Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Nghiệp vụ bao thanh toán và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.19 KB, 139 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
*****
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ thương
mại lâu đời nhất trên thế giới. Với một bề dày lịch sử phát triển hàng trăm
năm, bao thanh toán đang là một phương thức không thể thiếu trong hoạt
động thương mại trong nước và đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động
thương mại quốc tế phát triển. Khi thế đàm phán trong thương mại nghiêng
về phía người mua; người bán buộc phải nhượng bộ. Việc người bán cấp tín
dụng cho người mua trở thành một trong những điều khoản bắt buộc trong
nhiều thoả ước kinh tế. Trên thực tế, người bán lại rất cần vốn để tiếp tục
sản xuất, kinh doanh, đặc biệt đối với người bán là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Phương thức bao thanh toán ra đời đáp ứng phần nào nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp, đồng thời đem lại nguồn thu không nhỏ cho các công ty
bao thanh toán. Như vậy, bao thanh toán thực chất là việc tổ chức tín dụng
hay công ty bao thanh toán đứng ra tạm ứng cho người bán để người bán
tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh thông qua việc mua lại và quản lý
những khoản phải thu của người bán. Bao thanh toán đến với Việt Nam hơi
muộn nhưng bao thanh toán đang là một kênh cấp tín dụng được các ngân
hàng thương mại và các tổ chức tín dụng hết sức quan tâm.
Việt Nam đang trên con đường chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Điều này đặt các ngân hàng thương
mại Việt Nam đứng trước những thách thức lớn; đó là bị “thua thiệt ngay
trên sân nhà” nếu không có những bước đột phá trong cung cấp dịch vụ
ngân hàng mới như bao thanh toán hay bảo hiểm tín dụng…. Có thể thấy,
đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, giữ được vị thế cạnh tranh khi mà các
ngân hàng nước ngoài trong tương lai sẽ tham gia vào thị trường tài chính
1
Việt Nam với quy mô ngày càng rộng và sâu đang trở thành một vấn đề
“sống còn”. Việc phát triển loại hình tài trợ thương mại trong đó có dịch vụ
bao thanh toán là hoàn toàn phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.


Do đó, đề tài nghiên cứu về “Nghiệp vụ bao thanh toán và triển vọng áp
dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, theo tác giả, mang giá trị
thực tiễn cao.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu về nghiệp vụ bao thanh toán, hệ thống hoá những lý luận
về nghiệp vụ bao thanh toán tại các tổ chức tín dụng; trên cơ sở đó đánh giá
về thực trạng và triển vọng áp dụng tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam.
- Đề xuất một số giải pháp hạn chế rủi ro đối với các ngân hàng thương
mại Việt Nam khi triển khai bao thanh toán
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Nghiệp vụ bao thanh toán của các tổ chức tài chính trên thế giới và đi
sâu vào nghiệp vụ này ở một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam như chi nhánh Ngân hàng Far East National Bank (FENB-Mỹ), Ngân
hàng Citibank;
- Nghiên cứu về những cơ hội và thách thức của các Ngân hàng
thương mại Việt Nam khi áp dụng dịch vụ này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phân tích + So sánh
+ Thống kê + Điều tra chọn mẫu
+ Tổng hợp + Các bảng số liệu
5. Những đóng góp khoa học của luận văn:
- Nghiên cứu về nghiệp vụ bao thanh toán, hệ thống hoá những lý luận
về nghiệp vụ bao thanh toán tại các tổ chức tín dụng
2
- Đánh giá thực trạng và triển vọng nghiệp vụ bao thanh toán ở các
NHTM Việt Nam
- Đề xuất một số giải pháp đối với các NHTM Việt Nam trong phát
triển nghiệp vụ bao thanh toán
6. Kết cấu của luận văn:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu làm ba chương, cụ thể như sau:
Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ bao thanh toán (factoring) của các tổ
chức tín dụng
Chương II: Thực trạng và triển vọng của nghiệp vụ bao thanh toán tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bao thanh toán tại
các Ngân hàng thương mại Việt Nam
3
CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN (FACTORING)
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Ngày nay khi tốc độ lưu thông tiền tệ đang được thúc đẩy, nhu cầu về
vốn đối với hầu hết các doanh nghiệp đang trở thành một vấn đề khó khăn
đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do việc tiếp cận với nguồn
vốn cho vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác không đơn giản. Với
nhiều quốc gia trên thế giới bao thanh toán thực sự là một phương thức tài
trợ thương mại đem lại nguồn lợi to lớn không chỉ cho các nhà bao thanh
toán mà còn đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động
này với các tính năng ưu việt của nó. Do đó, việc nắm vững cơ sở lý luận về
bao thanh toán là cần thiết, để từ đó có cái nhìn khách quan hơn trong quá
trình tiếp cận và ứng dụng tốt vào thực tiễn loại hình nghiệp vụ này.
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN
1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của bao thanh toán
1.1.1.1. Lịch sử ra đời của bao thanh toán
Hoạt động bao thanh toán là một trong những hình thức tài trợ lâu đời
nhất trên thế giới với một bề dầy lịch sử phát triển hàng trăm năm. Một số
học giả cho rằng bao thanh toán có từ thời đế chế La Mã. Một số nhà học
giả lại cho rằng bao thanh toán có từ cách đây chừng bốn nghìn năm từ thời
vua Hammurabi. Hammurabi là vị vua của vùng Mesopotamia, nơi được coi

là cội nguồn phát triển việc cho vay. Khái niệm factor xuất phát từ động từ
trong tiếng Latin facio, có nghĩa là “he who does thing” (tạm dịch là “người
kinh doanh buôn bán hưởng hoa hồng”). Động từ tiếng Latin trên gợi ý rằng
nguồn gốc của bao thanh toán cũng được phát sinh vào thời gian đó khi ấy,
nó được đưa vào nội dung các giấy tờ làm bằng chứng cho các hoạt động
4
mua bán của vùng và các văn bản mô phỏng luật lệ cai trị của vị vua này.
Theo thời gian, vị vua Hammurabi và người dân ở vùng đất này cũng không
còn nhưng phương thức bao thanh toán vẫn còn tồn tại. Hầu hết các quốc
gia văn minh thời bấy giờ coi trọng buôn bán, đều đã thử ứng dụng một số
phương thức tương tự như phương thức bao thanh toán hiện giờ; lấy một ví
dụ điển hình là người Roman đã từng bán giảm giá tờ thương phiếu.
Các nhà sử học thường cho rằng bao thanh toán có từ thời xuất hiện đại
lý hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc mua bán và luân chuyển hàng
hoá khoảng 2000 năm trước thời Đế chế La mã. Do hệ thống thông tin và vận
tải còn sơ khai, đại lý hưởng hoa hồng thực hiện chức năng marketing quan
trọng trong giao dịch giữa nhà sản xuất ở nước ngoài và người mua trong
nước. Với vai trò là đại lý, họ nắm quyền sở hữu (không chỉ đơn thuần về mặt
danh nghĩa) của hàng hoá của bên uỷ nhiệm - nhà sản xuất nước ngoài - rồi
giao hàng hoá đó cho người mua trong nước, ghi sổ và thu nợ khi đến hạn,
chuyển số tiền trả nợ cho bên uỷ nhiệm sau khi đã trừ đi phần hoa hồng của
mình, phần hoa hồng này thường được tính bằng phần trăm trên tổng doanh
thu.
Cùng với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp dệt của Anh
vào thế kỷ 14 và thế kỷ 15, các đại lý bao thanh toán cũng ngày càng lớn
mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong giao thương. Khi họ bắt
đầu tin tưởng hơn vào khả năng trả nợ của khách hàng, họ chấp nhận cấp tín
dụng cho các đại lý cấp dưới của mình để ăn hoa hồng cao hơn. Thực tế là
với khoản hoa hồng nhiều hơn, đại lý bao thanh toán bắt đầu đảm bảo khả
năng trả nợ của người mua bằng cách cam kết trả cho đại lý cấp dưới trong

trường hợp người mua không trả nợ đúng hạn và khả năng tài chính của họ
không cho phép họ có sẵn nguồn để thanh toán.
5
Trước đó không lâu, xuất hiện hình thức bảo lãnh tín dụng, đại lý
thanh toán có đủ vốn bắt đầu trả trước một phần, gọi là “tạm ứng” cho đại
lý cấp dưới của mình dựa trên khoản thanh toán trong tương lai của người
mua hoặc của đại lý bao thanh toán, nếu người mua không trả tiền và nếu
nó bảo lãnh khoản tín dụng đó với người mua. Do có những khoản tạm ứng
này mà đại lý bao thanh toán tính thêm phí hoa hồng hoặc lãi suất. Thông
thường, để tránh khỏi tình trạng không thanh toán hoặc là thanh toán không
đủ do những vấn đề không thuộc lĩnh vực tín dụng; ví dụ như người mua
khiếu nại người bán về số lượng, chất lượng hoặc thời gian giao hàng, đại
lý bao thanh toán không tạm ứng toàn bộ số tiền doanh thu bán hàng. Thay
vào đó họ giữ lại một phần để dự trữ phải trả cho người bán cho tới khi họ
đã thu hồi được tất cả các khoản nợ. Người mua được thông báo là đại lý
bao thanh toán đã mua quyền nhận tiền thanh toán của họ.
1.1.1.2. Sự phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán trên thế giới
Vào thời điểm Columbus phát hiện ra châu Mỹ năm 1492, đại lý bao
thanh toán đã phát triển từ vai trò duy nhất là với chức năng marketing
thành đóng vai trò vừa có chức năng marketing vừa có chức năng tài chính.
Thế kỷ 16 chứng kiến sự bắt đầu của chế độ thực dân của Mỹ, và cùng
với nó vai trò ngày càng tăng và nhiều cơ hội mới cho bao thanh toán - đặc
biệt là đối với những người thiết lập hoạt động kinh doanh ở Mỹ. Khoảng
cách giữa châu Âu và thị trường thực dân rất lớn và càng lớn hơn khi Mỹ
mở rộng biên giới phía Tây của nó. Khoảng cách lớn này làm cho những
nhà sản xuất châu Âu khó quen với thị trường châu Mỹ và làm giảm sự tin
cậy về tín dụng đối với những khách hàng đầy tiềm năng này. Và điều này
làm cho vòng tuần hoàn từ khi bắt đầu sản xuất cho đến khi nhận được
khoản tiền thanh toán cuối cùng cũng dài hơn. Kết hợp những yếu tố trên
đây có thể thấy người sản xuất phải trải qua rất nhiều khó khăn để thu hồi

6
vốn tái sản xuất. Vì vậy, những đại lý bao thanh toán ở Mỹ do đã quen với
thị trường và người mua trong nước của họ, quyết định nhóm họp lại thành
một tổ chức để cung cấp cho các nhà sản xuất châu Âu những dịch vụ
marketing và tài chính tương tự như trước đây các đại lý bao thanh toán vẫn
thường làm.
Đến cuối thế kỷ 19, một sự thay đổi quan trọng trong thế giới thương
mại đã diễn ra. Mỹ phát triển mạnh mẽ trở thành một quốc gia có chủ
quyền, ít bị phụ thuộc vào hàng hóa nước ngoài. Sự phát triển của ngành
công nghiệp trong nước có được là nhờ dân số và lực lượng lao động phát
triển rất nhanh, tài nguyên thiên nhiên dư thừa và việc áp đặt biểu thuế gắt
gao đối với hàng hoá nước ngoài. Đồng thời những nhà sản xuất Mỹ cũng
phát triển đội ngũ kinh doanh (marketing) của mình và vì vậy nhu cầu chức
năng marketing mà trước đây các nhà bao thanh toán thường thực hiện bấy
giờ giảm đi. Tuy nhiên, một lần nữa các đại lý bao thanh toán lại phát triển
và điều chỉnh theo nhu cầu của nền kinh tế mới trong nước, tập trung vào
các hoạt động tín dụng, thu nợ, kế toán và các chức năng tài chính (thường
là thông báo cho người mua việc bán các khoản phải thu). Việc giao cho các
đại lý bao thanh toán thực hiện các chức năng này cho phép các nhà sản
xuất ngành dệt của Mỹ có thời gian tập trung hơn vào sản xuất và tiếp thị
kinh doanh sản phẩm.
Vào đầu thế kỷ 20, khi các nhà sản xuất Mỹ mở rộng sang các sản
phẩm may mặc, phụ kiện, đồ nội thất và thảm…, các đại lý bao thanh toán
Mỹ cũng mở rộng chuyên môn và dịch vụ sang ngành công nghiệp mới này.
Trước năm 1930, bao thanh toán diễn ra chủ yếu trong ngành công nghiệp
dệt may vì ngành công nghiệp này là con đẻ của nền kinh tế thuộc địa vốn
rất hay áp dụng hình thức bao thanh toán. Sau chiến tranh thế giới thứ II,
bao thanh toán của Mỹ phát triển sang các ngành công nghiệp mới đang
7
phát triển như điện, hoá chất, sợi tổng hợp… công ty bao thanh toán đưa ra

hình thức bao thanh toán mua lại các khoản phải thu dựa trên cơ sở hoá đơn
và từ đó trở đi bao thanh toán đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong
hoạt động của giới doanh nhân.
Ngày nay các đơn vị bao thanh toán tồn tại dưới đủ mọi hình thức: một
phòng ban của một tổ chức tài chính lớn hay ở quy mô lớn hơn như một
doanh nghiệp kinh doanh độc lập. Rất nhiều đơn vị bao thanh toán đã hoạt
động thực sự có những bước tiến mạnh mẽ khi mức lãi suất tăng cao đỉnh
điểm vào những năm 60, 70. Xu hướng này càng diễn biến trở nên sâu sắc
hơn khi vào những năm 80, lãi suất ngày càng gia tăng và ngành ngân hàng
đã có những biến động mạnh. Từ đó việc hình thành một Hiệp hội thế giới
về bao thanh toán trở thành một vấn đề cấp thiết.
Đầu những năm 1960, tổ chức các nhà bao thanh toán quốc tế ra đời
(gọi tắt là IFG: International Factor Group) ra đời với gần 70 thành viên có
mặt ở 47 quốc gia. Với mục tiêu để giúp các nhà bao thanh toán thuận lợi
trong quá trình hợp tác với nhau, IFG là tổ chức sáng lập ra hệ thống bao
thanh toán hai đơn vị (two-factor system), một hệ thống dịch vụ bao thanh
toán quốc tế.
Một tổ chức khác mạnh và có tầm ảnh hưởng lớn đó là Hiệp hội các
nhà bao thanh toán thế giới - Factors Chain International (gọi tắt là FCI).
Năm 1968, FCI ra đời với vai trò là một hiệp hội đứng ra tập hợp các công
ty bao thanh toán độc lập lại với nhau. Ngay từ những ngày đầu thành lập
các thành viên sáng lập ra FCI luôn nhận thức được tiềm năng của bao
thanh toán, do đó họ luôn đặt sứ mệnh của FCI lên trên hết đó là:
• Đưa bao thanh toán trở thành một dịch vụ mang tính toàn cầu
• Giúp các thành viên trong Hiệp hội của mình giành được lợi thế cạnh
tranh trong tài trợ thương mại toàn cầu thông qua việc
8
 Thiết lập một mạng lưới các nhà bao thanh toán hàng đầu thế giới
 Xây dựng một hệ thống mạng lưới thông tin hiện đại và hiệu quả
để kết nối các nhà bao thanh toán lại với nhau

 Xây dựng khung pháp lý nhằm bảo vệ các nhà xuất nhập khẩu
 Tiến hành thủ tục tuân chuẩn quy tắc về chất lượng dịch vụ đặt ra
 Thường xuyên xây dựng các gói đào tạo
 Không ngừng giới thiệu quảng bá bao thanh toán là một phương
thức tối ưu trong tài trợ thương mại.
Với phương châm hoạt động như vậy, cho đến nay FCI đã có trong
mình số lượng thành viên lên tới 206 tại 59 quốc gia, chiếm hơn 50% doanh
số bao thanh toán toàn cầu. Doanh số bao thanh toán cũng như tầm ảnh
hưởng tới tài chính toàn cầu của FCI ngày càng gia tăng rõ rệt.
(đơn vị: triệu euro)
Biểu đồ 1.1: Doanh số bao thanh toán của FCI
(Nguồn: Factors Chain International, 2006)
9
479.433
437.932
245.354
130.166
80.496
19.393
1984
1989
1994
1999
2004
2005
1984 29%
1989 41%
1994 44%
1999 42%
2004 51% 2005 54%

Biểu đồ 1.2: Thị phần về doanh số bao thanh toán của FCI so với toàn cầu
(Nguồn: Factors Chain International, 2006)
(đơn vị: triệu euro)
Biểu đồ 1.3: Doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu của FCI
(Nguồn: Factors Chain International,2006)
Biểu đồ 1.4: Thị phần về doanh số bao thanh toán xuất nhập khẩu của FCI so với
toàn cầu
(Nguồn: Factors Chain International,2006)
Qua bảng số liệu, có thể thấy sự phát triển không ngừng về doanh số
bao thanh toán đang minh chứng cho hoạt động sôi động và chiếm ưu thế
10
1984
1989
1994
1999
2004
2005
51.672
43.565
19.405
9.875
5.384
1.384
1984 32%
1989 47%
1994 49%
1999 49% 2004 64% 2005 68%
của FCI trong thị trường bao thanh toán trên toàn thế giới. Ngoài ra, với đội
ngũ khách hàng lên tới con số 134.800, 4.962.638 người mua và
102.105.720 giao dịch bao thanh toán đã diễn ra tính đến thời điểm quý

IV/2005, FCI đang ngày càng khẳng định tầm ảnh hưởng của mình tới nền
tài chính toàn cầu.
Với một truyền thống lịch sử khá lâu đời, sự phát triển không ngừng
của phương thức bao thanh toán qua một số thời kỳ và sự ra đời của một số
tổ chức, hiệp hội về bao thanh toán, có thể thấy trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ,
bao thanh toán đang ngày càng trở thành một phương thức tài trợ thương
mại được ưa chuộng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nghiệp vụ này,
vẫn tồn tại một số quan niệm chưa đúng. Trước khi nghiên cứu bản chất của
bao thanh toán, tác giả xin đưa ra một số quan điểm sai lầm của một số
người khi đánh giá về bao thanh toán.
1.1.2. Một số quan niệm sai lầm về bao thanh toán
Do bản chất bao thanh toán là một nghiệp vụ tài chính khá đặc biệt nên
khá nhiều người vẫn có những quan niệm sai lầm chưa đúng về hoạt động
bao thanh toán:
1.1.2.1. Bao thanh toán là một khoản cho vay
Trên thực tế, mặc dù bao thanh toán là công cụ tài trợ thương mại
nhưng bao thanh toán lại không là một khoản cho vay thông thường vì bao
thanh toán không mang đặc thù của các khoản vay như thời hạn hoàn trả
hay trách nhiệm hoàn trả của người xin vay. Ngân hàng hay các tổ chức tín
dụng sẽ không cho vay nếu tài sản đảm bảo của khoản vay không đủ lớn;
còn trên thực tế đối với bao thanh toán, các đơn vị bao thanh toán lại tập
trung đánh giá các khoản phải thu. Trong một số trường hợp, ngân hàng
hoặc các tổ chức tín dụng khác vẫn có thể cấp vốn lưu động dựa trên những
11
khoản phải thu, tuy nhiên như trên đã khẳng định, nó không liên quan đến
thời hạn hoàn trả hay trách nhiệm hoàn trả của người xin vay.
1.1.2.2. Bao thanh toán là một hình thức để xử lý nợ khó đòi
Bao thanh toán cung cấp các dịch vụ thu nợ các khoản phải thu đến
hạn với tính chất chuyên nghiệp cao nhưng thực chất đơn vị hay công ty
bao thanh toán không phải là tổ chức chuyên xử lý các khoản nợ khó đòi

tiến hành các việc như: cơ cấu lại khoản vay, cơ cấu lại hoặc tiếp quản con
nợ và các nghiệp vụ xử lý nợ khó đòi khác. Nói cách khác, bao thanh toán
không phải là dịch vụ cung cấp cho khách hàng khi các khoản phải thu của
họ là các khoản nợ khó đòi hoặc bản thân họ không thu được nợ của những
người mua hàng.
1.1.2.3. Bao thanh toán là nghiệp vụ mang tính “chiết khấu hối phiếu”
Về hình thức, bao thanh toán và nghiệp vụ chiết khấu hối phiếu giống
nhau ở chỗ đều cho phép khách hàng nhận ngay được một khoản tiền khi
xuất trình hoá đơn hay hối phiếu. Tuy nhiên có điểm khác biệt là hối phiếu
trong nghiệp vụ chiết khấu được “tài sản hoá” để chuyển nhượng còn hoá
đơn trong bao thanh toán là phương tiện để thu hồi nợ. Nghiệp vụ chiết khấu
hối phiếu tập trung nhiều vào mục đích “tài chính” hơn so với bao thanh
toán
1.2.2.4. Một số quan niệm chưa đúng khác
Bao thanh toán chỉ sử dụng khi có khó khăn về mặt tài chính cho nên
khách hàng cảm thấy “mất uy tín” khi thông báo cho người mua hàng biết
về những khoản phải thu đó được bao thanh toán. Khách hàng sử dụng dịch
vụ bao thanh toán vì những lợi ích của nó đem lại phù hợp với lợi ích khách
hàng, đó không phải là hoạt động cứu trợ khi khách hàng gặp khó khăn về
tiền mặt, vốn lưu động. Do vậy sẽ không đúng khi cho rằng khách hàng
12
tham gia vào bao thanh toán đang gặp khó khăn và khách hàng mất uy tín
khi tham gia vào bao thanh toán.
Công ty bao thanh toán có vai trò như “người cho vay cuối cùng” và
đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Không phải khách hàng chỉ lựa chọn
phương thức bao thanh toán khi họ không thể tiếp cận được với nguồn vốn
vay ngân hàng. Bao thanh toán cho phép chuyển các khoản phải thu thành
tiền mặt một cách nhanh chóng tuy nhiên đây không phải là phương tiện để
xử lý các khó khăn về vấn đề thanh khoản. Khách hàng quyết định sử dụng
dịch vụ bao thanh toán khi mà mức chi phí bao thanh toán nhỏ hơn lợi ích mà

việc có tiền mặt trong tay mang lại tại thời điểm nhận tiền thanh toán trước.
Trên đây là một số quan điểm sai lầm, rất dễ dẫn đến nhầm lẫn các
phương thức tương tự. Như vậy, thực chất bao thanh toán là gì và tại sao
người ta lại quan tâm đến loại hình dịch vụ này nhiều đến vậy. Trước hết,
xin bắt đầu bằng một số khái niệm về bao thanh toán
1.1.3. Khái niệm về bao thanh toán
Khái niệm về bao thanh toán không phải là mới đối với hệ thống các
ngân hàng hay tổ chức tín dụng, nhưng với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam thì đây dường như là một khái
niệm vô cùng mới mẻ.
1.1.3.1. Khái niệm theo Công ước quốc tế về Bao thanh toán tại Ottawa
Hiệp hội các nhà bao thanh toán quốc tế cùng với việc hoạt động ngày
càng phát triển của mình, đồng thời nhằm phối hợp, giúp đỡ nhau trong
hoạt động thương mại quốc tế đưa ra những chuẩn mực làm căn cứ pháp lý
cho hoạt động bao thanh toán, đảm bảo lợi ích cho các bên có liên quan, đã
chính thức cho ra đời Công ước quốc tế về bao thanh toán (UNIDROIT
Convention on International Factoring) ngày 28/05/1998 trong cuộc họp các
nhà bao thanh toán tại Ottawa (Canada).
13
Theo Công ước này, hoạt động bao thanh toán là hoạt động công ty
bao thanh toán mua lại các khoản phải thu của khách hàng phát sinh từ giao
dịch bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ nhưng thanh toán chậm, theo đó khách
hàng nhận được các khoản tiền ứng trước tương ứng với tỷ lệ định trước giá
trị của khoản phải thu. Phần giá trị còn lại sẽ trả lại khách hàng khi người
mua hàng thực hiện việc thanh toán và đã trừ đi các khoản phí trả cho công
ty bao thanh toán. Ngoài ra, việc tài trợ chính, bao thanh toán còn bao gồm
cả việc quản lý sổ sách bán hàng, kế toán và tiến hành việc thu nợ một cách
chuyên nghiệp để đảm bảo tối đa lợi ích khách hàng. Như vậy, bao thanh
toán theo Công ước quốc tế về bao thanh toán là hoạt động tài chính tổ hợp
từ các hoạt động tài trợ, quản lý sổ sách kế toán, bán hàng thu nợ và bảo vệ

khách hàng trước rủi ro tín dụng.
Đã có nhiều định nghĩa khác nhau mô tả về nghiệp vụ bao thanh toán
qua lịch sử phát triển của nghiệp vụ này. Những định nghĩa này khác nhau
khá nhiều phụ thuộc vào thời gian và hoàn cảnh. “Định nghĩa thuần tuý”
nhất của Mỹ được định nghĩa như sau “Bao thanh toán là một thoả thuận
tiếp theo giữa bên liên quan đến bao thanh toán và người bán hàng hoặc là
người cung cấp dịch vụ về mở một tài khoản, chiểu theo đó bên bao thanh
toán tiến hành (tất cả) những dịch vụ sau liên quan đến khoản phải thu phát
sinh từ việc bán hàng hoá và dịch vụ nói trên:
(1) Mua lại tất cả những khoản phải thu và nếu cần thiết thì ứng trước
tiền mặt dựa trên các khoản phải thu này trước khi thu nợ
(2) Duy trì ghi sổ cái và thực hiện các nhiệm vụ ghi sổ sách khác liên
quan đến khoản phải thu này.
(3) Thu nợ các khoản phải thu
(4) Dự tính các tổn thất có thể xảy ra khi tình hình tài chính của khách
hàng không trả được nợ (tổn thất tín dụng)”
14
1.1.3.2. Khái niệm theo Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức
tín dụng Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ bao thanh toán cho các
bên tham gia trong hoạt động bao thanh toán trong nước và bao thanh toán
quốc tế trong hoạt động thương mại khu vực và quốc tế, sau nhiều lần dự
thảo, ngày 06/09/2004, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã chính
thức đưa ra Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban
hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ/NHNN.
Trong Quy chế, điều 2 quy định rõ khái niệm bao thanh toán: Bao
thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán
hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thoả thuận trong hợp đồng
mua, bán hàng.

Như vậy, hiểu một cách đơn giản bao thanh toán là một hình thức tài
trợ thương mại trong đó ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác sẽ mua
lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đáo hạn để trở thành chủ nợ
trực tiếp đứng ra đòi nợ người mua hàng đồng thời cung cấp dịch vụ quản
lý sổ cái bán hàng cho bên bán hàng.
Tại Quy chế này cũng quy định rõ một số khái niệm cần thiết liên quan
đến khái niệm về bao thanh toán như:
[1]
Khoản phải thu: là khoản tiền bên bán hàng phải thu từ bên mua hàng
theo hợp đồng mua, bán hàng. Tuy nhiên, không phải tất cả các khoản phải
thu đều thuộc bao thanh toán, có một số trường hợp các khoản phải thu
không nằm trong bao thanh toán như:
 Gửi bán: Trường hợp này người mua không phải trả tiền hàng cho
đến khi hàng hoá đã được bán đi. Nếu sau một thời gian mà hàng hoá chưa
15
bán được, người mua hoàn lại hàng cho người bán và tài khoản người mua
lại ghi có.
 Lắp đặt thiết bị sản xuất: Người mua sẽ chỉ thanh toán tiền hàng khi
thiết bị vận hành theo đúng quy cách chi tiết kỹ thuật đã thoả thuận. Nếu
người bán bị vỡ nợ, sau khi thiết bị đã được giao, lập hoá đơn và đã được
lắp đặt theo các chi tiết kỹ thuật đã thoả thuận, khi đó nếu bao thanh toán
cho những khoản phải thu này, công ty bao thanh toán sẽ không được
nguời mua thanh toán
 Thanh toán theo tiến độ và giữ lại một phần tiền (phổ biến trong
ngành xây dựng): người mua có quyền giữ lại 5% đến 10% số tiền trên mỗi
hoá đơn cho đến khi kết thúc hợp đồng. Nếu công ty xây dựng bị phá sản
giữa chừng trong khi đang tiến hành thực hiện hợp đồng, khi đó người mua
sẽ phải tìm một nhà thầu xây dựng khác để tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Người mua sẽ khấu trừ phần giá trị giữ lại và các chi phí phát sinh thêm vào
các hoá đơn chưa thanh toán và đơn vị bao thanh toán sẽ phải chịu rủi ro này.

Hợp đồng mua, bán hàng: là thoả thuận bằng văn bản giữa bên bán hàng
và bên mua hàng về việc mua, bán hàng hoá theo quy định của pháp luật, trong
đó bên mua hàng chưa đến hạn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Số dư bao thanh toán: là số tiền mà đơn vị bao thanh toán ứng trước
cho bên bán hàng theo thoả thuận tại hợp đồng bao thanh toán.
Hạn mức bao thanh toán: là tổng số dư tối đa của các khoản phải thu
được bao thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định theo thoả thuận
của đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng trong hợp đồng bao thanh toán.
Bên mua hàng: là tổ chức được nhận hàng hoá từ bên bán hàng và có nghĩa
vụ thanh toán các khoản phải thu quy định tại hợp đồng mua, bán hàng.
16
Chứng từ bán hàng: là các chứng từ liên quan đến việc giao hàng và việc
yêu cầu thanh toán của bên bán hàng đối với bên mua hàng trên cơ sở hợp
đồng mua, bán hàng.
Tại khoản 2, điều I của Quy chế này cũng quy định rõ tổ chức tín dụng
thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán là các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt
động theo Luật các Tổ chức tín dụng, gồm:
[1]
- Ngân hàng thương mại nhà nước;
- Ngân hàng thương mại cổ phần;
- Ngân hàng liên doanh;
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài;
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
- Công ty tài chính.
Khách hàng được tổ chức tín dụng bao thanh toán là các tổ chức kinh
tế Việt Nam và nước ngoài cung ứng hàng hoá và được thụ hưởng các
khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng hoá theo thoả thuận giữa
bên bán hàng và bên mua hàng tại hợp đồng mua, bán hàng.
Như vậy không phải trong trường hợp nào, bao thanh toán cũng được
áp dụng. Theo Quy chế hoạt động bao thanh toán, một số khoản phải thu

không được bao thanh toán đó là các khoản phải thu:
 Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hoá bị pháp luật cấm
 Phát sinh từ các giao dịch thoả thuận bất hợp pháp
 Phát sinh từ các giao dịch, thoả thuận đang có tranh chấp
 Phát sinh từ các hợp đồng mua bán dưới hình thức ký gửi
 Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng có thời hạn thanh toán còn lại
dài hơn 180 ngày
 Các khoản phải thu đã được gán nợ hoặc cầm cố, thế chấp
 Các khoản phải thu đã quá hạn theo hợp đồng mua bán hàng
17
Các giới hạn này cũng mang tính tương đối tùy từng quy định của
luật pháp cũng như quy định của chính tổ chức tín dụng đó.
1.1.3.3. Một số tính chất đặc trưng của bao thanh toán
• Tính chất tín dụng
Với tính chất tín dụng, bao thanh toán sẽ xoá bỏ được các khó khăn
trong việc bổ sung vốn lưu động đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia vào các hoạt động xuất khẩu. Họ thiếu
vốn lưu động nhưng việc tiếp cận với nguồn tín dụng hỗ trợ từ phía ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác là rất khó khăn. Với bao thanh toán, các
tổ chức tín dụng sẽ chỉ quan tâm đến người mua hàng thông qua hoá đơn
các khoản phải thu và không yêu cầu người xuất khẩu phải mang tài sản ra
thế chấp. Thông thường, các công ty bao thanh toán sẽ thanh toán ngay 70%
đến 90% số tiền trên hoá đơn và số tiền này sẽ được nhà bao thanh toán
thanh toán trong vòng 24 giờ. Thay vì phải đợi 30, 60 thậm chí 90 ngày mới
được thanh toán tiền hàng, doanh nghiệp xuất khẩu có thể đem bán quyền
đòi tiền của mình cho tổ chức bao thanh toán để lấy tiền ngay, trừ đi một
khoản chiết khấu hợp lý trên hoá đơn thương mại. Với số tiền đó, doanh
nghiệp có thể đẩy nhanh vòng quay sử dụng vốn, chớp lấy cơ hội kinh
doanh hấp dẫn khác, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như
vậy rõ ràng, bao thanh toán không là một khoản tín dụng nhưng nó lại có

tính chất tín dụng với các bên tham gia vào bao thanh toán.
Tính chất nhờ thu
Tính chất nhờ thu của bao thanh toán giúp các doanh nghiệp xuất khẩu
làm giảm chi phí quản lý nợ và giảm nợ xấu. Bởi lẽ, khi khách hàng sử
dụng dịch vụ bao thanh toán họ sẽ không còn phải lo nghĩ nhiều đến việc
quản lý các khoản nợ chưa được thanh toán của mình nữa. Công ty bao
thanh toán sẽ đảm nhiệm công việc đó, họ sẽ tiến hành kiểm tra tín dụng,
18
duy trì các khoản phải thu, phải trả và các công việc khác. Hơn nữa, các
công ty bao thanh toán thông thường được trang bị đầy đủ kiến thức và kinh
nghiệm trong việc thu hồi các khoản nợ xấu vì cấp tín dụng và thu nợ là
công việc chính của công ty này. Vì vậy, trong trường hợp bên nợ không
thanh toán hoặc chậm trễ trong việc thanh toán, họ sẽ có nhiều biện pháp
thu hồi nợ một cách hiệu quả nhất.
Như vậy, bao thanh toán là một nghiệp vụ tài chính khá đặc biệt, vừa
mang tính “tín dụng” vừa mang tính “nhờ thu”.
1.2. CÁC HÌNH THỨC CƠ BẢN CỦA HOẠT ĐỘNG BAO THANH TOÁN
Cũng giống như một số phương thức tài trợ thương mại khác, bao
thanh toán cũng được cung cấp dưói nhiều hình thức đa dạng khác nhau phù
hợp với từng nhu cầu cụ thể của khách hàng
[14]
1.2.1. Theo loại hình dịch vụ
1.2.1.1. Bao thanh toán đến hạn (Maturity Factoring)
Công ty bao thanh toán mua các khoản phải thu của khách hàng và
thực hiện thanh toán đầy đủ giá trị của khoản phải thu sau khi trừ đi phí bao
thanh toán tại thời điểm thu được nợ từ người mua hàng hoặc vào thời điểm
thỏa thuận trước hoặc sau ngày trả nợ ghi trên hoá đơn bán hàng, tùy theo
thời điểm nào sớm hơn. Thông thường bao thanh toán đến hạn là hình thức
bao thanh toán miễn truy đòi. Khách hàng sử dụng hình thức này thường là
các công ty có quy mô trung bình và lớn, muốn chuyển rủi ro tín dụng và

công việc thu nợ, theo dõi sổ sách kế toán, bán hàng cho công ty bao thanh
toán.
1.2.1.2. Bao thanh toán ứng trước (Advance Factoring)
Bao thanh toán ứng trước hay còn gọi là bao thanh toán trọn gói cùng
được thoả thuận về mặt thời điểm thanh toán như bao thanh toán đến hạn.
Tuy nhiên khách hàng tham gia vào bao thanh toán ứng trước có quyền
19
được nhận một khoản tiền thanh toán trước tương đương với tỷ lệ nhất định
(70-90%) giá trị khoản bao thanh toán phải thu ngay trong vòng từ 24-48
tiếng sau khi bàn giao cho công ty bao thanh toán các khoản phải thu. Bao
thanh toán ứng trước có thể là truy đòi hoặc miễn truy đòi tuỳ theo thoả
thuận giữa công ty bao thanh toán và khách hàng. Đây là hình thức phổ biến
nhất hiện nay trong hoạt động bao thanh toán.
1.2.2. Theo địa lý
1.2.2.1.Bao thanh toán trong nước (Domestic Factoring)
Bao thanh toán trong nước là hình thức bao thanh toán với sự tham gia
của công ty bao thanh toán, khách hàng, người mua hàng trên cùng một
lãnh thổ quốc gia. Bao thanh toán trong nước có thể được thực hiện theo
bao thanh toán đến hạn hoặc bao thanh toán ứng trước.
Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao thanh toán của
các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam giải thích rõ: Bao thanh toán trong nước là
việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua, bán hàng, trong đó bên bán hàng và
bên mua hàng là người cư trú theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
1.2.2.2. Bao thanh toán xuất khẩu/nhập khẩu (Export/Import Factoring)
Bao thanh toán xuất nhập khẩu được thực hiện trên giao dịch xuất nhập
khẩu hàng hoá, dịch vụ. Khác với bao thanh toán trong nước sẽ có nhà xuất
khẩu, nhà nhập khẩu, công ty bao thanh toán của nhà xuất khẩu (có thể là
một ngân hàng tham gia vào hình thức bao thanh toán này). Nhà xuất khẩu
được công ty bao thanh toán cung cấp mọi dịch vụ trong bao thanh toán mà
không cần phải liên hệ với công ty bao thanh toán nhập khẩu. Công ty bao

thanh toán nhập khẩu chịu trách nhiệm thu nợ từ nhà nhập khẩu và trả cho
công ty bao thanh toán xuất khẩu. Như vậy, rủi ro không trả được nợ của nhà
nhập khẩu do công ty bao thanh toán nhập khẩu chịu. Trong nghiệp vụ bao
20
thanh toán này thì các công ty bao thanh toán đều không chịu rủi ro về ngoại
hối.
Tương tự như bao thanh toán xuất khẩu nhưng bao thanh toán nhập
khẩu được tiến hành ngược lại. Cụ thể, công ty bao thanh toán nhập khẩu
đảm bảo việc thanh toán của nhà nhập khẩu (ở nước ngoài). Vì vậy thông
qua thoả thuận bao thanh toán, nhà nhập khẩu có thể được nhập hàng ngay
và liên tục từ các nhà xuất khẩu thông qua tài khoản mở.
Cũng theo Theo khoản 2 điều 4 chương I của Quy chế hoạt động bao
thanh toán của các Tổ chức tín dụng tại Việt Nam quy định: Bao thanh toán
xuất - nhập khẩu là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất - nhập khẩu.
Đơn vị bao thanh toán xuất khẩu là đơn vị thực hiện bao thanh toán cho bên
bán hàng là bên xuất khẩu trong hợp đồng xuất - nhập khẩu. Đơn vị bao
thanh toán nhập khẩu là đơn vị được phép hoạt động bao thanh toán tham
gia vào quy trình bao thanh toán xuất - nhập khẩu.
Thông thường, phương thức phân chia bao thanh toán theo địa lý rất
phổ biến ở hầu hết các quốc gia thực hiện bao thanh toán. Ban đầu, công ty
hay đơn vị bao thanh toán có thể áp dụng bao thanh toán nội địa, sau đó mới
phát triển sang phương thức bao thanh toán xuất nhập khẩu.
21
1.2.3. Theo tính chất bảo vệ khách hàng trước rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Bao thanh toán truy đòi (Recourse Factoring)
Là nghiệp vụ bao thanh toán mà công ty bao thanh toán chịu trách
nhiệm thu nợ từ người mua hàng nhưng công ty bao thanh toán vẫn giữ
quyền truy đòi đối với khách hàng trong trường hợp người mua hàng không
có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán các khoản phải thu.
Gần đây, ở những nền kinh tế mới nổi, xuất hiện một hình thức bao

thanh toán mới, đó là bao thanh toán đảo chiều, thực chất là phương thức
lựa chọn khác ngoài bao thanh toán có quyền truy đòi. Trong đó thay vì đơn
vị bao thanh toán mua lại toàn bộ danh mục các khoản phải thu của các sản
phẩm của nhà cung ứng đối với bao thanh toán thông thường, đơn vị bao
thanh toán mua nhiều khoản phải thu của một người mua có chất lượng cao
nhất. Ở đây quan hệ bao thanh toán đã nâng lên thành quan hệ ba chiều với
sự tham gia của đơn vị bao thanh toán, người mua và các nhà cung ứng.
Người mua thường là một công ty nổi tiếng, hoạt động hiệu quả đem lại
chất lượng cao.
Xin đưa ra một ví dụ đơn giản mô tả cơ chế hoạt động của bao thanh
toán đảo chiều. Wal-Mart (một công ty bán lẻ lớn nhất tại Hoa Kỳ) có quan
hệ bao thanh toán đảo chiều với Công ty tài chính Heller liên quan đến các
nhà cung ứng Mêhicô. Wal-Mart cho các nhà cung ứng Mêhicô quyền lựa
chọn được bao thanh toán các hoá đơn của mình. Công ty tài chính Heller
bao thanh toán các hoá đơn khi được Wal-Mart thông báo rằng một nhà
cung ứng đã lựa chọn quyền bao thanh toán. Đối với bao thanh toán đảo
chiều, có thể giải quyết được rủi ro liên quan đến người mua do rủi ro tín
dụng hay rủi ro do thiếu thông tin mang lại.
1.2.3.2. Bao thanh toán không truy đòi (Non Recourse Factoring)
22
Đối với bao thanh toán không truy đòi, công ty bao thanh toán không
thực hiện việc truy đòi đối với khách hàng ngay cả trường hợp người mua
hàng không trả được nợ. Như vậy công ty bao thanh toán phải chịu toàn bộ
rủi ro khi bên mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
các khoản phải thu. Hình thức này thường được sử dụng phổ biến trong
nghiệp vụ bao thanh toán xuất nhập khẩu.
1.2.4. Theo trách nhiệm phải thông báo cho người mua:
1.2.4.1. Bao thanh toán không thông báo (Non-notifed Factoring)
Khách hàng tham gia vào nghiệp vụ bao thanh toán nhưng không
thông báo cho người mua hàng biết khoản phải thu đó đã được bao thanh

toán và không thông báo để người mua hàng vẫn phải trả nợ trực tiếp cho
công ty bao thanh toán. Khi đó các khách hàng trực tiếp thực hiện việc thu
nợ từ người mua hàng và trả cho công ty bao thanh toán. Đối tượng của
hình thức này chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, có bộ phận thu nợ riêng và
họ chỉ sử dụng bao thanh toán như một nguồn tài trợ cho mình.
1.2.4.2. Bao thanh toán thông báo (Notified Factoring)
Người mua hàng tham gia vào loại hình bao thanh toán này đã được
công ty bao thanh toán mua và yêu cầu trả nợ trực tiếp cho công ty bao
thanh toán. So với hình thức bao thanh toán không thông báo, bao thanh
toán thông báo phổ biến hơn.
1.3. QUY TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN
Nghiệp vụ bao thanh toán được hoạt động theo quy trình chặt chẽ.
Theo quy trình nghiệp vụ bao thanh toán chung, người ta thường chia ra các
quy trình theo số đơn vị bao thanh toán tham gia vào đó:
[22]
1.3.1. Hệ thống một đơn vị của bao thanh toán
23
Hệ thống một đơn vị của bao thanh toán gồm có ba bên bao gồm: một
đơn vị bao thanh toán, người bán và người mua, quá trình giao dịch sẽ được
thể hiện chi tiết qua sơ đồ sau:
[13]
24
Sơ đồ 1.1: Hệ thống một đơn vị của bao thanh toán (hay Sơ đồ bao thanh toán nội địa)
Bước 1: Người bán và người mua ký kết hợp đồng mua bán hai bên.
Người bán ở đây đóng vai trò là khách hàng của công ty bao thanh toán.
Còn người mua trở thành con nợ.
Bước 2: Khách hàng đề nghị công ty bao thanh toán cấp cho người
mua hàng của họ một hạn mức tín dụng (credit line).
Bước 3: Công ty Bao thanh toán tiến hành thẩm định tín dụng người
mua. Trong trường hợp này công ty bao thanh toán có thể từ chối việc cấp

hạn mức tín dụng khi họ không có đầy đủ thông tin về người mua hàng
hoặc người mua hàng không đủ uy tín về tín dụng.
Bước 4: Sau khi công ty bao thanh toán chấp nhận cấp hạn mức, họ sẽ
có trách nhiệm trả lời tín dụng cho khách hàng của mình, khách hàng lúc
này có trách nhiệm thông báo cho người mua hàng về thoả thuận bao thanh
toán và yêu cầu người mua hàng trả nợ trực tiếp cho công ty bao thanh toán.
25
Người bán
(Khách hàng)
Người mua
(Con nợ)
Đơn vị bao thanh toán
1. Hợp đồng bán hàng
6. Giao hàng
2
.

Y
ê
u

c

u

t
í
n

d


n
g
7
.

C
h
u
y

n

n
h
ư

n
g

h
o
á

đ
ơ
n

B
T

T
4
.


T
r


l

i

t
í
n

d

n
g
5
.

K
ý

h

p


đ

n
g

B
T
T
8
.

T
h
a
n
h

t
o
á
n

t
r
ư

c
1
1

.

T
h
a
n
h

t
o
á
n


n
g

t
r
ư

c
3
.

T
h

m


đ

n
h

t
í
n

d

n
g
9
.

T
h
u

n


k
h
i

đ
ế
n


h

n
1
0
.

T
h
a
n
h

t
o
á
n

×