tác dụng của thuốc, vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Hiệu quả điều trị bệnh trứng cá thông thường bằng thuốc bôi Klenzit-C”,
với 2 mục tiêu sau:
1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan đến bệnh
trứng cá thông thường thể trung bình tại bệnh viện Da liễu Trung
Ương từ tháng 3/2013- 8/2013.
2. Đánh giá hiệu quả điều trị bệnh trứng cá thông thường thể trung
bình bằng thuốc bôi Klenzit- C .


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẠI CƯƠNG
1.1.1. Khái niệm về bệnh trứng cá
Bệnh trứng cá là bệnh lý của nang lông tuyến bã, xuất hiện cả ở nam
và nữ hay gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Bệnh có biểu hiện lâm sàng đa
dạng với nhiều hình thái tổn thương: nhân trứng cá, sẩn, mụn mủ, cục, nang

và nhiều vị trí: trán, má, mũi, cằm, cổ, lưng, ngực. Tiến triển của bệnh thường
là lành tính , một số trường hợp có thể tự khỏi nhưng có nhiều trường hợp tiến
triển dai dẳng, từng đợt. Nếu không điều trị kịp thời, phù hợp bệnh trứng cá
có thể để lại dát thâm, sẹo lõm, sẹo lồi làm ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ và
chất lượng cuộc sống của người bệnh.
1.1.2. Sinh bệnh học bệnh trứng cá
Để hiểu rõ về sinh bệnh học bệnh trứng cá, chúng ta cần hiểu rõ về đơn
vị nang lông tuyến bã vì có liên quan mật thiết đến bệnh trứng cá.
Đặc điểm của nang lông tuyến bã:
- Nang lông: có 2 loại là nang lông tơ và nang lông dài [1], [12], [13].
+ Nang lông tơ: nằm rải rác khắp toàn bộ cơ thể (trừ lòng bàn tay, lòng
bàn chân). Nang lông tơ có kích thước nhỏ nhưng tế bào tuyến bã có kích
thước lớn hơn nhiều so với nang lông dài
+ Nang lông dài: có ở da đầu, râu, lông nách, lông mu. Những vị trí
này lông mọc toàn bộ, tuyến bã quanh nang lông không phát triển, chất bã
được bài xuất qua các ống ngắn đến nang lông, cổ nang lông rồi ra ngoài.
- Tuyến bã:
+ Giải phẫu: da có 3 loại tuyến: tuyến mồ hôi, tuyến bã và tuyến sữa.
Tuyến bã gắn vào nang lông ở những nơi có nang lông (trừ lòng bàn tay, bàn


4

chân), chúng tiết ra chất bã đổ vào nang lông nhờ có ống dẫn rồi bài xuất lên
mặt da. Tuyến bã ở niêm mạc đổ thẳng ra bề mặt niêm mạc như tuyến Tison và
hạt Fox-dyce. Tuyến bã là chùm nang chia nhánh, nang tuyến bã có đường kính
từ 0,2-2mm. Tế bào tuyến bã có 2 loại là tế bào tuyến ít biệt hóa và tế bào chế
tiết. Tế bào tuyến ít biệt hóa nằm sát màng đáy và có khả năng phân chia, chứa
nhiều ARN và các loại men esterase, phosphatase. Tế bào chế tiết nằm phía
trong có kích thước lớn, bào tương chứa nhiều hạt mỡ [12], [13], [14].

+ Sinh lý tuyến bã: Tuyến bã là tuyến toàn hủy: chất bã và tế bào
tuyến bã được đào thải toàn bộ, còn tuyến mồ hôi bé là tuyến toàn vẹn và
tuyến mồ hôi lớn là tuyến đầu hủy. Tế bào chế tiết của tuyến bã trong bào
tương chứa nhiều hạt mỡ. Các hạt mỡ dần phát triển chiếm thể tích tế bào, tế
bào mất bào quan, mất nhân trở thành hạt mỡ. Hoạt động của tuyến bã chịu
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó lớn nhất là hormon sinh dục nam, ngoài
ra còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như di truyền, kích thích. Tuyến bã
hoạt động mạnh lúc mới sinh do androgen mẹ truyền qua nhau thai, bất hoạt ở
trẻ em từ 2-6 tuổi, sau 7 tuổi thì hoạt động trở lại và phát triển mạnh ở tuổi
dậy thì sau đó thì giảm dần và giảm tiết ở độ tuổi 70 đối với nam và ở tuổi 50
đối với nữ. Hoạt động tuyến bã theo nhịp ngày đêm: tuyến bã hoạt động mạnh
và bài tiết nhiều chất bã nhất là cuối giờ sáng và đầu giờ chiều, giảm tiết chất
bã nhất là vào cuối giờ chiều tối.
+ Chất bã: là hợp chất vô khuẩn được sản xuất chủ yếu từ tuyến bã và
một phần ở thượng bì, tiết ra trên bề mặt da làm dẻo hóa màng sừng, có tác
dụng giữ độ ẩm cho da, chống nước bốc hơi khỏi da và chống nước xâm nhập
từ ngoài vào. Ngoài ra, chất bã như là lớp bảo vệ da chống lại vi khuẩn, vi
rút, nấm và chống thấm nước.


5

Thành phần chủ yếu của chất bã là acid béo dưới dạng este hỗn hợp,
bao gồm :
• Squalene (C30H50): chiếm 15%, là một hydrocacbon không bão hòa,
chỉ có ở da người với nồng độ ổn định.
• Triglyceride: chiếm 60%, là este của glycerin và các acid béo chuỗi dài.
• Cires: chiếm 25%, là những este đơn và kép của những acid béo
chuỗi dài cũng như este cholesterol được tổng hợp.
Ngoài ra còn có thêm lipid gốc thượng bì từ những sterol tự do (chủ

yếu là cholesterol tự do), sterol este hóa (chủ yếu là cholesterol este hóa).
Kết hợp Triglyceride, Cires và Cholesterol sẽ tạo thành lipid da bề mặt,
nhưng mức độ lipid da bề mặt khác nhau tùy từng vị trí cơ thể.
+ Số lượng tuyến bã:
Ở những vùng khác nhau của cơ thể có số lượng tuyến bã khác nhau. Ở
mặt, ngực, lưng 1 cm2 có từ 400- 900 tuyến bã. Ở những vùng da khác có số
lượng tuyến bã ít hơn vì vậy trứng cá hay xuất hiện ở mặt, ngực, lưng nhiều
hơn so với các vùng da khác.
Ngày nay, sinh bệnh học của trứng cá đã khá rõ và thống nhất gồm 4 yếu
tố chính là: tăng sản xuất chất bã, tăng sừng hóa cổ nang lông tuyến bã, vai
trò của vi khuẩn và tình trạng viêm [1], [2], [14].
1.1.2.1. Tăng sản xuất chất bã
Bình thường tuyến bã tiết chất bã để làm cho da, lông, tóc mềm mại,
mượt mà, luôn giữ được độ ẩm và góp phần duy trì độ pH cho da. Trong bệnh
trứng cá có sự tiết chất bã quá nhiều. Một trong những thành phần của chất bã
là triglyceride, có vai trò thúc đẩy trong sinh bệnh học bệnh. Triglyceride bị
phá hủy thành các acid béo tự do tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát
triển và lan tràn P.acnes gây nên hiện tượng viêm.


6

Sự bài tiết của chất bã có liên quan chặt chẽ với các hormon, trong đó
quan trọng là hormon sinh dục nam (androgen), đặc biệt là testosteron, ngoài ra
còn chịu tác tác động của các yếu tố khác như: di truyền, tress, thời tiết... [1],
[12], [13], [14]. Cơ quan bài tiết tiết androgen: ở nam giới là tinh hoàn, ở nữ
giới là buồng trứng và tuyến thượng thận. Testosteron sau khi được bài tiết sẽ
gắn lỏng lẻo với albumin huyết tương hoặc chặt hơn với beta globulin gọi là
globulin mang hormon sinh dục (SHBG: Sexual Hormon Binding Globulin). Ở
tuyến bã Testosteron chuyển thành DHT nhờ men 5α reductase. DHT là chất

kích thích các tuyến bã hoạt động mạnh ở người bị trứng cá gấp 20 lần so với
người bình thường.
Người ta đã nghiên cứu tính chỉ số chất bã [12], [13], [14] và xác định
rằng : trung bình người bình thường tiết ra 1,00mg chất bã/10cm 2/3giờ, vùng
bị

trứng



nặng

3,28mg/10cm2/3giờ,

vùng

trứng



vừa



3,00mg/10cm2/3giờ, trứng cá nhẹ 2,20mg/10cm2/3giờ.
Các hormon khác cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tuyến bã:
- Hormon Corticoid thượng thận gây tăng tiết chất bã vì vậy gây bệnh trứng
cá, điều trị 80mg/ngày trong 6 tuần cho thấy tăng hoạt động tuyến bã.
- Hormon thùy trước tuyến yên ACTH gây tăng trọng lượng tuyến bã,
tăng tạo lipid ở các tế bào tuyến bã.

- Vai trò của kích dục tố, kích thích tố giáp trạng trong việc làm tăng
hoạt động tuyến bã cũng đã được chứng minh.
Tóm lại: tuyến bã chịu sự điều tiết hoạt động của các hormon, đặc biệt
là hormon sinh dục nam, các hormon này làm phát triển, giãn rộng, tăng thể
tích tuyến bã, kích thích tuyến bã hoạt động mạnh dẫn tới sự bài tiết chất bã
tăng lên rất nhiều lần so với bình thường qua các cơ chế:
- Tăng hormon sinh dục nam (Testosteron, ehydroepiandosteron...)
- Tăng gắn Testosteron với các thụ thể tuyến bã


7

- Tăng hoạt động của men 5α reductase
- Lượng SHBG trong máu giảm dẫn đến lượng Testosteron tự do đi đến
tuyến bã tăng.
1.1.2.2. Tăng sừng hóa cổ nang lông tuyến bã
Cổ nang lông tuyến bã bị sừng hóa làm ống bài xuất tuyến bã bị hẹp lại
làm cho chất bã không thoát ra ngoài được nên bị ứ đọng lại trong lòng tuyến bã,
lâu ngày bị cô đặc lại hình thành nhân trứng cá (quá trình hình thành nhân trứng
cá trung bình là 30 ngày). Nếu có bội nhiễm sẽ gây viêm nhiễm, có mủ, có thể
lây sang các tuyến bã khác hình thành nên các sẩn viêm, mụn mủ, nang...
Quá trình sừng hóa cổ nang lông tuyến bã chịu tác động của một số
yếu tố: hormon androgen (testosteron), thiếu hụt acid linoleic, tăng acid béo
tự do ở tuyến bã, vấn đề vi khuẩn, yếu tố di truyền…[13], [14], [15], [16].
- Tác động của Androgen: Androgen không chỉ làm phát triển tuyến bã,
tăng tiết chất bã mà cũng góp phần quan trọng vào sừng hóa cổ nang lông
tuyến bã thông qua các thụ thể.
- Thay đổi của lipid: các thành phần lipid trên bề mặt da như squalene,
squalene peroxides, oleic acid, proxides của oleic làm tăng quá trình sừng hóa
cổ nang lông tuyến bã góp phần làm tăng nhân trứng cá. Một số nghiên cứu

cho thấy có sự thấp đáng kể nồng độ linoleic acid trên bề mặt da ở người bị
bệnh trứng cá. Strauss và cs đã nghiên cứu và cho thấy sự tăng tiết chất bã và
thiếu hụt linoleic acid tại chỗ liên quan đến sự hình thành bệnh trứng cá.
Ngoài ra với sự hiện diện của vi khuẩn tại chỗ làm phóng thích các acid béo
từ các triglycerid của chất bã, đây cũng là yếu tố hình thành nhân trứng cá.
- Vai trò của cytokin: các cytokin làm cho quá trình sừng hóa cổ nang
lông tuyến bã với nhịp độ luân chuyển tế bào tăng, tạo ra khối sừng ở cổ nang
lông làm hẹp đường thoát của các chất bã.. Nghiên cứu của Keeley và cs cho
thấy các cytokin có ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành nhân trứng cá. IL -


8

1α điều chỉnh sự sừng hóa của biểu bì và có thể liên quan đến sự sinh ra tình
trạng viêm ở nhân trứng cá.
- Giảm linoleic acid: linoleic acid là một acid béo thiết yếu trong da và
thường giảm đi trên người bị bệnh trứng cá. Mức độ thấp của linoleic acid có
thể gây tăng sinh tế bào sừng ở nang lông và sản xuất các cytokin tiền viêm.
1.1.2.3. Vai trò của vi khuẩn
Trong nang lông có Propionibacterium acne (P.acne), còn gọi là
Corynebacterium acne, một loại trực khuẩn gram (+), kị khí, phát triển tốt ở
pH từ 5-5,6 với nhiệt độ 30-37 oC. Trên cơ địa tăng tiết bã nhờn, dày sừng cổ
nang lông tuyến bã là điều kiện cho vi khuẩn kị khí phát triển. Bình thường
trong độ tuổi từ 11 đến 14 và 16 đến 20 không tìm thấy P.acne ở những
người không bị trứng cá. Ngược lại người bị trứng cá trung bình có khoảng
114.800 P.acnes/cm2. Bằng sinh hóa và huyết thanh học, loại vi khuẩn này
được phân thành hai nhóm: P. Acnes và P. Grannulosum. Vi khuẩn P.
Grannilosum gặp chủ yếu ở phần cổ lang nông với số lượng rất ít. Ngoài vi
khuẩn trên người ta còn thấy một số nấm men Pityrosporum ovale ở một số
nang tuyến bã.

Các sản phẩm được tiết ra từ P.acnes như lipase, protease,
hyaluronidase và một số hóa ứng động bạch cầu. Lipase thủy phân triglycerid
thành acid béo tự do, đây là chất kích thích khởi đầu sinh nhân trứng cá. Các hóa
ứng động bạch cầu sẽ giải phóng hydrolase thấm vào thành nang lông và làm yếu
nang lông gây viêm và vỡ cùng nhân trứng cá vào lớp trung bì.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy P.acnes gắn vào các thụ thể trên bề
mặt tế bào bạch cầu đa nhân và bạch cầu đơn nhân sẽ dẫn đến giải phóng
nhiều cytokin có khả năng gây viêm như: IL-8, IL-12, yếu tố hoại tử u (TNF).


9

1.1.2.4. Tình trạng viêm
Hình thành phản ứng viêm với sự tham gia của các yếu tố: vi khuẩn (nhất
là P.acnes), bạch cầu, enzym, các cytokin tiền viêm, TNF-α... hình thành nên các
tổn thương viêm như sẩn, mụn mủ, cục, nang. Theo Lyte P (2009): các biểu hiện
của trứng cá do P.acnes gây ra các phản ứng viêm không những khi vi khuẩn còn
sống và ngay cả khi vi khuẩn đã bị tiêu diệt, cấu trúc màng tế bào vi khuẩn chết
cũng có thể kích thích gây nên phản ứng viêm.
Tóm lại, trên một thể tạng nhất định có tăng sản xuất chất bã dưới tác động
của nhiều yếu tố (testosteron, tuổi, môi trường…), kết hợp bị sừng hóa cổ nang
lông tuyến bã làm cho chất bã bị ứ chệ trong lòng tuyến bã tạo nên nhân trứng cá
và điều kiện để các vi khuẩn trên da điển hình là P. acne phát triển phân hủy chất
bã tạo ra nhiều acid béo tự do là nguyên nhân chính gây viêm tấy thành tuyến bã
và lan tràn ra xung quanh tạo nên các sẩn viêm, mụn mủ…Những quá trình này
phối hợp với nhau tạo thành vòng xoắn bệnh lý.
Bảng 1.1. Sinh bệnh học trứng cá [6]

Vi nhân trứng cá Nhân đầu đen Sẩn viêm / mụn
- Tăng sừng hóa - Giãn rộng cổ mủ

cổ tuyến nang tuyến nang lông
- Giãn rộng đơn vị
lông.
- Kết tụ chất bã nang lông tuyến bã.
- Bắt đầu kết tụ và tế bào sừng
- Tăng sinh vi
chất bã và tế bào
khuẩn
sừng
- Viêm nang lông
1.1.3. Các yếu tố liên quan đến bệnh trứng cá

Cục/ nang
- Thành nang
vỡ
- Viêm lan tỏa
ra xung quanh


10

Bệnh trứng cá liên quan với nhiều yếu tố. Các yếu tố này có thể làm
khởi phát bệnh và cũng có thể làm bệnh nặng thêm [1], [2], [3], [17], [18],
[19], [20], [21].
- Tuổi: Bệnh trứng cá thường khởi phát ở lứa tuổi thanh thiếu niên, 90% ở
lứa tuổi 13-19, sau đó bệnh thuyên giảm dần. Đôi khi bệnh khởi phát muộn hơn ở
tuổi 20-30 , thậm chí 50-59.
- Giới: đa số tác giả đều thấy nữ bị bệnh trứng cá nhiều hơn nam nhưng
các hình thái lâm sàng biểu hiện ở nam nặng hơn so với nữ giới.
- Yếu tố gia đình: có liên quan đến bệnh trứng cá. Tác giả Andrew đã

có nhận xét là yếu tố di truyền đã được khẳng định trong vai trò sinh bệnh học
trứng cá.Theo Goudlen cứ 10 người bị bệnh trứng cá thì 5 người có tiền sử
gia đình. Theo Phạm Văn Hiển, nếu bố mẹ bị bệnh trứng cá thì 45% con trai
của họ bị trứng cá ở tuổi đi học [2].
- Yếu tố nghề nghiệp: tiếp xúc dầu mỡ, tiếp xúc với ánh nắng nhiều…
làm tăng khả năng bị bệnh [2], [18]
- Yếu tố thời tiết: liên quan đến bệnh với khí hậu nóng ẩm, hanh khô.
- Yếu tố chủng tộc: người da vàng và da trắng bị bệnh trứng cá nhiều
hơn người da đen [17].
- Yếu tố thức ăn: thức ăn ngọt (socola, đường, bơ...), đồ uống có tính
chất kích thích (rượu, bia, cafe...) có liên quan đến bệnh [2], [18].
- Yếu tố nội tiết: những người bị bệnh nội tiết như cường giáp,
Cushing, buồng trứng đa nang... thì hay bị bệnh trứng cá [2], [3].
- Yếu tố thần kinh: khi lo lắng, căng thẳng... thì làm trứng cá nặng lên [21].
- Yếu tố thuốc: nhiều thuốc làm nặng thêm bệnh trứng cá như: corticoid,
isoniazid, nhóm hologen (bromidem, iod...), lithium, hydantoni...[2], [20].
- Một số nguyên nhân tại chỗ: vệ sinh da mặt, chà xát, nặn bóp không
đúng phương pháp…


11

1.1.4. Các thể bệnh trứng cá
Dựa vào triệu trứng lâm sàng và tính chất bệnh người ta chia thành các
loại trứng cá sau [3], [5], [6], [17], [24], [25], [28].
1.1.4.1. Trứng cá thông thường (acne vulgaris)
Là dạng bệnh hay gặp nhất, thường gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Vị
trí tổn thương thường gặp ở vùng da mỡ như: mặt, vai, ngực, lưng. Tổn
thương đa dạng với nhân đầu trắng, nhân đầu đen, sẩn, mụn mủ, cục, nang,
đôi khi gặp áp xe. Các dạng thương tổn này không thường xuyên xuất hiện và

kết hợp trên cùng một bệnh nhân. [3], [5], [24].
1.1.4.2.Trứng cá nghề nghiệp (occupational acne)
Do tiếp xúc với các chất như dầu, hắc ín, bụi than... trong nhiều năm
như công nhân thợ mỏ, công nhân làm trong các nhà may. Biểu hiện lâm sàng
là nhân trứng cá, sẩn, mụn mủ [5], [6].
1.1.4.3.Trứng cá do thuốc (acne iatrogenic)
Nhiều thuốc có thể gây bệnh trứng cá hay làm phát ban trứng cá như
hormon androgen làm tăng hoạt động và làm phì đại tuyến bã, corticoid tại
chỗ hay toàn thân, thuốc chống lao, thuốc chống động kinh, thuốc ức chế
miễn dịch... Các dạng tổn thương: nhân trứng cá, sẩn, mụn mủ. Sau khi ngừng
sử dụng thuốc thì bệnh sẽ dần thuyên giảm [6], [17].
1.1.4.4. Trứng cá kê hoại tử (acne necrotica miliaris)
Biểu hiện khởi đầu với sẩn nang lông màu đỏ, có thể ngứa, bờ viêm đỏ
sau đó hóa mủ nhanh, khô lại để lại vảy tiết màu vàng nâu bám chắc, bên dưới
là ổ loét nhỏ, khi khỏi để lại sẹo. Vị trí hay gặp là trán, thái dương, rìa chân
tóc. Hay gặp ở nam giới.


12

1.1.4.5. Trứng cá mạch lươn (acne conglobata)
Một dạng trứng cá nặng, hay gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên và trưởng
thành, chủ yếu ở nam. Đây là dạng trứng cá có nhiều loại tổn thương phối
hợp: nhân trứng cá, sẩn, mụn mủ, áp xe và sẹo. Vị trí tổn thương có thể thấy ở
mặt, cổ, vai, ngực, lưng, mông, đùi. Các tổn thương viêm căng, lan rộng kèm
mủ nông, sâu tạo thành các đường dò, cầu da. Bệnh tiến triển dai dẳng.
Nguyên nhân tiên phát của bệnh trứng cá mạch lươn thì chưa rõ. Khiếm
khuyết nhiễm sắc thể karyotype XXY có thể đáp ứng gây các dạng nặng của
bệnh. Chưa có bằng chứng có mối liên quan giữa bệnh trứng cá bọc với HLA;
các bệnh nhân có bệnh trứng cá bọc và viêm tuyến mồ hôi hóa mủ trên một

nghiên cứu thấy tất cả đều có HLA-DRw4, một số ít có các kháng nguyên
chéo HLA-B7. Bên cạnh đó có các nguyên nhân khác: biến đổi phản ứng từ
P.acne, tiếp xúc với các hydrocarbon có nhân halogen thơm, dùng các steroid,
phản ứng với các thuốc khác.
Điều trị rất là khó, dùng liều cao kháng sinh, isotretinoin uống, tiêm
corticoid trong tổn thương hay dùng đường toàn thân, đôi khi phải phẫu thuật.
1.1.4.6. Trứng cá tối cấp (acne fulminans)
Hay còn gọi là trứng cá sốt loét và sốt cấp tính, là dạng nặng nhất kèm
theo triệu chứng toàn thân. Lâm sàng biểu hiện với sự xuất hiện đột ngột các
tổn thương viêm, căng, rỉ dịch ở ngực, lưng, ít khi biểu hiện ở mặt. Các tổn
thương nhanh chóng vỡ để lại vết loét, đóng vảy tiết, khi lành để lại sẹo. Các
triệu chứng khác kết hợp: sốt, tăng bạch cầu nhất là bạch cầu đa nhân trung
tính, đau cơ, đau khớp, gan lách to, thiếu máu.
Là bệnh lý hệ thống do cơ chế miễn dịch với khơi mào từ kháng
nguyên của P.acnes. Sự gia tăng cấp độ testosterone trong máu giữ vai trò
thúc đẩy quan trọng trong sinh bệnh học bệnh trứng cá ác tính
Điều trị bằng liệu pháp corticoid, kháng sinh liều cao, isotretinoin.


13

1.1.4.7. Trứng cá cơ học (acne mechanica)
Phát ban dạng trứng cá có thể xuất hiện sau những chấn thương vật lý lặp
lại đối với da, ví dụ như sự cọ xát khi mang dây đai hay mũ thể thao hay băng
kín da. Tắc nghẽn tuyến bã nhờn làm hình thành nên các nhân trứng cá. Hay các
yếu tố bên ngoài tác động làm nặng thêm tình trạng trứng cá có từ trước.
1.1.4.8.Trứng cá sẹo lồi (acne keloidalis)
Lần đầu tiên được Hebra mô tả năm 1860 với cái tên “viêm nang lông
sâu dạng ghẻ cóc”. Tên gọi “trứng cá sẹo lồi” được Bazin gọi năm 1872 và
được dùng cho đến ngày nay trong chuyên khoa da. Trứng cá sẹo lồi thường

gặp ở nam giới, tổn thương thương khu trú ở vùng gáy, rìa chân tóc.
Trứng cá sẹo lồi là một dạng của viêm nang lông mạn tính mà bệnh
cảnh là các sẩn, mụn mủ trên nền nang lông, dẫn đến các tổn thương sẹo lồi.
Nguyên nhân sinh bệnh chưa rõ, tuy nhiên một điều được thừa nhận là
kích thích mạn tính, sợi lông cong có thể là điều kiện thuận lợi hình thành bệnh.
Bệnh thường xảy ra ở nam với tỉ lệ nam/nữ: 20/1, độ tuổi 14-25, thường ở người
da màu. Ở các vùng tổn thương, thấy tóc bị gãy, mọc thành chùm hay rụng.
Các thương tổn sớm là các sẩn nang lông hình vòm, mụn mủ ít gặp,
theo thời gian sẩn và mụn mủ hợp lại tạo mảng hay dải, lâu ngày tạo sẹo lồi.
Vị trí tổn thương thường khu trú ở gáy, rìa chân tóc.
1.1.4.9. Trứng cá trước tuổi thiếu niên
Thể này được chia làm 3 loại [3], [5], [17]:
Trứng cá sơ sinh (neonatal acne): có thể gặp với tỉ lệ lên đến 20% trẻ
mới sinh, bé trai hay bị hơn bé gái, các tổn thương là các sẩn viêm nhỏ, không
có nhân trứng cá, xuất hiện khoảng 2 tuần sau đẻ và thường biến mất sau 3
tháng không để lại dấu vết gì.


14

Trứng cá trẻ nhỏ (infantile acne): xuất hiện từ tháng thứ 3 sau sinh với
tổn thương là nhân trứng cá, sẩn, mụn mủ ở trên mặt. Nguyên nhân có thể là
sự tăng nhất thời DHEA của tuyến thượng thận chưa trưởng thành, thêm vào
đó từ 6-12 tháng tuổi có thể có sự tăng cấp độ LH làm tăng hocmon kích thích
testosteron. Dạng trứng cá này tự thuyên giảm sau 1 đến 2 năm.
Trứng cá tuổi thiếu niên (childhood acne): nguyên nhân từ trứng cá trẻ
nhỏ dai dẳng kéo dài. Yếu tố gia đình đóng vai trò quan trọng.
1.1.4.10. Trứng cá ở người trưởng thành (adult acne)
Bệnh trứng cá ở người trưởng thành là bệnh ở những người trên 25 tuổi. Tên
gọi khác là bệnh trứng cá kéo dài hay bệnh trứng cá khởi phát muộn [5], [17].

Nguyên nhân vẫn chưa được xác định rõ, một số yếu tố được đưa ra để
giải thích sự xuất hiện là:
+ Nội tiết tố: androgen, estrogen, yếu tố tăng trưởng...
+ Mỹ phẩm: lanolin và các dẫn xuất
+ Thuốc ngừa thai: đường uống, thành phần có chứa androgen
+ Vi khuẩn kháng thuốc: nồng độ kháng thể với P.acnes cao ở người bị
bệnh trứng cá nhưng không song hành với biểu hiện bệnh.
+ Các yếu tố khác: gia đình, tiếp xúc ánh sáng...
Thương tổn cơ bản: tổn thương viêm (sẩn, mụn mủ, cục) chiếm ưu thế,
nhân trứng cá ít. Vị trí phân bố thường ở má, cằm, quanh miệng. Đây là dạng
trứng cá dai dẳng và kém đáp ứng điều trị.
1.1.4.11. Các lọai hình trứng cá khác
Trứng cá trước chu kỳ kinh nguyệt: thường xuất hiện trước khi có kinh
khoảng một tuần, tổn thương là những sẩn mủ, số lượng từ 5- 10 tổn thương.


15

Thường là do Luteinizing hoormone (LH) ở đỉnh cao kích thích tổ chức đệm
của buồng trứng tiết androgen .
Trứng cá nhân loạn sừng gia đình [5]: là do rối loạn di truyền trội với
đặc điểm có nhiều nhân ở mặt, thân mình, các chi, có thể có sẩn đỏ, mụn
nước, khi khỏi để lại sẹo sâu, có khi xuất hiện đến tuổi 40. Mô bệnh học thấy
tiêu gai và tế bào loạn sừng trong thành của các lỗ chân lông.
Trứng cá vùng nhiệt đới: loại trứng cá này có tổn thương nang lớn đa
dạng ở vùng ngực, lưng, mông. Bệnh thường xuất hiện ở vùng nhiệt đới khi
thời tiết nóng ẩm.
Trứng cá do mỹ phẩm [17]: thường gặp ở phụ nữ tuổi 15- 30, do sử
dụng mỹ phẩm không đúng cách hoặc thường có thói quen dụng nhiều các
loại kem bôi mặt, dầu làm ẩm da, kem chống nắng. Tổn thương đồng đều,

đứng sát nhau.
1.2. BỆNH TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG
Là thể bệnh trứng cá hay gặp nhất, thường xuất hiện ở tuổi thanh thiếu
niên. Tiến triển của bệnh thường giảm thậm chí khỏi hẳn sau tuổi 25- 30.
Nhưng trên thực tế, dưới tác động của các yếu tố như: thuốc bôi, thuốc uống,
thức ăn, yếu tố cơ học, những vấn đề về tâm lý đã làm bệnh tiến triển dai
dẳng kéo dài và chuyển sang các thể nặng khác. Tổn thương lâm sàng của
bệnh rất đa dạng như nhân trứng cá, sẩn đỏ , mụn mủ, cục, nang, có thể là áp
xe nông, sâu… Dựa trên lâm sàng người ta chia tổn thương cơ bản của trứng
cá thông thường ra làm 2 loai:
1.2.1. Các thương tổn không viêm
- Vi nhân trứng cá: là các nhân trứng cá rất nhỏ, bắt đầu mới hình
thành, rất khó phát hiện trên lâm sàng, chủ yếu là nhờ sinh thiết [5].


16

- Nhân kín hay nhân đầu trắng: do chất bã và lá sừng tích tụ, kích
thước nhỏ có màu trắng hay hồng nhạt, hơi gồ cao và không có lỗ mở trên
mặt da. Tổn thương này có thể tự thoát ra tự nhiên, ít gây tổn thương trầm
trọng hoặc chuyển thành nhân đầu đen [2], [5], [6], [28].
- Nhân mở hay nhân đầu đen: tổn thương do kén bã (chất lipit) kết
hợp với những lá sừng của thành nang lông bám chặt vào nang lông làm gồ
cao trên mặt da và làm nang lông giãn rộng. Đầu nhân trứng cá có màu
đen là do hiện tượng oxy hóa chất keratin. Loại nhân trứng cá này có thể
thoát ra tự nhiên, ít gây tổn thương trầm trọng, tuy nhiên có thể bị viêm
và thành mụn mủ trong vài tuần. Trích nặn sẽ lấy được nhân có dạng sợi
miến màu trắng ngà [2], [5], [6], [32].
1.2.2. Các thương tổn viêm
Tùy thuộc vào tình trạng viêm mà có các biểu hiện khác nhau [2], [5],

[6], [28], [29], [32].
- Sẩn: các nang lông bị dãn rộng và vít chặt lại, vùng kế cận tuyến bã
xuất hiện phản ứng viêm nhẹ, đường kính nhỏ hơn 5 mm, nhô cao, màu đỏ,
mềm, hơi đau. Tổn thương có thể tự khỏi hay tiến triển thành mụn mủ.
- Mụn mủ: là sẩn chứa mủ. Mụn mủ có thể vỡ, khô sau đó xẹp và biến
mất, đôi khi để lại sẹo.
- Cục: hiện tượng viêm nhiễm có thể xuống sâu hơn, tổn thương viêm
có thể đến trung bì sâu, đường kính thường nhỏ hơn 1 cm, thường đau và tăng
lên khi sờ.
- Nang: tập hợp nhiều cục, 2-3 cục, sưng lên, quá trình viêm đã hóa
mủ chứa dịch vàng lẫn máu, kích thước thường lớn hơn 1 cm, sờ thấy lùng
nhùng. Tiến triển thường để lại sẹo.
Các tổn thương thuyên giảm để lại các dát đỏ, dát thâm sau đó da trở về
bình thường. Nếu tổn thương viêm nhiễm sâu, hóa mủ sẽ để lại sẹo, có thể là
sẹo lõm, sẹo quá phát hay sẹo lồi. Đây là các tổn thương thứ phát.


17

Ngoài các tổn thương trên thì ở bệnh nhân bị trứng cá có hiện tượng
tăng tiết bã làm da bóng, nhờn, các lỗ chân lông dãn rộng....
1.2.3. Vị trí thương tổn
Vị trí các thương tổn thường biểu hiện ở mặt, vai, ngực và lưng.
1.3. PHÂN LOẠI MỨC ĐỘ BỆNH TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG
Có nhiều cách phân loại:
1.3.1. Phân loại theo giáo trình Học Viện Quân Y (2001) [28]
- Mức độ nhẹ: dưới 50 nhân trứng cá, sẩn
- Mức độ vừa: 50-100 nhân trứng cá, sẩn
- Mức độ nặng: 100-200 nhân trứng cá, sẩn
1.3.2. Phân loại theo Cunliffe và cs (2003) [30]

- Mức độ nhẹ: phần lớn là các nhân trứng cá, số lượng sẩn và mụn mủ
ít nhỏ hơn 10.
- Mức độ trung bình: sẩn và mụn mủ có số lượng từ 10-40. Nhân trứng
cá cũng có từ 10-40. Một số ít ở thân mình.
- Mức độ nặng: sẩn và mụn mủ từ 40-100 kết hợp với nhiều nhân trứng
cá 40-100, thường có trên 5 thương tổn nốt viêm sâu, rộng. Bệnh biểu hiện ở
nhiều vị trí, nhưng thường ở mặt, ngực, lưng.
- Mức độ rất nặng: mụn trứng cá nốt, nang và mụn trứng cá cụm với
thương tổn nặng: nhiều thương tổn nốt/mụn mủ rộng, đau cùng với nhiều sẩn
nhỏ, mụn mủ, nhân trứng cá.
1.3.3. Phân loại theo Hayashi và cs (2008) [31]
Dùng ảnh chụp và đếm thương tổn trên nửa khuôn mặt.
- Mức độ nhẹ:

0-5 thương tổn

- Mức độ vừa:

6-20 thương tổn

- Mức độ nặng:

21-50 thương tổn

- Mức độ rất nặng: >50 thương tổn


18

1.3.4. Phân loại theo Karen McCoy 2008 [32]

- Mức độ nhẹ:

+ <20 thương tổn không viêm, hoặc:
+ <15 thương tổn viêm, hoặc:
+ Tổng số thương tổn <30

- Mức độ trung bình:

+ 20-100 thương tổn không viêm, hoặc:
+ 15-50 thương tổn viêm, hoặc:
+ Tổng số thương tổn 30-125.

- Mức độ nặng:

+ >5 nốt/cục, hoặc:
+ >100 thương tổn không viêm, hoặc:
+ >50 thương tổn viêm, hoặc:
+ Tổng số thương tổn >125.

1.4. ĐIỀU TRỊ BỆNH TRỨNG CÁ THÔNG THƯỜNG
Bệnh trứng cá phát sinh do nhiều nguyên nhân và chịu nhiều yếu tố tác
động, do vậy khi điều trị phải quan tâm chú ý đến các vấn đề này để điều trị
có hiệu quả. Bốn nguyên tắc chính khi điều trị là [2], [5], [38], [39], [40]:
- Điều chỉnh những thay đổi về sừng hóa nang lông
- Giảm hoạt động tiết bã
- Giảm sự phát triển của vi khuẩn, đặc biệt là P.acnes, ức chế sự sản
xuất các sản phẩm viêm nhiễm ngoại bào (trực tiếp hoặc gián tiếp) thông qua
việc ức chế sự phát triển của vi khuẩn.
- Chống viêm
1.4.1. Điều trị tại chỗ [2], [5], [39], [40].

1.4.1.1. Retinoids
Hoạt hóa và ức chế quá trình sao chép gen, làm thay đổi các yếu tố có
liên quan đến sự tăng sinh, tình trạng viêm, sản xuất bã nhờn, giảm sự kết tụ
chất bã và giảm hình thành nhân trứng cá. Do đó, thuốc có tác dụng giảm và


19

phòng ngừa sự tắc nghẽn của nang lông, giải quyết nhân trứng cá và tổn
thương viêm. Các chất dùng trong điều trị:
- Tretinoine: làm tiêu nhân mụn và ngăn ngừa hình thành nhân trứng
cá. Thời gian tác dụng trong vòng 3 tháng cho kết quả đáng kể. Tác dụng phụ
có thể gặp là: khô da, kích thích da, tróc vảy, tăng mụn trứng cá tạm thời
trong vòng 2-3 tuần đầu điều trị. Thuốc được thoa vào buổi tối. Kết quả rõ
nhất sau 6 tuần điều trị.
- Adapalene: là một retinoid thế hệ mới, có tính ổn định với ánh sáng và
oxygen nên không bị phân hủy bởi 2 tác nhân này, nên có thể thoa thuốc vào
ban ngày. Thuốc thấm vào tuyến bã nhờn và tác động tại tổn thương. Tính kết
hợp với cá thụ thể chuyên biệt trong tế bào sừng nên giúp adapalene ít tác
dụng phụ. Ngoài ra thuốc cũng có tác dụng kháng viêm và ít gây kích thích
hơn các tretinoin khác.
- Tazarotene: Được sử dụng nhiều trong điều trị vảy nến. Gần đây, có
một số nghiên cứu thấy tazarotene có khả năng làm giảm tổn thương sẩn và
nhân trứng cá mở hơn tretinoin.
1.4.1.2. Benzoyl peroxide
Có hiệu quả tốt trong điều trị bệnh trứng cá thông thường. Thuốc có các
dạng kem, gel, bánh có nồng độ 2,5-10%.
Liều lượng nên điều chỉnh theo dấu hiệu lâm sàng, đáp ứng điều trị và
dung nạp của mỗi người
1.4.1.3. Kháng sinh

- Clindamycin
Thuốc thuốc họ lincosamide, tác động kháng khuẩn mạnh lên P.acnes
và tụ cầu. Tác dụng kìm khuẩn ở nồng độ thấp và diệt khuẩn ở nồng độ cao,
tốt trong điều trị trứng cá.


20

- Erythromycin
Đây là thuốc thuộc họ macrolid, được bào chế dưới dạng dung dịch hay
dạng gel bôi tại chỗ với nồng độ 2-4% trong điều trị bệnh trứng cá.
- Metronidazole
Đây là thuốc cũng hữu ích trong điều trị trứng cá nhất là trứng cá đỏ.
1.4.1.4. Azelaic acid (C9-dicarbonic acid)
Thuốc có tác dụng làm giảm số lượng nhân trứng cá, giảm phát triển
P.acnes trên bề mặt da và trong ống dẫn của nang lông tuyến bã, giảm viêm.
Thuốc có ít tác dụng phụ và ít có sự đề kháng. Azelaic acid 20% có hiệu quả
trong trứng cá có tổn thương sẩn, mụn mủ.
1.4.1.5. Salicylic acid
Salicylic acid (1-3%) có tác dụng sát khuẩn nhẹ và bong lớp sừng biểu
bì trong nang lông và phần phễu.
1.4.2. Điều trị toàn thân
1.4.2.1. Kháng sinh
Kháng sinh đường uống là điều trị căn bản trong bệnh trứng cá. Có nhiều
loại kháng sinh tác động lên P.acnes [2], [5], [39], [40], [41], [42], [43], [44].
- Tetracyclin
+Liều giảm dần: 1,5g/ngày trong 8 ngày; 0,5g/ngày trong 1 tháng;
0,25g/ngày trong các tháng tiếp theo.
+Liều không đổi: 1g/ngày chia làm 2 lần, uống trước bữa ăn 30-60 phút
- Minocyclin

+ Liều dùng: 100mg/ngày
+ Thuốc hấp thu tốt hơn tetracyclin.
- Doxycyclin
+ Họ kháng sinh: họ cyclin


21

+ Tác dụng:
 Kháng sinh phổ rộng với vi khuẩn hiếu khí, kị khí gram (+) và gram (-)
Tác dụng kìm khuẩn: thuốc ức chế vi khuẩn tổng hợp protein do gắn
vào tiểu đơn vị 30S và có thể gắn vào 50S đối với vi khuẩn nhạy cảm và cũng
có thể thay đổi màng bào tương.
- Liều lượng: trong bệnh trứng cá thông thường dùng liều 100mg/ngày.
- Erythromycin
+ Liều dùng: 1-1,5g/ngày
+ Tỉ lệ kháng thuốc của P.acnes là 60%
+ Tác dụng phụ thường gặp là rối loạn tiêu hóa
- Azithromycin
+ Là một kháng sinh bán tổng hợp loại azalide, một phân nhóm của
macrolied.
+ Tác dụng: Azithromycin tác động bằng cách gắn kết vào tiểu đơn vị
50s của ribosom và qua đó ức chế sự tổng hợp protein của vi khuẩn.
Azithromycin có phổ kháng khuẩn rộng và sau uống nồng độ đạt đỉnh trong
huyết tương sau 2-3h. Thức ăn làm giảm sự hấp thu của thuốc do đó không
nên dùng azithromycin cùng với thức ăn.
+ Chỉ định:
Azithromycin được chỉ định trong các nhiễm khuẩn do vi khuẩn nhạy
cảm trong:
Nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới

Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên
Nhiễm khuẩn da và mô mềm
Các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục không do lậu
Nhiễm Chlamydia Trachomatis không biến chứng ở đường sinh dục
+Tác dụng không mong muốn:


22

Rối loạn tiêu hóa: nôn, buồn nôn, đau bụng, tiêu chảy.
Toàn thân: mệt mỏi, đau đầu, chóng mặt, ngủ gà.
Da: phát ban, ngứa
+ Liều dùng và cách dùng:
Azithromycin dùng 1 lần mỗi ngày, uống 1 giờ trước bữa ăn hoặc 2 giờ
sau khi ăn.
- Nhiễm khuẩn đường hô hấp trên và dưới, nhiễm khuẩn da và mô mềm:
Dùng liều duy nhất 2 viên trong ngày đầu tiên; 4 ngày sau: mỗi ngày 1 viên.
- Bệnh lây truyền qua đường sinh dục: liều duy nhất 4 viên
+ Liều dùng 500mg x 3 lần/tuần. Hiệu quả tốt, tác dụng phụ là rối loạn
tiêu hóa
- Clindamycin
+ Liều dùng: 300-600mg/ngày
+ Tác dụng phụ: Nguy cơ gây viêm đại tràng giả mạc.
- Trimethoprim-Sulfamethoxazol
+ Liều dùng 960mg x 2 lần/ngày
+ Dùng trong trường hợp trứng cá nặng, không đáp ứng với các kháng
sinh khác. Đây là thuốc thường gây dị ứng thuốc.
1.4.2.2. Nội tiết tố
Điều trị bằng hormon là nhằm ức chế cạnh tranh với androgen tại tuyến
bã, dùng điều trị thích hợp trong những trường hợp bệnh nhân nữ bị bệnh

trứng cá, không đáp ứng với điều trị thông thường.
- Estrogen: giảm sản xuất chất bã, dùng ở phụ nữ tăng tiết bã nhiều.
- Thuốc ngừa thai đường uống: chứa estrogen (thường là ethinyl
estradiol) và progestin.
- Spironolacton: là một chất đối kháng androgen thông qua cơ chế ức chế
thụ thể androgen khi dùng liều cao, có hiệu quả trong điều trị bệnh trứng cá.


23

- Cyproterone acetate: có tác dụng của progesteron trong viên ngừa thai
(kết hợp với ethinyl estradiol), vừa gây tác dụng ức chế trực tiếp thụ thể
androgen. Thuốc thường được kết hợp với ethinyl estradiol trong viên thuốc
Diane 35 [44], [45].
1.4.2.3. Isotretinoin (13-cis-retinoid acid)
- Cơ chế: isotretinoin là một dẫn xuất của vitamin A, có tác dụng là
giảm kích thước tuyến bã, giảm tốc độ tiết bã, bình thường hóa tăng sừng cổ
nang lông tuyến bã nên làm giảm quá trình hình thành nhân trứng cá. Ức chế
P.acnes sau 4-8 tuần điều trị. Tác dụng của thuốc được duy trì trong quá trình
điều trị và còn duy trì vài tháng sau đó. Thuốc còn có tác dụng kháng viêm
qua ức chế hóa hướng động bạch cầu đa nhân trung tính và điều hòa các yếu
tố sao mã.
- Chỉ định: bệnh trứng cá nặng, bệnh trứng cá không đáp ứng với điều
trị bằng đường uống và tại chỗ thông thường, các biến thể bất thường như cơn
bộc phát trứng cá, trứng cả đỏ nặng...
- Liều lượng: 0,5-2mg/kg/ngày trong khoảng hơn 20 tuần trong giai
đoạn tấn công sau đó duy trì 0,2-0,3mg/kg/ngày.
- Tác dụng không mong muốn thường gặp: khô da, đỏ da, viêm môi,
khô miệng, khô mắt, viêm da nhất là mặt gấp bàn tay và cẳng tay.Ít gặp hơn là
chín mé, cốt hóa sớm đầu xương, dị dạng thai nhi, mệt mỏi, đau cơ và khớp,

chậm lành vết thương da và mô mềm, nám da nhất là ở phụ nữ... [2], [5].
1.4.3. Điều trị bằng ánh sáng, laser
1.4.3.1. Ánh sáng hữu hình quang phổ hẹp
- Ánh sáng xanh: P.acnes là mục tiêu trong điều trị bằng ánh sáng.
- Ánh sáng đỏ: bước sóng 632-660nm làm giảm P.acnes, tăng hoạt
động đại thực bào, xâm nhập vào biểu bì sâu hơn.


24

1.4.3.2. Ánh sáng hữu hình quang phổ rộng
- IPL: Cơ chế hoạt động là sự ly giải bằng nhiệt một cách chọn lọc ở mô
đích.
- Quang đông trị liệu: sử dụng qua đường bôi, đường uống hay tĩnh
mạch các chất nhạy cảm ánh sáng để tạo ra phản ứng thông qua các gốc tự do.
1.4.3.3. Lasers
- Laser KPT (potassium-tianyl-phosphate): có bước sóng 532nm có
hiệu quả trong điều trị trứng cá.
- PDL (pulse dye laser): một loại laser màu xung có bước sóng 585nm
hoặc 595nm có tác dụng mạnh trong điều trị trứng cá thông qua cơ chế hoạt
hóa protoporphyrin của vi trùng và sinh ra sự ly giải quang nhiệt chọn lọc ở
các mạch máu giãn nở trong tổn thương viêm .
- Laser Diode có bước sóng 1450nm. Theo nghiên cứu của Laubach
H.J (2009) cho thấy laser này mang lại hiệu quả trong điều trị trứng cá thông
thường .
1.5. THUỐC BÔI KLENZIT- C
1.5.1. Đặc điểm
- Hoạt chất chính: Adapalene + clindamycin phosphate 1%.
- Dạng bào chế: gel dùng ngoài da, typ 15g
- Hãng bào chế: Glenmark, Ltd- Ấn Độ.

- Cấu trúc hóa học: - Adapalene: C28H28O3
- Clindamycin phosphate: C18H34ClN2O8PS


25

Adapalene

Clindamycin phosphate

- Đặc tính
+ Clindamycin là kháng sinh thuộc họ lincosamide. Tác dụng của nó là
kết nối với tiểu đơn vị 50S của ribosom nên ngăn cản tổng hợp protein của vi
khuẩn, tác động mạnh lên P.acnes và tụ cầu.
+ Adapalene: Là retinoid thế hệ thứ 3, đã được Cục quản lý dược và
thực phẩm Mỹ (FDA) phê duyệt cho phép sử dụng trong điều trị mụn trứng cá
vào năm 1996. Adapalene có tác dụng giảm kích thước tuyến bã, giảm tiết
chất bã, giảm sừng hóa cổ nang lông do đó làm giảm quá trình hình thành
nhân trứng cá. Adapalene không liên kết với các protein acid retinoic
cytosolic ràng buộc mà bám vào thụ thể acid retinoic hạt nhân (RAR), nên ức
chế các keratinocytes mạnh hơn các tretinoin khác [51], [52]. Cấu trúc hóa
học ổn định giúp adapalene có tính ổn định với ánh sáng và oxygen nên
không bị phân hủy bởi hai tác nhân này [55]. Adapalene còn làm tăng hiệu
quả điều trị tại chỗ của clindamycin [55]. Sự hấp thu qua da của adapalene
thấp chủ yếu có tác dụng tại chỗ, ít gây ảnh hưởng đến toàn thân.
- Tác dụng không mong muốn
+ Phản ứng tại chỗ: đỏ da, rát, khô da, bong vảy da.
+ Nhạy cảm ánh sáng.
+ Viêm đại tràng: đau bụng, tiêu chảy kèm nhầy, máu…



×