Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

tiểu luận đề tài giải pháp để phát triển kinh tế tri thức thơi kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước ở việt nam hiên nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.38 KB, 19 trang )

Đề tài : Giải pháp để phát triển kinh tế tri thức trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở đất
nước Việt Nam hiện nay.
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.
Lý do chọn đề tài:
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta đang đứng
trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba -văn minh trí tuệ. Trong nền văn
minh này, bộ phận quan trọng nhất là nền kinh tế tri thức - có thể nói là hết
sức cơ bản của thời đại thông tin.Đặc biệt là trong thập niên 90 các thành
tựu về công nghệ thông tin như: công nghệ Web, Internet, thực tế ảo,
thương mại tin học.... Cùng với những thành tựu về công nghệ sinh học:
công nghệ gen, nhân bản vô tính... đang tác động mạnh mẽ, sâu sắc làm đảo
lộn toàn bộ nền kinh tế thế giới và toàn bộ xã hội loài người đưa con người
đi vào thời đại kinh tế tri thức.Rất nhiều nước trên thế giới đều có tăng
trưởng kinh tế từ tri thức.Việt Nam vẫn đang là một trong những nước
nghèo và kém phát triển so với khu vực và trên thế giới.Do đó phát triển
kinh tế là chiến lược cấp bách hàng đầu.Hơn nữa chúng ta đang trên con
đường tiến hành công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước nên không thể
không đặt mình vào tri thức, phát triển tri thức để đưa nền kinh tế nước nhà
bắt kịp và phát triển cùng thế giới.
Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hoa,hiện đại hoá chúng ta cần phải nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi
đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất
nước,phù hợp với khu vực,với thế giới và thời đại trong tổng thể các mối
liên hệ,trong sự phát triển vận động không ngừng của nền kinh tế tri thức.
Vì vậy em quyết định chọn đề tài “ Những giải pháp để phát triển kinh tế
tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH ở Việt Nam hiện nay” này để
làm đề tài nghiên cứu của mình.
Do hiểu biết còn hạn chế nên đề tài còn những thiếu sót nhất định. Em rất
mong được sự nhận được ý kiến đóng góp của các thầy , cô để đề tài được


hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa,hiện đại hóa có tính thời sự cao, có s nghĩa sâu sắc về mặt


lý luận và thực tiễn đặt ra. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này
ở nhiều góc độ khác nhau. Những đóng góp và nghiên cứu các nhà khoa
học về các vấn đề trên đã góp phần làm sáng tỏ hay gợi lên nhưng vấn đề
bức xúc cần giải quết để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta. Đó cũng là
nguồn tư liệu quý báu giúp tôi kế thưa trong quá trình nghiên cứu hoàn
thiện đề tài của mình. Cụ thể :
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1- Mục đích:
Thứ nhất, các tiêu chí đo lường mức độ phát triển của kinh tế tri thức,
sự cần
thiết và những tác động của việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế của nước ta trong
thời gian qua dưới giác độ của của kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức
đóng góp cho nền kinh tế trong sự so sánh với khu vực và thế giới, từ đó
rút ra những mặt mạnh và yếu của Việt Nam trên con đường phát triển
kinh tế tri thức, đồng thời khẳng định về mặt lý luận và thực tiễn rằng,
phát triển kinh tế tri thức là xu thế tất yếu đối với Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thứ ba, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trên con đường xây
dựng và phát triển kinh tế của Việt Nam, từ đó đề ra những quan điểm,
xác định định hướng, tầm nhìn và từ đó đưa ra nhóm giải pháp tiếp cận
để phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện công nghiệp hóa hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay.

3.2 Nhiệm vụ:
Đưa ra giải pháp để phát triển kinh tế tri thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1.Đối tương nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là nên kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ đẩy
manh công nghiệp hóa hiện đại hóa
4.2.Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian: tiểu Luận nghiên cứu về sự phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam trong điều kiện công nghiệp hóa hiện đại hóa, bối cảnh mà mọi
quốc gia đều phát triển theo xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Về thời gian: Thời gian những năm 2000 trở lại đây, khi mà hầu hết các
quốc gia đều nhận thấy phát triển kinh tế tri thức là cơ hội phát triển đất
nước trong thế kỷ XXI, thời điểm mà Đảng và Chính phủ biến chủ trương,


mong muốn, trở thành hành động được thể hiện tại văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX,X,XI.
+ Giới hạn của nghiên cứu:
Tiểu luận nghiên cứu sự phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam đặt trong
bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1.Cơ sở lý luận.
Với cơ sơ lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
với các đương lối cách mạng,văn kiện của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
5.2 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
- Phương pháp duy vật lịch sử.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh đối chiếu, thống kê.

- Phương pháp suy luận logic.
- Phương pháp quy nạp và diễn dịch.
6. Đóng góp của đề tài.
Những điểm mới của tiểu luận được khái quát như sau:
- Thứ nhất, nêu bật bản chất hay nội hàm của kinh tế tri trức, trên cơ sở nhận
thức có phê phán các quan điểm kinh tế tri thức của các nhà lý luận kinh tế
trong và ngoài nước.
-Thứ hai, đúc kết kinh nghiệm phát triển kinh tế tri thức của các nước trên
thế giới làm bài học cho nước ta.
-Thứ ba, lượng hóa phần đóng góp của tri thức vào nền kinh tế Việt Nam.
- Thứ tư, đưa ra những quan điểm phát triển, định hướng, nhóm giải pháp
mang tính đặc thù cho Việt Nam và có tính khả thi cao nhằm tiếp cận để
phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2010-2020 và tầm nhìn 2030.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo đề tai gồm 3
chương và 13 tiết.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC.
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
KINH TẾ TRI THỨCVÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC TRONG NHỮNG NĂM QUA Ở VIỆT NAM.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY.


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC
1.1 Khái quát về sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức :
Trước hết là kinh tế săn bắn và hái lượm tồn tại trong hàng trăm nghìn
năm. Tiếp theo đó là kinh tế nông nghiệp kéo dài khoảng mười nghìn năm.

Rồi đến -5- kinh tế công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu nửa
sau thế kỷ XVIII đã xác lập cơ sở kỹ thuật cơ khí, hình thành lực lượng lao
động và tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Cuộc
cách mạng khoa học và kỹ thuật lần thứ hai (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX) đã nâng cao cơ sở kỹ thuật cơ khí lên trình độ bán tự động hóa và hình
thành tổ chức quản lý mới. Đến giai đoạn gần đây chúng ta cũng dễ nhận
thấy có những chuyển biến mang tính cách mạng có là cách mạng trong
quản lý, quản lý cũng đóng vai trò trở thành lực lượng sản xuất góp phần
sáng tạo ra của cải xã hội, chứ không còn là quản lý về kỷ cương lao động
thuần khiết. Bất kỳ nền kinh tế nào nói trên, dù ít hay nhiều cũng đã dựa
vào tri thức để phát triển. Tuy nhiên, không phải bất kỳ một nền kinh tế nào
cũng là nền kinh tế dựa trên tri thức. Cái khác biệt chủ yếu của nền kinh tế
tri thức với các nền kinh tế khác là tri thức đã phát triển đặc biệt mạnh mẽ,
đã trở thành yếu tố quan trọng nhất, nguồn lực có tính quyết định nhất đối
với tăng trưởng kinh tế hơn cả vốn và tài nguyên; từ những căn cứ xác thực
đó, người ta cho rằng một nền kinh tế mới hoàn toàn khác các nền kinh tế
truyền thống đã ra đời. Thuật ngữ “Kinh tế dựa vào tri thức” là xuất phát từ
việc thừa nhận vị trí mới và ảnh hưởng quyết định của tri thức và công nghệ
trong các nền kinh tế phát triển nhất. “Kinh tế dựa vào tri thức” lúc đầu
cũng thường gọi là “Kinh tế thông tin”, “Nền Kinh tế mới”, có thể coi là
xuất hiện sớm ở Mỹ vào đầu những năm 1970, sau đó ở nhiều nước công
nghiệp phát triển và ngày nay cả nước công nghiệp mới (NICs).
1.2 Khái niệm về kinh tế tri thức.
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về nền kinh tế tri thức như của :
Bộ Thương mại và Công nghiệp Anh (năm 1998), GS.VS. Đặng Hữu, Ngân


hàng thế giới, tổ chức OECD, APEC, Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt
Nam… Khái niệm kinh tế tri thức mà tiểu luận này dùng đó là: kinh tế tri
thức là một mức thang mới, là một bước tiến mới của quá trình phát triển

của kinh tế thế giới mà trong nền kinh tế đó, động lực chính yếu nhất cho sự
tăng trưởng chính là việc sử dụng tri thức, truyền bá và sản sinh ra thêm tri
thức mới. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức được sử dụng trong tất cả các
ngành, kể cả các ngành truyền thống và giá trị do tri thức tạo ra chiếm phần
lớn trong tổng giá trị sản phẩm của nền kinh tế.
1.3. Vai trò của nền kinh tế tri thức:
-Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển
chưa từng thấy của nhân loại. Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong
việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút
ngắn khoảng cách lạc hậu.
Từ những tri thức, công nghệ mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy
móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát triển
và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao đông mới, những nguyên liệu mới, năng
lượng mới...có thể tơi đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng
mới, đáp ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai
thác các nguồn tài nguyên hiện hữu sẽ tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên,
giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
- Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất, làm chó phân công lao động xã hội phát triển cả chiều
rộng lẫn chiều sâu.
Kinh tế tri thức được hình thành và phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất
sử dụng công nghệ cao. Ví dụ: Trong công nghiệp nuôi gà ở Cây Gáo huyện
Tràng Bom – Đồng Nai tự động. Từ đó mà tác động mạnh mẽ đến quá trình
phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh
tăng năng suất lao động thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng xanh,
cách mạng sinh học...
-Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học - kỹ
thuật, công nghiệp trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử
dụng, giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin, thuong mại,

tiền tệ,...với nhiều hình thức phong phú. Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống
xã hội, hướng đến một nền văn ming cao hơn.
1.4. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức:
-Trong nền KTTT, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các
sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động
trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm.


Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri
thức. Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã
hội, thay vì chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây.
Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử dụng
tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành.
Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là
thành phần quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế.
Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi mới trở
thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người.
-Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa,
làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó
mà còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế.
Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế- kỹ thuật sẽ làm thay đổi về chất
trong cơ cấu sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất
yếu dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu lao động xã hội. Nếu như trước đây,
lao động nông nghiệp chủ yếu bằng tay chân tay, thì sau đó lao động sản
xuất công nghiệp, lao động “ cổ xanh” hầu hết là bằng máy móc. Nhưng từ
những năm 70 đến nay, do lao động và công nghệ phát triển, đã là xuất hiện
một đội ngũ “ công nhân cổ trắng” và trong cơ cấu giá trị hàng hóa, lao động
trí óc đã chiếm tỷ trọng lớn.
- Qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm cho năng
xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng

loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm ngày
càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống…
sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều
sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội.
- Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành, có ảnh
hưởng to lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế, đặc
biệt giúp mở rộng thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia
đông đảo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Siêu xa lộ thông tin sẽ tạo ra
một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà không có biên giới.
Trong nền KTTT, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin,
lựu lượng sản xuất và các hoạt động kinh tế của mỗi con người, của mỗi
quốc gia đều mang tính toàn cầu.
- Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ,
nhất là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh
chóng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri
thức hóa đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển.


Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ
thuật hiện đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị
thì kinh tế tri thức mới được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn 70%
GDP phải được tạo ra từ các ngành sản xuất dịch vụ áp dụng công nghệ cao;
hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang lại; hơn 70% công nhân tri thức
trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con người.
Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc
trưng của sự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.
1.5. Những nhân tố tác động đến sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức:
- Thứ nhất, tác động của khoa học, công nghệ cao.
- Thứ hai, Kinh tế thị trường là động lực mạnh mẽ đẩy nhanh sự hình thành
và phát triển kinh tế tri thức toàn cầu.

- Thứ ba, Thương mại thế giới thúc đẩy sự hình thành và phát triển kinh tế
tri thức toàn cầu.
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC TRONG NHỮNG NĂM QUA Ở VIỆT NAM.
2.1. Quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tri thức.
Đại hội lần thứ IX (năm 2001) của Đảng đã lần đầu tiên đề cập đến vấn đề
phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tuy lần đầu tiên thuật ngữ “phát triển
kinh tế tri thức” được đưa vào đường lối, chiến lược phát triển đất nước,
nhưng Đảng đã coi phát triển kinh tế tri thức là cách thức để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để tạo ra những bước nhảy
vọt. Để thực hiện được những mục tiêu đề ra, Đảng ta đã đưa ra ba nhiệm vụ
chủ yếu là: “Nâng cao năng lực khoa học, công nghệ; đổi mới cơ chế quản
lý; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng”. Điều này không chỉ phản ánh tư duy
tích cực đổi mới, ngày càng nắm bắt xu thế tất yếu của thời cuộc mà còn cho
thấy sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về phát triển kinh tế tri thức nhằm
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại.
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế tri thức trong những năm qua.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 90 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định: “Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang
diễn ra mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước khác nhau”. Gần đây nhất, Đảng
ta đã xác định gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri
thức: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri
thức và bảo vệ môi trường”. (Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam),


trong đó Đảng ta khẳng định, phát triển khoa học và công nghệ thực sự là
động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Như vậy có
thể thấy ngay từ thời kỳ đầu, Đảng ta đã rất coi trọng việc tạo ra động lực
cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Tuy nhiên, hiện nay về cơ
bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang những dấu ấn của kinh tế

nông nghiệp, đang chuyển dần sang kinh tế công nghiệp. Vị trí của Việt
Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế
tri thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của
Việt Nam hiện đang là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72, trong khi
đó chỉ số KEI của một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44;
Malaysia là 6,07; Thái Lan là 5,52. Xét phương diện những đặc trưng của
nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam
hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp trong GDP
còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao. Cơ cấu lao động cũng chưa chuyển
biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất
cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ
khoảng 80% lực lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, nghiên
cứu, ứng dụng và triển khai.
Hiện nay, hàm lượng chất xám trong sản phẩm của Việt Nam là rất
thấp, “đến 2020 giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng
công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công
nghệ chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản phẩm công
nghiệp”. (Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam).
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với các
quốc gia trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng
0,3% GDP cho hoạt động khoa học, công nghệ, trong khi đó con số này ở
Malaysia là 1%, Singapore là 3%.
Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển dụng: năm 2012
mặc dù kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá sản hoặc giảm quy mô hoạt
động, Việt Nam vẫn “khát” nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua
đào tạo ở Việt Nam đạt khoảng 35%, đây là con số rất thấp so với các nước
trong khu vực và trên thế giới.
Một trong những tiêu chí quan trọng của kinh tế tri thức là sự ứng dụng công
nghệ vào sản xuất kinh doanh và quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp ở nước
ta đều thiếu thông tin về công nghệ. Theo một khảo sát của Viện Nghiên cứu

và Quản lý TW trên 82 doanh nghiệp, chỉ có 16 doanh nghiệp có ý tưởng đổi
mới công nghệ. Xét một cách tổng quát, những yếu tố cho sự ra đời và phát
triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ hình thành.


2.3. Những mặt hạn chế.
-Thứ nhất, Thiếu vắng một chiến lược tổng thể về xây dựng và phát triển
kinh
tế tri thức tận dụng tối đa điều kiện hội nhập quốc tế.
-Thứ hai, Các điều kiện vật chất - kỹ thuật để phát triển kinh tế tri thức vẫn
còn thiếu và yếu trên nhiều phương diện.
-Thứ ba, Trình độ phát triển kinh tế thị trường còn thấp.
-Thứ tư, Tính sẵn sàng cho hội nhập và phát triển chưa cao.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .
3.1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; bảo đảm
ổn định kinh tế vĩ mô; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
■ Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:
-Sức bật tăng trưởng nhờ đổi mới thể chế kinh tế:
Trong hai mươi năm thực hiện sự nghiệp CNH-HÐH nền kinh tế, tính
từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất là
trong năm năm đầu (1991-1995, riêng năm 1995 GDP tăng 9,5%, mức cao
nhất cho đến nay) và kéo dài đến hết năm 1996 (GDP tăng 9,3%), trước khi
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999). Có thể nói giai
đoạn này là thời kỳ nền kinh tế có sức bật mạnh nhất, nhờ động lực đổi mới
thể chế kinh tế (chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế mới). Nhưng thời gian tăng
trưởng chỉ được bốn năm (1992-1996), cuộc khủng hoảng tài chính khu vực
đã kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế từ năm 1997 đến năm 2000, mà năm
1999 được xem là đáy của suy giảm (GDP tăng 4,8%). Thể chế kinh tế chưa

đồng bộ và đủ mạnh để phát huy năng lực nội sinh của nền kinh tế (nội lực),
nên dù quy mô nền kinh tế còn quá nhỏ vẫn không 'trụ' được khi có tác động
từ bên ngoài. Trong thời kỳ này, Ðảng đề ra chủ trương phát huy nội lực,
dựa vào nội lực là chủ yếu để phát triển. Trên thực tế, việc đổi mới thể chế
kinh tế không theo kịp và chưa đáp ứng được chủ trương trên. Bước qua giai
đoạn 2001-2005, tình hình kinh tế khu vực và thế giới diễn biến thuận lợi,
môi trường kinh doanh trong nước được cải thiện hơn, nền kinh tế đã phục
hồi tốc độ tăng trưởng, nhưng chưa lấy lại được tốc độ của giai đoạn 19921996 (năm cao nhất là 2005, GDP cũng chỉ 8,4%) và bắt đầu suy giảm dần


từ năm 2006 (tăng 8,2%) cho đến chạm đáy vào quý 1-2009 (3,1%) do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Trong ba năm qua, chúng ta đã thành công trong việc chèo lái để đưa nền
kinh tế thoát nhanh khỏi tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu; nhưng cũng thể hiện rõ hơn những tiềm ẩn bất ổn từ
cơ cấu kinh tế. Trên thực tế, nền kinh tế nước ta chưa ra khỏi giai đoạn 1
(gia công, lắp ráp; xuất khẩu thô, lao động rẻ, dựa vào nước ngoài) của bốn
giai đoạn trong quá trình CNH, nên càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn
cầu, thì tình trạng nhập siêu càng tăng và dễ bị tổn thương do tác động bên
ngoài. Sự tăng đột biến về đầu tư từ năm 2001 đến nay, làm tăng nhanh hệ
số ICOR (năm 1991, yếu tố vốn chỉ đóng góp 8,4% vào tốc độ tăng trưởng;
lao động 16,9%; năng suất tổng hợp 74,7%; thì đến năm 2000, các con số
trên vào là 47,4%; 13,8% và 38,8%; năm 2005 là: 59,8%; 16,4% và 23,8%;
năm 2007 là: 59,5%; 14,8% và 27,7%...).
-Ðột phá khâu hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:
Ðiểm qua một số nét về những mặt tích cực và hạn chế qua bốn kế
hoạch năm năm để càng khẳng định rằng: trong chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội 2011-2020 tập trung vào ba đột phá chiến lược như đề ra trong Dự
thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 là đúng đắn. Chúng tôi
cho rằng, cần đột phá vào khâu hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo động lực cho

doanh nghiệp tái cấu trúc, nâng cao năng lực cạnh tranh cũng chính là tiền
đề để thực hiện hai khâu đột phá còn lại (nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng).
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều nội dung,
nhưng trong những năm tới, tôi đề nghị quan tâm các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, chính sách kinh tế ưu tiên cho bài toán 'tam nông'. Chúng ta phải
nhận diện cho được những nhược điểm của nền nông nghiệp Việt Nam trên
các phương diện cơ cấu sản phẩm, phương thức tổ chức sản xuất và tình
trạng 'thất nghiệp trá hình' trong khu vực nông nghiệp. Sự chuyển dịch cơ
cấu trong nông nghiệp cần đặt trọng tâm là cơ cấu lao động, chứ không phải
cơ cấu giá trị. Ở đây có nhiều vấn đề liên quan đến quan điểm lớn như: duy
trì mô hình nông hộ với hạn điền 3 ha hay phát triển theo quy mô mang lại
hiệu quả nhất? Phương thức tổ chức sản xuất; chính sách giảm rủi ro thị
trường cho sản xuất nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế;


vấn đề ứng dụng công nghệ sinh học trong canh tác và chế biến nông sản;
vấn đề đào tạo để chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành phi nông
nghiệp; vấn đề chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn nông
thôn... Cần xem lại tư duy cơ cấu kinh tế tỉnh; tránh tình trạng đất đai là 'bờ
xôi ruộng mật' biến thành các khu công nghiệp hoặc đô thị; thúc đẩy sự bố
trí sản xuất và dân cư trên phạm vi các vùng kinh tế. Xây dựng và ban hành
chính sách để các vùng chuyên canh lúa (2, 3 vụ) có thể cải thiện đời sống
không thấp hơn người lao động trong các khu công nghiệp nhằm tránh tư
tưởng bỏ sở trường chạy theo sở đoản ở các vùng chuyên canh nông nghiệp.
Xây dựng các 'cứ điểm công - nông nghiệp' theo quy mô vùng (Agroindustrial Clusters), nhằm nâng cao giá trị nông sản.
Thứ hai, sử dụng chính sách tài khóa và tín dụng để phát triển công nghiệp
phụ trợ, chuyển nền kinh tế từ gia công sang sản xuất là nhân tố quyết định
sự thành công khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong chuỗi giá trị tạo ra sản phẩm hàng hóa dịch vụ được nhìn nhận dưới
ba công đoạn: (1) Công đoạn nghiên cứu, thiết kế mẫu mã, sản xuất linh kiện

phụ kiện, chi tiết của sản phẩm; (2) Công đoạn sản xuất bao gồm gia công,
lắp ráp tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh và (3) Công đoạn phân phối, tổ chức bán
hàng. Trong ba công đoạn trên thì công đoạn 1 có giá trị gia tăng cao nhất,
tiếp đến là công đoạn 3; công đoạn có giá trị gia tăng thấp nhất là công đoạn
2. Nền công nghiệp nước ta chủ yếu ở công đoạn thứ hai này. Trong chiến
lược CNH, phải hướng nền kinh tế vào công đoạn 1 và tham gia vào công
đoạn 3. Nếu không làm như vậy thì nền kinh tế nước ta chỉ là một công
xưởng để gia công cho các tập đoàn đa quốc gia mà thôi. Sử dụng chính sách
thuế và chính sách tín dụng như là những công cụ chủ yếu để phát triển công
nghiệp phụ trợ và sự hình thành các cứ điểm sản xuất công nghiệp.
Thứ ba, sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước như công cụ để khắc phục
và hạn chế những khuyết tật của thị trường. Tái cấu trúc lực lượng doanh
nghiệp nhà nước (DNNN) để lực lượng này thật sự là sức mạnh vật chất,
cùng với thể chế kinh tế trở thành công cụ điều tiết thị trường có hiệu quả.
Ðây là một nội dung rất quan trọng, không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước về kinh tế, mà còn gắn kết được vấn đề kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội. Cần ban hành Luật kinh doanh vốn nhà nước để điều


chỉnh hoạt động kinh doanh vốn nhà nước (từ 1-7-2010 Luật DNNN hết
hiệu lực đã tạo ra lỗ hổng về hoạt động của lực lượng DNNN). Luật Doanh
nghiệp hiện hành chỉ điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp, không điều chỉnh
mối quan hệ giữa chủ sở hữu là Nhà nước với pháp nhân doanh nghiệp và
người quản trị doanh nghiệp; không điều chỉnh mục tiêu sử dụng vốn của
Nhà nước. Thứ tư, chế định mô hình 'công tư hợp tác' (PPP) trong đầu tư.
Mô hình PPP là phương thức đầu tư, mà theo đó Nhà nước bù đắp cho nhà
đầu tư phần hiệu quả kinh tế của dự án mang lại, nhưng không mang lại hiệu
quả tài chính trực tiếp cho nhà đầu tư. Hiện nay ở nước ta nhiều dự án đầu tư
vào cơ sở hạ tầng được thực hiện theo hình thức này, trong đó có các dự án
về giao thông, cấp nước, thu hút công nghiệp công nghệ cao... Với phương

thức này, vốn đầu tư của ngân sách nhà nước trở thành 'vốn mồi' để thu hút
đầu tư của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, hiện nay chưa có khung pháp lý rõ
ràng cho hình thức đầu tư này, mà còn mang tính tự phát, nên cần được chế
định khung pháp lý ở tầm quốc gia. Nếu áp dụng rộng rãi mô hình PPP, thì
nhiều loại dịch vụ và hàng hóa công cộng có thể thu hút khu vực tư nhân đầu
tư, thu hẹp số lượng DNNN đang thực hiện. Ðây chính là hình thức đầu tư,
mà nhà nước bổ khuyết cho thị trường, góp phần thực hiện chức năng của
nhà nước trong quản lý kinh tế. Thứ năm, xây dựng nền hành chính phục vụ
dựa trên cơ sở hình thành các tổ chức cung cấp dịch vụ công, các định chế
yểm trợ. Hiện nay, luật pháp nước ta chưa chế định các định chế cung cấp
dịch vụ công phi lợi nhuận. Cần xác định rõ bản chất của định chế cung cấp
dịch vụ công phi lợi nhuận là các tổ chức cung cấp các dịch vụ công cho xã
hội như: y tế, giáo dục, văn hóa, khoa học, dịch vụ đô thị, hỗ trợ pháp lý, hỗ
trợ thông tin; các tổ chức khuyến nông, khuyến ngư... do các thành phần
kinh tế và Nhà nước đầu tư; được thành lập để phục vụ cho lợi ích chung của
xã hội, của cộng đồng, mà nhà đầu tư không thu lợi nhuận về cho mình (nhà
đầu tư không thu lợi nhuận không có nghĩa là tổ chức đó không hoạt động
kinh doanh, mà phải mang tính chất kinh doanh nhằm tích tụ vốn để không
ngừng phát triển). Ðể thực hiện vai trò này của Nhà nước, cần sớm xây dựng
một đạo luật về các tổ chức dịch vụ công phi lợi nhuận. Khi có đạo luật này,
thì vai trò quản lý Nhà nước chính là giám sát sự hoạt động của các tổ chức
trên, chứ không phải làm thay các tổ chức này.


■ Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô:
- Duy trì đà tăng trưởng ổn định:
Theo đánh giá của Chính phủ, trong 3 năm vừa qua, thực hiện nhiệm vụ ưu
tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp
lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, nên một số
chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế và liên quan được điều chỉnh và về cơ bản đã

đạt được theo các mục tiêu điều hành (các kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội hằng năm).
Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kinh tế- xã hội 5 năm (2011-2015) của
Chính phủ nhận định: "Thời gian qua, chúng ta đã chủ động tranh thủ thời
cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội theo các Nghị quyết của
Quốc hội và đã đạt được một số kết quả nhất định, đã tạo ra những chuyển
biến tích cực, đúng hướng trên tất cả các lĩnh vực".
3 năm qua (2011-2013), chúng ta đã kiên trì theo đuổi mục tiêu ưu tiên kiềm
chế lạm phát, áp dụng đồng bộ các biện pháp, nhờ vậy lạm phát giảm từ mức
18,13% năm 2011 xuống 6,81% năm 2012 và năm 2013 kiểm soát ở mức
6,04%. Từ năm 2011 đến nay, mặt bằng lãi suất huy động giảm từ mức 1718% xuống còn 7-10%/năm, mặt bằng lãi suất cho vay giảm còn 912%/năm, hiện lãi suất cho vay khoảng 9-11,5% (các lĩnh vực ưu tiên là 79%). Thị trường ngoại tệ tự do dần bị thu hẹp, tình trạng đô la hóa, vàng hóa
giảm đáng kể; niềm tin vào giá trị tiền Việt Nam được tăng lên. Xuất khẩu
tăng mạnh, cán cân thương mại được cải thiện. Dự trữ ngoại tệ nhà nước
tăng lên trên 12 tuần nhập khẩu; tỷ giá được giữ khá ổn định. Chính phủ
đang tập trung chỉ đạo bảo đảm kế hoạch thu chi ngân sách, giữ bội chi ở
mức 5,3% GDP. Nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia trong
giới hạn an toàn...
Trong bối cảnh đó, kinh tế dần được phục hồi, tăng trưởng đạt mức khá. Đã
tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải
quyết nợ xấu. Năm 2011 tăng trưởng GDP đạt 6,24%, năm 2012 đạt 5,25%;
năm 2013 tăng 5,42%. Bình quân 3 năm, GDP tăng 5,6%/năm, cao hơn mức
tăng trưởng bình quân của các nước ASEAN cùng thời kỳ. Sản xuất công
nghiệp, xây dựng từng bước được cải thiện, nhất là công nghiệp chế biến,
chế tạo. Tình hình tồn kho tăng cao đến nay cơ bản đã trở lại bình thường.
Khu vực nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định. Khu vực dịch vụ tăng
trưởng khá.


Cũng theo nhận định của Chính phủ, chất lượng tăng trưởng đã được nâng

lên một bước. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được cải thiện. Hệ số ICOR
giảm từ 6,7 giai đoạn 2008-2010 xuống còn 5,53 giai đoạn 2011-2013. Năng
suất lao động năm 2013 tăng 10,1% so với năm 2010. Những kết quả nêu
trên là cố gắng rất lớn trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm, trong nước
tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội
và quốc phòng, an ninh.
Chính phủ cũng thẳng thắn nhìn nhận, do ưu tiên mục tiêu điều hành ổn định
kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát nên mức tăng trưởng kinh tế mấy năm qua
đều không đạt mục tiêu kế hoạch, kể cả so với kế hoạch đã được điều chỉnh.
Nếu tính theo giá so sánh năm 2010, mức tăng trưởng GDP các năm 2011 và
2012 lần lượt là 6,24% và 5,25%; năm 2013 là 5,42% và bình quân 3 năm
2011-2013 là 5,6%.

3.2. Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại,
nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh.
Cơ cấu lại sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế – kỹ thuật, vùng và giá
trị mới. Tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa trong
sản phẩm. Phát triển có chọn lọc công nghiệp chế biến, chế tác, công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp năng lượng, khai khoáng, luyện kim, hoá chất,
công nghiệp quốc phòng. Ưu tiên phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh
tranh, sản phẩm có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn
cầu thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp cơ khí, công
nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp dược… Phát triển
mạnh công nghiệp hỗ trợ. Chú trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông
nghiệp, nông thôn, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và vật liệu mới đi
đôi với áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu. Từng bước
phát triển công nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường. Tiếp tục phát
triển phù hợp các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động.
Phát huy hiệu quả các khu, cụm công nghiệp và đẩy mạnh phát triển công
nghiệp theo hình thức cụm, nhóm sản phẩm tạo thành các tổ hợp công

nghiệp quy mô lớn và hiệu quả cao; hoàn thành việc xây dựng các khu công
nghệ cao và triển khai xây dựng một số khu nghiên cứu cải tiến kỹ thuật và
đổi mới công nghệ. Thực hiện phân bố công nghiệp hợp lý trên toàn lãnh
thổ, bảo đảm phát triển cân đối và hiệu quả giữa các vùng.
Phát triển ngành xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Nhanh chóng
tiếp cận và làm chủ các công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực công nghiệp


xây lắp đáp ứng yêu cầu xây dựng trong nước và có khả năng cạnh tranh
trong đấu thầu quốc tế. Phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng, nhất
là vật liệu chất lượng cao, áp dụng công nghệ mới.
3.3. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là các dịch vụ có giá trị
cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh.
Phát triển khu vực dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực sản
xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP là một hướng quan trọng chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức
và công nghệ cao như du lịch, hàng hải, hàng không, viễn thông, công nghệ
thông tin, y tế. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu
vực và quốc tế. Mở rộng thị trường nội địa, phát triển mạnh thương mại
trong nước; đa dạng hoá thị trường ngoài nước, khai thác có hiệu quả các thị
trường có hiệp định mậu dịch tự do và thị trường tiềm năng, tăng nhanh xuất
khẩu, giảm nhập siêu cả quy mô và tỉ trọng, phấn đấu cân bằng xuất nhập
khẩu. Chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu, phát triển nhanh hệ
thống phân phối các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở cả trong và ngoài
nước, xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam . Đa dạng hóa sản phẩm và
các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng để đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hiện đại
hóa và mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, chứng khoán, lô-gi-stíc và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác.
Phát triển mạnh dịch vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn

hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội.
3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát
triển nhanh giáo dục và đào tạo.
Một yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là
nguồn nhân lực phải có sức khỏe và tiếp thu nhanh kiến thức khoa học, công
nghệ mới, có kỹ năng làm việc trong môi trường công nghệ, kỹ thuật ngày
càng đổi mới và phát triển. Phát triển nguồn nhân lực là một trong ba giải
pháp đột phá chiến lược góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh
nguồn nhân lực và phát triển kinh tế xã hội. Nghị quyết của Hội nghị lần thứ
6, Ban Chấp hành Trung ương khóa 10, đã xác định: “Trí thức hóa công
nhân là một nhiệm vụ chiến lược; cần xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học
vấn chuyên môn và kỹ năng nghề cao”. Đây là một trong những yêu cầu
quan trọng trong tiến trình đưa Việt Nam hội nhập với sự phát triển chung
của thế giới. Hiện nay, khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi
một đội ngũ nhân lực trình độ cao, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học – kỹ


thuật và công nghệ thông tin. Tại Việt Nam, những năm gần đây, nhóm
ngành này nhận được nhiều sự đầu tư từ Nhà nước và Chính phủ. Trong đó
phải kể tới việc thành lập trường Đại học FPT theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, trường Đại học FPT đã
đào tạo cho thị trường lao động một đội ngũ chuyên viên, lập trình viên trẻ,
có trình độ chuyên môn cao. Đây là cơ sở được nhận danh hiệu Trường đại
học đào tạo công nghệ thông tin thành công nhất năm 2012 do hội, hiệp hội
công nghệ thông tin Việt Nam (ICT) trao tặng. Phó Hiệu trưởng trường Đại
học FPT, ông Nguyễn Xuân Phong cho biết: “Chúng tôi xây dựng các
chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế bằng tiếng Anh, đồng thời gắn kết
chặt chẽ các chương trình đào tạo cũng như hoạt động với doanh nghiệp,
mời các chuyên gia có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành tham gia giảng
dạy, đặc biệt là tham gia giảng dạy những môn mang tính thực hành cao

hoặc những môn đòi hỏi kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn. Chúng tôi cũng
có chương trình đưa toàn bộ sinh viên đi thực tập tại doanh nghiệp trong
thời gian từ 4 đến 8 tháng, nhờ đó, sinh viên FPT ra trường có đủ kiến thức,
kỹ năng theo chuẩn quốc tế, đồng thời có những kinh nghiệm thực tế làm
việc trong các doanh nghiệp cũng như kinh nghiệm làm những dự án thực.
Như vậy sẽ đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp không chỉ ở Việt
Nam mà còn ở nước ngoài”.
Hiện nay, bên cạnh các hệ đào tạo trung cấp, cao đẳng, chính quy, tại Việt
Nam có khoảng trên 1300 trường dạy nghề. Trước yêu cầu phát triển thời kỳ
mới của đất nước, chất lượng đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề càng được
chú trọng hơn bao giờ hết bởi đây là nơi cung cấp một số lượng lớn nguồn
nhân lực cho thị trường lao động. Do đó, mục tiêu tổng quát trong chiến
lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 – 2020, nằm trong chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê
duyệt năm 2012 nêu rõ:“Đến năm 2020, dạy nghề đáp ứng được nhu cầu
của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ
đào tạo; chất lượng đào tạo của một số nghề đạt trình độ các nước phát
triển trong khu vực ASEAN và trên thế giới; hình thành đội ngũ lao động
lành nghề, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia”. Bà Phạm Thị
Hải Chuyền, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, cho
biết: Việt Nam có số lượng lao động trẻ đông, nhưng lao động trình độ cao
chưa nhiều. Vì vậy, Chính phủ đã có một chiến lược về dạy nghề và trong đó
có quan tâm đến dạy nghề cho thanh niên để tạo điều kiện cho thanh niên dễ
tìm việc làm và tìm việc làm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu của
các doanh nghiệp phát triển trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình đào
tạo này có sự phối hợp giữa doanh nghiệp và nơi đào tạo. Đặc biệt là tạo


điều kiện cho các doanh nghiệp đào tạo người lao động ngay tại đơn vị đó
để người lao động được nâng cao tay nghề, nâng cao kỹ năng nghề, đáp

ứng được nhu cầu lao động mà đơn vị, doanh nghiệp yêu cầu cũng như yêu
cầu phát triển chung của đất nước về nhu cầu nâng cao kỹ năng nghề cho
đội ngũ lao động, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta.
Lực lượng lao động Việt Nam hiện nay được các chuyên gia quốc tế và khu
vực đánh giá là rất năng động, học hỏi nhanh, có khả năng bắt kịp trình độ
thế giới ở một số lĩnh vực nghề nghiệp. Đây là điều kiện thuận lợi và cũng là
ưu điểm mà đội ngũ công nhân Việt Nam thời kỳ mới sẽ tiếp tục duy trì và
phát huy để đảm bảo yêu cầu phát triển của đất nước.
3.5. Tập trung phát triển KH&CN, đảm bảo thực sự là động lực then
chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình
phát triển nhanh và bền vững. Tập trung tái cơ cấu đầu tư khoa học, công
nghệ nhằm tạo ra sản phẩm công nghệ cao, đầu tư xây dựng một số viện
nghiên cứu trọng điểm đầu ngành và một số trường đại học nghiên cứu đạt
trình độ khu vực và quốc tế.
Bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh tế tri thức
ngày nay đang tạo ra cơ hội và thách thức lớn đối với KH&CN nước ta. Để
KH&CN thực sự trở thành động lực then chốt của sự phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau đây:
Nâng cao nhận thức xã hội, các cấp uỷ đảng, chính quyền và doanh nghiệp
về vị trí, vai trò then chốt của KH&CN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước. Cấp uỷ, chính quyền các cấp cần coi phát triển và đẩy mạnh ứng dụng
KH&CN là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm; gắn mục tiêu, nhiệm vụ
KH&CN với các mục tiêu, nhiệm vụ, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã trong từng ngành, lĩnh vực, địa phương.
Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động
KH&CN, coi đây là khâu đột phá để phát triển và nâng cao hiệu quả
KH&CN, trong đó, trọng tâm là đổi mới phương thức đầu tư, cơ chế tài
chính và chính sách đối với cán bộ KH&CN.
Việc phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước dành cho KH&CN hàng năm

cần phù hợp với phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ KH&CN chủ yếu trong
từng giai đoạn; căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí KH&CN của
Bộ, ngành, địa phương để có những điều chỉnh phù hợp nhằm khắc phục
tình trạng dàn trải, phân tán, sử dụng không đúng mục đích, không hiệu quả


nguồn vốn này. Cơ chế tài chính của hoạt động KH&CN, nhất là đối với các
nhiệm vụ KH&CN cần phải linh hoạt, kịp thời theo tiến độ đặt hàng hoặc đề
xuất, đáp ứng đòi hỏi cấp thiết, trực tiếp hoặc lâu dài của mỗi loại nhiệm vụ.
Nội dung, định mức chi thực hiện nhiệm vụ KH&CN, thủ tục thanh quyết
toán nhiệm vụ KH&CN cần đơn giản hoá, phù hợp với thực tiễn và đặc thù
của hoạt động KH&CN.
Đổi mới phương thức huy động các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển
KH&CN, nhất là từ doanh nghiệp. Có cơ chế, chính sách khuyến khích và
tạo sức ép buộc doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu, phát triển, đổi mới
công nghệ và trở thành nơi cung cấp, sử dụng công nghệ lớn trên thị trường,
trong đó các doanh nghiệp KH&CN đóng vai trò nòng cốt.
Đổi mới phương thức xây dựng và triển khai các nhiệm vụ KH&CN theo
hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu. Các nhiệm
vụ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, nghiên cứu
phục vụ hoạch định đường lối, chính sách, quốc phòng, an ninh và mục đích
công cộng cần có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào những lĩnh vực mà
Việt Nam có lợi thế. Các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng cần hướng vào đáp
ứng nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp và yêu cầu phát triển của ngành,
lĩnh vực, vùng, địa phương. Tập trung nguồn lực để nghiên cứu phát triển
các hướng KH&CN trọng điểm có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế,
đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới và kỹ thuật hiện đại, phát triển
công nghệ cao, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hoá vào sản xuất và đời
sống nhằm tạo ra những sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao,

đáp ứng nhu cầu thiết thực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đa dạng hoá
phương thức triển khai nhiệm vụ KH&CN như giao, khoán, đấu thầu, đặt
hàng... cùng với cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KH&CN cuối cùng,
trong đó đẩy mạnh thực hiện phương thức đặt hàng nhiệm vụ, sản phẩm
KH&CN gắn với trách nhiệm của người đặt hàng, tổ chức chủ trì, cá nhân
chủ nhiệm thực hiện nhiệm vụ KH&CN trong việc sử dụng kết quả phục vụ
phát triển đất nước, các ngành và các địa phương.
Xây dựng và thực thi chính sách phát hiện, thu hút, đào tạo, trọng dụng, đãi
ngộ, tôn vinh cán bộ KH&CN trình độ cao, có kết quả nghiên cứu đạt trình
độ quốc tế, có sản phẩm khoa học có giá trị đối với đất nước. Tạo điều kiện
thuận lợi để trí thức người Việt Nam ở nước ngoài, các nhà khoa học nước
ngoài tham gia hoạt động KH&CN ở Việt Nam. Đẩy mạnh hợp tác và chủ
động hội nhập quốc tế về KH&CN, đặc biệt là với các địa bàn trọng điểm có
công nghệ nguồn cần khai thác, giải mã và chuyển giao để phục vụ yêu cầu


đổi mới công nghệ trong nước, nâng cao năng lực KH&CN quốc gia, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
KH&CN sẽ thực sự trở thành động lực cho tăng trưởng kinh tế nếu đáp ứng
nhu cầu của thị trường, được doanh nghiệp ứng dụng và sử dụng hiệu quả
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo ra sản phẩm, hàng hoá và dịch
vụ có chất lượng cao. Chỉ có thông qua doanh nghiệp, KH&CN mới được
“vật chất hoá” và thực sự phát huy đầy đủ được sức mạnh của mình.
VII. Tài liệu tham khảo.
1. Tạp chí kinh tế và phát triển – (Tháng 8/2011)
2. Giáo trình đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
3. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
4. Định hướng phát triển kinh tế tri thức Việt Nam (2003), Nhà xuất bản
thống kê.
5. Các website :

-Học viện báo chí tuyên truyền
- Diễn đàn sinh viên Học viện hành chính.
www.dangcongsan.vn
/> />


×