Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.43 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A . Lời mở đầu ………………………………………………………1
B. Noi dung
I/ Nghiên cứu cơ sở lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam..............................................................................2
1. Khái niệm về nền kinh tế thị trường..................................2
2. Sự cần thiết tồn tại kinh tế thị trường................................3
3. Bản chất kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 4
4. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa........5
II/ Thực trạng việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta.......................................................7
1. Trước đổi mới....................................................................7
2. Sau đổi mới........................................................................8
3. Những hạn chế.................................................................10
III/ Giải pháp cơ bản tiếp tục phát triển kinh tế thị trường . .13
1. Thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần................13
2. Mở rộng phân công lao động…………….......................13
3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.........................................................14
4. Giữ vững ổn dịnh chính trị……………………...............15
5. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô15
6. Thực hiện chính sách đối ngoại…………………...........16
7. Giải quyết những hạn chế................................................16
Kết luận......................................................................18
Tài liệu tham khảo.....................................................19
1
A ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ năm 1975, khi cả nước độc lập. Cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành
trên phạm vi cả nớc thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa xã hội.
Đảng ta đã chủ trương giữ vững quan điểm cũng như con đờng mà chủ tịch Hồ
Chí Minh đã lựa chọn là tiến lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm đưa đất nước trở


thành một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về kinh tế chính trị, xã hội công
bằng văn minh. Để đạt được như vậy, Đảng ta đã chủ trương phải ưu tiên phát
triển kinh tế và coi đó là vấn đề sống còn và một trong số đó là xây dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế vấn đề nhà nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của
nhiều nhà kinh tế trong nhiều thập kỷ qua. Do đó mà ở nước ta cũng như các n-
ước khác trên thế giới muốn tìm tòi mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và
hiệu quả hơn. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII
trình đại hội IX của Đảng ta có đề cập : “ Nhà nước quản lý kinh tế bằng pháp luật,
chiến lược, qui hoạch, kế hoạch, chính sách nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động”
Chính vì vậy mà xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một yếu tố tất yếu cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta,
và nhờ có đường lối đúng đắn kinh tế nớc ta đã thoát khỏi những khủng hoảng đạt
tốc độ tăng trởng nhanh, đời sống nhân dân đợc cải thiên đáng kể, chính trị xã hội
ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia đợc giữ vững. Nước ta từ một nứoc có nên
kinh tế quan liêu, bao cấp đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trờng định
hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên quy luật giá trị và tín hiệu cung cầu của thị
trường.
2


B. NỘI DUNG
I/ NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ ĐỊNH HưỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở NưỚC TA:
1) Khái niệm về nền kinh tế thị trờng:
Theo quan điểm của Samuelson trích trong kinh tế học thì: “ Một nền kinh tế
thị trờng là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác nhân dân và
doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trờng. Nó là một phương tiện giao
thông để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có

bộ não trung tâm nó vẫn giải đợc bài toán mà máy tính lớn nhất hiện nay cũng
không thể giải nổi. Không ai thiết kế ra nó. Nó tự xuất hiện và nó đang thay đổi
cũng nh xã hội loài người.”
Theo quan điểm của đảng ta, một nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ
bản của nó do thị trường quyết định được xem là nền kinh tế thị trường. Nói cách
khác nền kinh tế thị trường chính là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của
cơ chế thị trường. Nền kinh tế này khác với nền tập trung ở chủ thể xác định các
vấn đề cơ bản của nền kinh tế mà nền kinh tế tập trung chủ thể này là nhà nước
thông qua các mệnh lệnh hành chính. Chính sự khác biệt này tạo ra sức mạnh và là
động lực cho nền kinh tế phát triển.
Tại Việt Nam kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, chúng ta đã xác định
xây dựng nền kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tức là
có sự can thiệp của nhà nớc vào nền kinh tế nhng không phải can thiệp vào nền
kinh tế theo kiểu mệnh lệnh hành chính mà can thiệp thông qua các chính sách
kinh tế vĩ mô nhằm ổn định nền kinh tế và tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh
tế tham gia vào sản xuất và kinh doanh. Sự can thiệp này đợc xem là cần thiết
nhằm thiết lập khuôn khổ pháp luật phù hợp, sữa chữa những khuyết tật của thị tr-
3
ường, đảm bảo sự công bằng xã hội và ổn định nền kinh tế vĩ mô ( Kinh tế học –
Samuelson). Đây là lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp đã đợc Samuelson đa ra/ Theo
ông phát triển kinh tế phải dựa trên hai bàn taylà cơ chế thị trường và nhà nước:
“điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường thì cũng như
định vỗ bằng một bàn tay”. Tuy nhiên trong hoàn cảnh nước ta thì sự can thiệp của
nhà nước còn đóng vai trò giữ cho nền kinh tế đi theo đúng định hớng xã hội chủ
nghĩa.
2) Sự cần thiết tồn tại kinh tế thị trường:
Việt Nam đang tồn tại đủ các điều kiện cần thiết là cơ sở tồn tại của nền kinh
tế hàng hoá. Phân công lao động đang phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
nhiều ngành nghề mới đã ra đời, đặc biệt là những ngành công nghiệp có hàm l-
ượng kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm cao như điện tử, tin học… Bên cạnh đó các

làng nghề cổ truyền cũng đang phát triển mạnh mẽ. Các sản phẩm của ngành đang
từng bước khẳng định thơng hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây chính
là những thế mạnh củaViệt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.Sự phát
triển này đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng của lực ưlợng sản xuất.
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI. Việt Nam đã chính thức thừa nhận
sự tồn tại của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nhờ đó các thành phần
kinh tế này đã có những điều kiện cần thiết để phát triển. Từ đó xuất hiện sự khác
biệt giữa các hình thức sở hữu về t ư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Đây
chính là điều kiện đủ để nền kinh tế hành hoá có cơ sở ra đời. Khác biệt về sở hữu
về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động đã tạo ra động lực to lớn để thúc đẩy kinh
tế phát triển mặc dù mặt trái của nó là sự phân hoá về giàu và nghèo.
Sau một thời gian dài duy trì cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã đến
lúc chúng ta cần một sự chuyển đổi để phát triển kinh tế. Cơ chế thị trường với
những u thế không thể chối cãi là một sự lựa chọn hợp lý và cần thiết. Cơ chế quản
lý cũ cồng kềnh, kém năng lực đã không còn phù hợp với tình hình trong nước và
quốc tế. Những căn bệnh đặc trng của cơ chế cũ như bảo thủ, trì trệ, kém năng lực
4
hình thành nên bộ máy quản lý thiếu chuyên môn nghiệp vụ nhng lại có thái độ
quan liêu, cửa quyền cần phải được thay đổi. Thực tế cho thấy trải qua gần hai mơi
năm đổi mới gây dựng nhng chúng ta vẫn phải thực hiện các cuộc chỉnh đốn Đảng,
cải cách bộ máy hành chính chứng tỏ những quan niệm cũ sai lầm đã ăn sâu bám rễ
nh thế nào. Việc xoá bỏ hoàn toàn không dễ dàng, không thể hoàn thành trong một
sớm một chiều nhng đó là việc cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Cùng với
cơ chế cũ cũng là sự bất cập khi nhà nớc can thiệp quá sâu vào sản xuất kinh
doanh,
điều hành không tuân theo các qui luật kinh tế mà theo cảm tính dẫn đến sự
thất bại trong thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đã đề ra. Chuyển sang cơ chế
mới sẽ tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển theo đúng những qui luật
kinh tế khách quan.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng việc chuyển đổi sang mô hình kinh

tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó chúng ta
đã bớc đầu khai thác đợc tiềm năng trong nớc đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật n-
ớc ngoài, giải phóng đợc năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản
xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trởng GDP bình quân hằng năm
trong những năm 2000 là 7%. Trong đó nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là
sản xuất lương thực đa Việt Nam trở thành nớc thứ ba trên thế giới về xuất khẩu l-
ương thực. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13,5%. Hệ thống
kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cờng. Đời sống nhân dân được cải
thiện, nâng cao tích luỹ xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển trong tương lai.
3) Bản chất kinh tế thị trờng định hướng xã hội chủ nghĩa:
Nền kinh tế thị trờng định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có một số điểm
như sau:
Thứ nhất , quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường
đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị trư-
ờng thế giới.
5
Thứ hai, bản chất của quá trình chuyển nền kinh tế nớc ta sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình chuyển nền kinh tế còn
mang nặng tính chất tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế
thị trờng và qua trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự phát triển của chủ nghĩa t bản đã khẳng định nền kinh tế hàng hoá đã làm
cho thị tưrờng dân tộcgắn bó và hoà nhập với thị trường thế giới, Chính giao lu
hàng hoá đã làm cho quan hệ quốc tế đợc mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển một cách nhanh chóng.
Trong quan hệ quốc tế chúng ta có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã
chuyển quan hệ quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các n-
ước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và
không can hệ vào chuyện nội bộ của nhau.
4) Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta:
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân lao động và tất cả các thành viên
trong xã hội. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ
sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt: sở hữu, quản lý và phân phối.
Về sở hữu sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác
nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện
đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và
phát triển chế độ sở hữu công cộng về t liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc,
tránh nóng vội xây dựng ồ ạt mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
6
Về quản lý trong kinh tế thị trường địng hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế
thị trờng, các hình thức kinh tế và phơng thức quản lý kinh tế thị trờng để kích
thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những
mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trờng, bảo vệ lợi ích nhân dân lao động và
toàn thể quần chúng nhân dân.
Về phân phối kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua
phúc lợi xã hội. Cơ chế phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh
tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đông thời hạn chế những bất
công trong xã hội.Thực hiện tăng trởng kinh tế gắn liền với công bằng xã hội ngay
trong từng bớc phát triển.
Tính định hớng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trờng nớc ta còn thể
hiện ở chỗ tăng trởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, giáo dục xây dựng

nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác
Lênin, t tởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân
dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con nguời, xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực của đất nớc.
Chủ trơng xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trờng, định hớng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của nhà nớc thể hiện trình độ t duy và vận dụng của Đảng ta về
qui luật sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất. Đây là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
II/THỰC TRẠNG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH
TẾ THỊ TRưỜNG ĐỊNH HưỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NỚC TA:
1)Trước đổi mới:
7
Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách
mạng Việt Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu
ảnh hưởng nặng nề do chiến tranh kéo dài. Trong 15 năm nhân dân ta đã không
ngừng phấn đấu vựot qua bao khó khăn thử thách mới giành được độc lập thống
nhất đất nước. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước xác lập quan hệ sản
xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát
triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y tế, thiết lập củng cố chính quyền nhân dân
trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản
xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự cung tự cấp. Trình độ
trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như trong kết cấu hạ tầng kinh tế
văn hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc
nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu
quả tiêu cực do đó nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều với đặc trưng sản xuất chậm và
không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động

và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn
hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được đảm
bảo, tham nhũng nhiều và tệ nạn xã hội phát triển.
Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp
hành Trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được chấp
nhận nhưng mới ở mức độ thứ yếu. Đó là do qua nhiều thập kỷ qua, tư tưởng kinh
tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến coi quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trư-
ờng là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng ta
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều chủ quan duy ý chí
các mặt bố trí cơ cấu kinh tế thiếu về phát triển công nghiệp nặng, quy mô lớn với
xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ t hữu về tư liệu sản xuất, phát triển
8

×