Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.3 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TƠ XN HỒNG

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG CÁC VỤ TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Tuyết

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ, đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Sơn
La”, là cơng trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các kết luận khoa học
trong luận văn chưa từng được cơng bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào
khác. Các số liệu, trích dẫn trong Luận văn, đảm bảo trung thực, khách quan.

XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN
HƯỚNG DẪN



PGS.TS. Phạm Văn Tuyết

NGƯỜI CAM ĐOAN

Tơ Xn Hồng


MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC ................................................................................................
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................... 1
Chương 1. ĐẶC ĐIỂM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ ......................................... 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về tai nạn giao thông đường bộ ......................... 6
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ ................................................................................. 16
1.3. Phạm vi bồi thường và cơ sở để xác định mức bồi thường thiệt hại. .. 22
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ GÂY
RA................................................................................................................ 30
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ .......................................................................... 30
2.2. Xác định thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ theo quy
định của pháp luật .................................................................................... 34
2.3. Người phải bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ. .. 42
Chương 3. TÌNH HÌNH TAI NẠN GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ SƠN LA TRONG BA NĂM GẦN ĐÂY, XỬ LÝ
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN GIAO THƠNG ĐƯỜNG

BỘ GÂY RA ................................................................................................ 50
3.1. Tình hình tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Sơn La
trong ba năm gần đây ............................................................................... 50


3.2. Thực tiễn giải quyết, xử lý về bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Sơn La trong thời gian ba năm
qua ........................................................................................................... 55
3.3. Một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn giải quyết, xử lý về bồi
thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn
Thành phố Sơn La trong thời gian ba năm qua ......... …………………….60
3.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tai nạn giao thông đường bộ gây ra ....................... ……………………….69
KẾT LUẬN .......................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Khi thiệt hại xảy ra do tai nạn thì vấn đề khắc phục hậu quả về mặt vật chất
luôn được đặt ra nhằm tháo gỡ khó khăn và ổn định cuộc sống cho người bị
tai nạn và gia đình của người đó. Tai nạn ln tiềm ẩn trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống thường ngày. Ở nước ta, giao thông vận tải đường bộ đóng vai trị
quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân nhưng tai nạn xảy ra trong
q trình hoạt động giao thơng đường bộ ở nước ta hiện nay đang được coi là
một vấn nạn vì liên tục xảy ra và con số người bị tử nạn do tai nạn giao thơng
gây ra cịn nhiều hơn so với dịch bệnh, đại dịch bệnh. Ngoài ra, tai nạn giao
thơng đường bộ cịn mang đến tổn thất nặng nề vật chất cho tồn xã hội nói

chung. Vì vậy, cơng cuộc phịng chống tai nạn giao thơng là nhiệm vụ cấp
bách, thiết thực thuộc chương trình hành động quốc gia. Quy định của pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã tương đối cụ thể và đầy đủ. Tuy
nhiên, việc áp dụng quy định của pháp luật để giải quyết việc bồi thường thiệt
hại trong các vụ tai nạn giao thơng đường bộ trong thực tế cịn nhiều vấn đề
cần phải quan tâm. Chẳng hạn, thế nào là tai nạn, tai nạn giao thông đường
bộ; áp dụng loại trách nhiệm nào để giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong
từng vụ tai nạn giao thông cụ thể; ai là người phải bồi thường thiệt hại…là
những vấn đề còn nhiều tranh cãi. Về nguyên tắc, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ được đặt ra khi có đủ bốn điều kiện: Có thiệt hại
xảy ra; hành vi gây thiệt hại trái pháp luật; lỗi; mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Tuy nhiên, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ có thể khơng cần đến
yếu tố lỗi. Lựa chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Sơn La” để nghiên cứu về
các loại trách nhiệm được áp dụng khi giải quyết các vụ tai nạn giao thơng
đường bộ nhằm góp phần giải quyết tồn tại nói trên.
2. Tình hình nghiên cứu


2

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được nhiều người
nghiên cứu với nhiều cơng trình khoa học đã được công bố. Chúng tôi xin
điểm qua một số cơng trình khoa học đã được cơng bố sau đây:
- Cơng trình khoa học là luận văn: Luận văn thạc sỹ luật học của Lê Mai
Anh “Những vấn đề cơ bản về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”; Luận
văn thạc sỹ luật học của Lê Thị Bích Lan “Một số vấn đề về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và
uy tín”; Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Minh Châu “Bồi thường thiệt

hại trong trường hợp tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm, một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”. Những luận văn này chỉ nghiên cứu chung về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Cơng trình khoa học là luận án: Luận án tiến sĩ luật học của Phạm Kim
Anh “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”;
luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Thanh Hồng “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ”; Luận án tiến sĩ của Phạm
Kim Anh nghiên cứu một cách hệ thống về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
nói chung; Luận án của Nguyễn thanh Hồng nghiên cứu chuyên sâu về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ trong
phạm vi tồn quốc.
- Cơng trình là sách chun khảo: “Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm”
- Ngồi ra, có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật liên
quan đến đề tài như “Bàn về yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng” của TS.Phùng Trung Tập (Tạp chí Luật học số 10/2004);
hay “Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra” của Hoàng Đạo, Vũ Thị Lan Hương (Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 13/2013)…
Với tình hình trên, đề tài mà học viên lựa chọn để thực hiện luận văn thạc
sĩ luật học của mình nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong các vụ tai nạn giao thông trong phạm vị một địa giới hẹp là một đề
tài độc lập.


3

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông tại địa bàn thành phố Sơn La” với mục đích xác định bản chất của

tai nạn giao thông; xác định các loại trách nhiệm bồi thường trong tai nạn giao
thông; xác định trách nhiệm được áp dụng để giải quyết các vụ tai nạn giao
thơng đường bộ; tìm hiểu, thống kê tình hình tai nạn giao thông đường bộ trên
địa bàn thành phố Sơn La và thực tế áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng để giải quyết việc bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ xảy ra trên địa bàn thành phố Sơn La trong ba năm gần
đây nhất. Qua đó, nêu quan điểm của mình trong việc áp dụng pháp luật về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết việc bồi thường trong các
vụ tai nạn giao thông đường bộ. Xác định sự phù hợp cũng như tìm ra các bất
cập trong quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và
nêu hướng hoàn thiện đối với các bất cập, hạn chế đó.
Với mục đích trên, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng và việc vận
dụng quy định đó để giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp phân
tích, so sánh đối chiếu, tổng hợp để xem xét đưa ra cách hiểu thống nhất và
khoa học về những quy định của pháp luật có liên quan đến các vấn đề mà đề
tài có nhiệm vụ nghiên cứu. Tác giả cũng sử dụng số liệu thống kê của các cơ
quan chun mơn để xác định tình hình thực tế về tai nạn giao thông trên địa
bàn được xác định theo đề tài và thực tiễn áp dụng pháp luật của cơ quan có
thẩm quyền trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao
thông đường bộ.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học, trên cơ sở phân tích lý luận khoa học, đề tài đã đưa ra
nhiều khái niệm mang tính học thuật như: Khái niệm về tai nạn; tai nạn giao
thông đường bộ; trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; trách



4

nhiệm bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông; phương tiện giao thông
đường bộ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ; xác định các loại trách nhiệm
bồi thường thiệt hại liên quan đến tai nạn giao thông đường bộ.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở khoa học đã được phân tích, đề tài đã xác định
một cách cụ thể trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ thì trường hợp nào
áp dụng trách nhiệm bồi thường do hành vi của con người gây ra, trường hợp
nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiêt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra. Qua đó, đề tài cũng xác định cụ thể về người phải bồi thường thiệt hại theo
từng trường hợp cụ thể.
6. Kết cấu của đề tài
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trong phạm vi nghiên cứu đã được xác
định, đề tài được kết cầu theo ba chương sau đây:
Chương 1.
ĐẶC ĐIỂM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Nhiệm vụ của chương này được xác định là nghiên lý luận về các vấn đề
liên quan đến nội dung của đề tài, tạo nên cơ sở khoa học cho các chương tiếp
theo.
Chương 2.
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ GÂY RA
Nhiệm vụ của chương này là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng để vận dụng nó
trong điều kiện thiệt hại xảy ra do tai nạn giao thông đường bộ.
Chương 3.
TÌNH HÌNH TAI NẠN GIAO THƠNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ SƠN LA TRONG BA NĂM GẦN ĐÂY, XỬ LÝ VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ GÂY RA


5

Chương này nhằm tổng hợp, đánh giá tình hình thực tế về tai nạn giao
thông đường bộ trên địa bàn thành phố Sơn la và thực tế xử lý về bồi thường
thiệt hại. Đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các bất cập trong quy định
của pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
KẾT LUẬN


6

Chương 1.
ĐẶC ĐIỂM TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG TAI NẠN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Một số vấn đề lý luận về tai nạn giao thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm về tai nạn giao thông đường bộ
Tai nạn luôn là một rủi ro tiềm ẩn trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, thiệt
hại từ tai nạn luôn là hậu quả nằm ngồi mong muốn của con người, khơng
thể lường trước và ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống.
Trong thực tế, tùy theo từng lĩnh vực tai nạn xảy ra mà tai nạn có tên gọi
khác nhau. Những tai nạn xảy ra liên quan đến quá trình tham gia giao đường
bộ thường được gọi là tai nạn giao thông đường bộ. Tuy nhiên, cũng có rất
nhiều vụ tai nạn liên quan đến hoạt động giao thông đường bộ nhưng về bản
chất, khơng phải là tai nạn giao thơng đường bộ. Vì thế, qua việc xác định
khái niệm về tai nạn giao thông đường bộ, tác giả luận văn muốn làm sáng tỏ
sự khác nhau giữa các vụ tai nạn liên quan đến hoạt động giao thông đường

bộ.
Nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thơng đường bộ có thể do hành vi của
con người như hành vi vi phạm luật giao thông đường bộ của người tham gia
giao thông, hành vi cản trở giao thơng đường bộ; có thể do các ngun nhân
khác như sự trục trặc của phương tiện giao thông, kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ, do động vật hoang dã hoặc súc vật băng qua đường bất ngờ, thiên
tai… Các nguyên nhân dẫn đến tai nạn là cơ sở quan trọng để xác định trách
nhiệm bồi thường, ai phải bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông
đường bộ. Chẳng hạn, nếu tai nạn xảy ra do hành vi trái pháp luật của người
tham gia giao thơng thì chính người đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, nếu tai nạn xảy ra do phương tiện giao thơng bị trục trặc thì chủ phương
tiện phải chịu trách nhiệm bồi thường, nếu tai nạn xảy ra do kết cấu hạ tầng
giao thông đường bộ (cầu sập, đường lún bất ngờ) thì trách nhiệm bồi thường
thuộc về chủ cơng trình…
Vào thời điểm này, chưa có một văn bản pháp luật nào xác định khái niệm
về tai nạn giao thơng đường bộ. Tuy nhiên, đã có khá nhiều định nghĩa về tai


7

nạn giao thông đường bộ được nêu ra trong các cơng trình nghiên cứu khoa
học đã được cơng bố. Chẳng hạn, “Tai nạn giao thông là tai nạn xảy ra khi
các đối tượng tham gia trên đường giao thông công cộng gây nên: - Thiệt hại
về sức khỏe, tính mạng con người - Thiệt hại về tài sản hoặc thiệt hại đặc biệt
nghiêm trọng về tài sản” hoặc “Tai nạn là sự việc xảy ra bất ngờ do người
tham gia giao thông hoặc vi phạm các quy định về trật tự an tồn giao thơng
hoặc gặp phải tình huống, sự cố đột xuất khơng kịp xử lý, có thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe con người, thiệt hại về tài sản” hoặc “Tai nạn giao thông là
sự kiện bất ngờ nằm ngồi ý muốn chủ quan của con người. Nó xảy ra khi các
đối tượng tham gia giao thông đang hoạt động trên đường giao thông công

cộng, đường chuyên dùng hoặc ở các địa bàn giao thông nhưng do chủ quan,
vi phạm các quy tắc về an tồn giao thơng hoặc do gặp phải các sự cố đột
xuất không kịp phịng tránh, đã gây thiệt hại nhất định cho tính mạng, sức
khỏe con người hoặc tài sản của Nhà nước và nhân dân” hoặc “Tai nạn giao
thông đường bộ là một sự kiện do hành vi của con người vi phạm các quy
định về an tồn giao thơng đường bộ, do sự cố đột xuất hoặc do các trường
hợp bất khả kháng gây ra trong quá trình tham gia giao thơng của con người
gây thiệt hại về tính mạng, về sức khỏe, về tinh thần của con người hoặc thiệt
hại về tài sản”
Trong các định nghĩa về tai nạn giao thơng đường bộ nêu trên, có định
nghĩa khơng nêu, có định nghĩa nêu nguyên nhân dẫn đến tai nạn nhưng đều
có điểm chung khi xác định tai nạn giao thơng đường bộ luôn luôn liên quan
đến hoạt động tham gia giao thông và nêu ra các loại thiệt hại.
Theo từ điển tiếng Việt thì tai nạn là “Việc khơng may bất ngờ xảy ra, gây
thiệt hại lớn về người và của” hoặc là “Việc rủi ro bất ngờ xảy ra, gây thiệt
hại lớn cho con người” 1.
Chúng tôi cho rằng, tai nạn là rủi ro xảy ra gây nên thiệt hại ngoài ý muốn
của con người bất kể thiệt hại đó là lớn hay nhỏ, bất kể đó là thiệt hại gì. Một
rủi ro nhưng khơng có thiệt hại thì không phải là tai nạn. Chẳng hạn, hai
người điều khiển xe máy không may va quyệt nhau (vẫn là một rủi ro) nhưng
1

.Từ điển tiếng việt, />

8

khơng có thiệt hại gì về người cũng như xe máy thì khơng coi đó là một vụ tai
nạn giao thơng. Có lẽ từ khái niệm về tai nạn theo từ điển tiếng Việt là phải
“gây ra thiệt hại lớn” nên trong thực tế, cơ quan có chức năng giải quyết các
vụ tai nạn giao thơng đường bộ thường có quan điểm cho rằng những rủi ro

gây ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng con người mới là tai nạn còn rủi ro
gây ra thiệt hại nhỏ về tài sản, thậm chí thiệt hại lớn nhưng chỉ là thiệt hại về
tài sản thì được coi là va quệt.
Tai nạn giao thơng đường bộ có thể vẫn phát sinh trách nhiệm hình sự
nhưng thiệt hại ln là hậu quả nằm ngoài mong muốn chủ quan của con
người. Chẳng hạn, tai nạn giao thông xảy ra do hành vi vi phạm quy định an
tồn giao thơng gây hậu quả nghiêm trọng dù thiệt hại xảy ra là ngoài mong
muốn của người người gây thiệt hại thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội: Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
(Điều 202 Bộ luật hình sự năm 2000). Tuy nhiên, nếu thiệt hại xảy ra trong
hoạt động giao thông đường bộ không phải là yếu tố rủi ro mà là mong muốn
cố ý của người gây ra thiệt hại thì sẽ ln ln hình thành trách nhiệm hình
sự. Chẳng hạn, một vụ tai nạn xảy ra trong hoạt động giao thông đường bộ
nhưng do người tham gia giao thông cố ý gây ra thiệt hại về tính mạng cho
người khác thì cấu thành tội giết người và người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự.
Tai nạn xảy ra trong lĩnh vực nào thì có tên gọi kèm theo một cách cụ thể.
Chẳng hạn, tai nạn xảy ra trong hoạt động thể thao là tai nạn thể thao, tai nạn
xảy ra trong trường học là tai nạn học đường, tai nạn xảy ra trong hoạt động
tham gia giao thông là tai nạn giao thông. Cần thấy rằng trong các loại tai nạn
(theo lĩnh vực nêu trên) có thể được xác định là tai nạn ngồi lao động; có thể
là tai nạn lao động. Chẳng hạn như trong các vụ tai nạn giao thơng mà giữa
người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và người bị thiệt hại có mối quan hệ
lao động và tai nạn xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện
cơng việc, nhiệm vụ lao động, trong đó, người có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại là chủ sử dụng lao động, người bị thiệt hại là người lao động. Khi đã xác
định là tai nạn lao động thì trách nhiệm bồi thường được xác định theo quy


9


định của pháp luật lao động (được quy định tại Điều 144 và Điều 15 của Bộ
luật lao động năm 2012). Mặt khác, tai nạn lao động chỉ xác định về thiệt hại
đối với sức khỏe, tính mạng con người mà không xác định các loại thiệt hại
khác. “Tai nạn lao động là tai nạn gây thương tổn cho bất kỳ bộ phận, chức
năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong cho người lao động,
xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm
vụ lao động” (Điều 142 Bộ luật lao động năm 2012). Ví dụ: A là chủ sử dụng
lao động, B là người lao động (lái xe cho A). B bị tai nạn khi đang lái xe chở
hàng đi giao cho khách hàng theo điều động của A. Do xe bị nổ và bốc cháy
vì trục trặc kỹ thuật gây ra thiệt hại về sức khỏe cho B (bị thương) và gây ra
thiệt hại về sức khỏe và tài sản cho C (người điều khiển xe máy trên đường
giao thơng). Trong vụ tai nạn giao thơng này thì thiệt hại của B là tai nan lao
động và trách nhiệm của A đối với B được xác định theo quy định của pháp
luật lao động. Thiệt hại của C là tai nạn giao thông đường bộ và trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho C được xác định theo quy định của Bộ luật dân sự về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng.
Với những phân tích trên, chúng tôi cho rằng không cần xét đến hậu quả
của tai nạn là loại thiệt hại gì, thiệt hại lớn hay nhỏ, bao nhiêu loại thiệt hại (vì
mỗi một vụ tại nạn xảy ra có một thiệt hại nhất định và khác nhau trong các
trường hợp), mặt khác, cũng không cần xác định nguyên nhân gây tai nạn (vì
mỗi vụ tai nạn xảy ra với các nguyên nhân khác nhau). Vì vậy, nên xác định
rằng sẽ luôn luôn được coi là tai nạn giao thơng đường bộ khi có hai yếu tố:
(1) Có thiệt hại xảy ra và thiệt hại là rủi ro nằm ngồi mong muốn của con
người; (2) Có liên quan đến hoạt động giao thông đường bộ.
Từ trên, có thể đưa ra khái niệm về tai nạn giao thông đường bộ một cách
ngắn gọn như sau:
Tai nạn giao thông đường bộ là những rủi ro xảy ra trong q trình hoạt
động giao thơng đường bộ gây ra một thiệt hại nhất định mà sự thiệt hại đó
nằm ngồi ý chí của con người.

1.1.2. Đặc điểm của tai nạn giao thông đường bộ


10

Từ những phân tích và khái niệm về tai nạn giao thơng đường bộ ở phần
trên có thể rút ra một số đặc điểm về loại tai nạn này như sau:
- Tai nạn giao thơng có thể gây ra một hoặc nhiều loại thiệt hại khác
nhau
Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung bao gồm
nhiều loại thiệt hại khác nhau. Tuy nhiên, tùy từng nguyên nhân mục đích gây
thiệt hại trong mỗi trường hợp cụ thể mà thiệt hại chỉ là tài sản hoặc chỉ là sức
khỏe, hoặc chỉ là tính mạng. Khi nguyên nhân gây thiệt hại là hành vi trái
pháp luật với lỗi cố ý thì thiệt hại thường chỉ là hậu quả gắn liền với mục đích
của hành vi. Chẳng hạn, hậu quả của hành vi cố ý xâm phạm tài sản của người
khác thì chỉ có thiệt hại về tài sản xảy ra, đối với hành vi cố ý xâm phạm sức
khỏe của người khác thì hậu quả chỉ là thiệt hại về sức khỏe. Mặc dù cũng là
một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng hành vi gây
ra các vụ tai nạn giao thông đường bộ luôn là hành vi vơ ý về hậu quả và cũng
chính vì thế mà thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ thường đa
dạng, gồm nhiều loại thiệt hại khác nhau.
Tai nạn giao thơng đường bộ có thể chỉ gây ra thiệt hại về tài sản, có thể
chỉ gây ra thiệt hại về con người (sức khỏe hoặc tính mạng) nhưng thơng
thường vừa gây ra thiệt hại về tài sản vừa gây ra thiệt hại về con người. Vì
vậy, đối với các vụ tai nạn giao thơng đường bộ, người có thẩm quyền giải
quyết cần xem xét có những loại thiệt hại nào xảy ra làm cơ sở để xác định
các thiệt hại: thiệt hại về tài sản; thiệt hại về sức khỏe; thiệt hại về tính mạng;
tổn thất tinh thần.
- Tai nạn giao thông xảy ra từ nhiều nguyên nhân khác nhau
Thực tế cho thấy có rất nhiều yếu tố dẫn đến tai nạn giao thông đường bộ.

Các yếu tố này có thể là từ hành vi của con người như: Hành vi của người
tham gia giao thông, hành vi cản trở giao thông người của người khác, có thể
là từ phương tiện tham gia giao thơng như sự hỏng hóc, trục trặc cấu tạo của
phương tiện giao thơng, có thể là từ kết cấu hạ tầng giao thông như đường lún
nứt, cầu cống bị sập, hệ thống chỉ huy giao thơng khơng đảm bảo an tồn, có


11

thể là từ sự quản lý nhà nước về trật tự an tồn giao thơng đường bộ và cũng
có thể do các yếu tố khác như thiên tai, bão lụt...
Trong quá trình hình thành của các sự vật và hiện tượng bao giờ cũng có
mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, điều kiện với sự vật, hiện
tượng là kết quả. Tai nạn giao thông là một hiện tượng phát sinh do nhiều sự
vật, hiện tượng là nguyên nhân trước đó. Trong các yếu tố dẫn đến tai nạn
giao thơng đường bộ, có yếu tố chỉ là điều kiện, có yếu tố là ngun nhân
chính của tai nạn. Vì thế, việc xác định tai nạn giao thơng đường bộ xảy ra do
nguyên nhân gì, yếu tố nào là ngun nhân chính của tai nạn có ý nghĩa rất
thiết thực trong việc xác định trách nhiệm pháp lý. Chẳng hạn, một vụ tai nạn
giao thông xảy ra gây thiệt hại về tính mạng cho người khác nhưng do trục
trặc thiết bị của phương tiện giao thông (bất ngờ nổ lốp trước) mà người lái xe
hồn tồn khơng vi phạm luật an tồn giao thơng đường bộ thì khơng đặt ra
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu tai nạn xảy ra do lỗi vi phạm của người
lái xe thì người lái xe đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Mặt khác, xác định yếu tố nào là nguyên nhân chính dẫn đến tai nạn giao
thơng cịn có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định người có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Chẳng hạn, một vụ tai nạn giao thông xảy ra nhưng hành vi
mang lỗi cố ý của người bị thiệt hại là nguyên nhân chính dẫn đến vụ tai nạn
đó thì người gây ra tai nạn khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Hoặc một vụ tai nạn giao thông xảy ra vừa do người tham gia giao thơng vi

phạm quy định về an tồn giao thơng đường bộ (chạy xe quá tốc độ cho phép)
vừa do hành vi cản trở giao thông của người khác (đỗ xe trái phép trên đường
giao thơng) thì cả hai người này đều phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại và thiệt hại và phần bồi thường được xác định theo mức độ lỗi của mỗi
người.
Với ý nghĩa trên, chúng tôi chia các yếu tố dẫn đến tai nạn giao thông
đường bộ thành ba nguyên nhân sau đây:
+ Nguyên nhân từ hành vi của con người
Trong các vụ tai nạn giao thơng đường bộ thì hành vi của con người là
ngun nhân mang tính phổ biến. Nói cách khác, hầu như tất cả các vụ tai nạn


12

giao thông đường bộ đều liên quan đến hành vi của con người. Chẳng hạn,
một vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra có thể có ngun nhân chính là do
sự hư hỏng bất ngờ của phương tiện giao thơng mà người lái xe hồn tồn
khơng có lỗi trong q trình tham gia giao thơng nhưng tai nạn đó cũng chỉ có
thể xảy ra khi có sự tác động bởi hành vi của con người (chỉ xảy ra tai nạn
giao thông đường bộ khi xe tham gia hoạt động giao thông đường bộ dưới sự
điều khiển của con người).
Hành vi của con người là nguyên nhân của các vụ tai nạn giao thông
đường bộ bao gồm: Hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ, hành vi của người tham gia giao thông đường bộ khác (người đi bộ,
người băng qua đường), hành vi cản trở giao thông đường bộ (đậu đỗ xe trái
quy định, chiếm dụng lòng lề đường trái quy định).
+ Nguyên nhân từ phương tiện giao thơng đường bộ
Thực tế cho thấy có rất nhiệu vụ tai nạn giao thông đường bộ xảy ra dù có
liên quan đến hành vi của con người nhưng nguyên nhân chính của vụ tai nạn
lại là do phương tiện giao thông bị hư hỏng bất ngờ. Chẳng hạn: nổ lốp trước

khi xe đang chạy trong phạm vi tốc độ cho phép; mất phanh khi xe đang
xuống dốc; xe đang chạy bị phát nổ, bốc cháy. Trong những trường hợp này
thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định là trách nhiệm bồi thường
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Tuy nhiên, chỉ áp dụng loại trách nhiệm
này để xác định việc bồi thường thiệt hại khi có hai yếu tố sau: (1) Phương
tiện giao thơng đường bộ là loại phương tiện được xác định là nguồn nguy
hiểm cao độ theo quy định của pháp luật. Tại Điều 623 và Điều 601 Bộ luật
dân sự 2005 đều quy định: “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện
giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt
động, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy
hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”. Mặt khác, theo khoản 18, Điều 3,
Luật Giao thông đường bộ thì “Phương tiện giao thơng cơ giới đường bộ (sau
đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc
được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn
máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.” và khoản 19, Điều 3 của


13

Luật Giao thơng đường bộ thì: “Phương tiện giao thơng thô sơ đường bộ (sau
đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng
cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự.” Vì vậy, phương
tiện giao thông đường bộ bao gồm nhiều loại nhưng chỉ tai nạn nào do
phương tiện giao thông đường bộ là phương tiện giao thông cơ giới (ô tô; máy
kéo; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) gây ra mới được xác
định theo loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra. (2) Nguyên nhân chính của tai nạn là do sự cố của phương tiện giao
thơng. Như đã nói, các vụ tai nạn giao thông đường bộ do phương tiện giao
thông gây ra luôn liên quan đến hành vi của người điều khiển phương tiện đó.
Vì vậy, cần xác định nguyên nhân chính xảy ra tai nạn là hành vi của người

điều khiển phương tiện hay do sự cố của phương tiện. Nếu phương tiện bị sự
cố trong điều kiện người điều khiển phương tiện đó có hành vi vi phạm an
tồn giao thơng đường bộ thì ngun nhân chính được xác định là do hành vi
của người tham gia giao thông (người điều khiển phương tiện giao thông đó).
Nếu phương tiện bị sự cố trong điều kiện người tham gia giao thơng khơng có
hành vi vi phạm an tồn giao thơng đường bộ thì ngun nhân chính được xác
định là do sự cố của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
+ Nguyên nhân từ các sự kiện ngoại lai
Bên cạnh hành vi của người tham gia giao thông, người cản trở giao thông;
phương tiện tham gia giao thơng thì tai nạn giao thơng đường bộ cũng có thể
xảy ra do nhiều nguyên nhân khác. Có thể kể ra một số nguyên nhân ngoại lai
sau: Súc vật, thú hoang dã băng qua đường bất ngờ, giông tố, mưa bão, kết
cấu hạ tầng giao thông đường bộ bị sự cố bất ngờ.
Với các sự kiện trên, những sự kiện nào mang yếu tố bất ngờ làm cho tai
xảy ra nằm ngồi khả năng dự đốn của con người sẽ được coi là tai nạn do sự
kiện bất khả kháng và không đặt ra trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn
giao thông đường bộ gây ra. Tuy nhiên, có thể phát sinh một loại trách nhiệm
khác để xác định người phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Chẳng hạn, tai
nạn do cầu bị sập thì chủ cơng trình có thể phải bồi thường theo trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do cơng trình xây dựng gây ra.


14

Nếu các sự kiện trên không mang yếu tố bất ngờ (như súc vật; động vật
hoang dã băng qua nơi đã có biển cảnh báo; đường lún nhưng đã được cắm
biển cảnh báo…) thì hành vi của người gây ra tai nạn sẽ bị coi là nguyên nhân
chính và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn giao thông đường bộ sẽ
được đặt ra.
- Có thể phát sinh nhiều trách nhiệm pháp lý

Trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, tùy theo nguyên nhân và tính
chất, mức độ của nguyên nhân gây ra thiệt hại, mối quan hệ giữa người bị
thiệt hại và người phải bồi thường mà có thể có một hoặc nhiều trách nhiệm
pháp lý hình thành và được áp dụng. Trong một vụ tai nạn có thể chỉ áp dụng
một trách nhiệm pháp lý nhất định và được gọi là trách nhiệm đơn, có thể áp
dụng nhiều trách nhiệm pháp lý khác nhau và được gọi là trách nhiệm kép.
Chẳng hạn, trong một vụ tai nạn có thể vừa phạt hành chính đối với hành vi
điều khiển phương tiện giao thơng cơ giới khơng có giấy phép lái xe hợp lệ,
vừa truy tố hình sự về tội vi phạm quy định an toàn về giao thông đường bộ,
vừa buộc bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại trong vụ tai nạn.
Các trách nhiệm pháp lý có thể được áp dụng trong các vụ tai nạn giao
thơng đường bộ bao gồm:
+ Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính (phạt hành chính) có thể được áp dụng trong các
vụ tai nạn giao thơng đường bộ có liên quan đến hành vi điều khiển phương
tiện giao thông không giấy phép, giấy phép không hợp lệ hoặc hành vi vi
phạm khác về an tồn giao thơng đường bộ.
+ Trách nhiệm lao động
Trách nhiệm lao động (bồi thường tai nạn lao động) được áp dụng trong
các vụ giao thông đường bộ mà giữa người được bồi thường với người phải
bồi thường có mối quan hệ lao động và tai nạn xảy ra liên quan trực tiếp đến
quá trình người lao động đang thực hiện công việc được người sử dụng lao
động giao, nhiệm vụ lao động.
+ Trách nhiệm dân sự


15

Là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Luôn được áp dụng
trong trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, trừ thiệt hại đã bồi thường

theo trách nhiệm lao động. Trách nhiệm dân sự trong bồi thường thiệt hại do
tai nạn giao thơng đường bộ có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật gây ra, có thể là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
+ Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự được áp dụng trong các vụ tai nạn giao thông đường
bộ nếu nguyên nhân chính gây ra thiệt hại là hành vi của con người. Theo đó,
người có hành vi trái pháp luật gây ra tai nạn giao thông phải gánh chịu trách
nhiệm hình sự theo tội danh đã cấu thành.
- Hành vi gây tai nạn luôn là hành vi vô ý về hậu quả
Hành vi trái pháp luật gây tai nạn giao thơng đường bộ có thể được thực
hiện với lỗi cố ý (biết hành vi đó là vi phạm an tồn về giao thơng đường bộ
nhưng vẫn thực hiện) có thể là lỗi vô ý (do sơ suất dẫn đến vi phạm). Lỗi cố ý
hay vô ý trong tai nạn giao thơng đường bộ là hình thức lỗi của hành vi. Vì
thế, dù lỗi vơ ý hay cố ý thì người gây ra tai nạn đều phải bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh việc xác định cố ý hay vô ý về hành vi thì việc xác định cố ý hay
vơ ý về hậu quả cũng là một vấn đề hết sức quan trọng để xác định người đó
phải chịu trách nhiệm hình sự hay khơng.
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình
sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người khơng thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt
hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Vì thế, dù là lỗi cố ý về hành vi nhưng người gây thiệt hại vẫn có thể
khơng phải chịu trách nhiệm hình sự, nếu có đủ yếu tố để xác định họ vô ý về
hậu quả. Ngược lại, trong mọi trường hợp, nếu tai nạn xảy ra trong q trình
hoạt động giao thơng đường bộ mà người gây tai nạn cố ý về hậu quả thì



16

không được coi là tai nạn giao thông nữa mà phải xác định là hành vi phạm
tội và phải xử lý bằng trách nhiệm hình sự với tội danh được cấu thành: Tội
giết người; tội cố gây thương tích, tội cố ý hủy hoại tài sản…
Như vậy, chỉ được coi là tai nạn giao thông đường bộ nếu người gây ra tai
nạn vô ý đối với hậu quả xảy ra.
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai
nạn giao thông đường bộ
1.2.1. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao
thông đường bộ
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông là một
loại cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Bộ luật dân sự sử dụng rất nhiều các thuật ngữ khác nhau như: “nghĩa vụ
dân sự”, “trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự”; “trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ dân sự”; “trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng” để chỉ về nghĩa vụ, trách nhiệm trong các trường hợp
khác nhau.
“Trước hết, “nghĩa vụ” hay “trách nhiệm” đều là các thuật ngữ chỉ về các
trường hợp một bên phải làm một công việc đối với bên kia. Theo cách hiểu
này thì từ đối lập với từ “nghĩa vụ”/ “trách nhiệm” là “quyền lợi”. Đây là
nghĩa thơng thường của từ “nghĩa vụ” và “đó là một mối liên hệ gắn kết ít
nhất giữa hai người được cá thể hóa cho phép một người trong số họ địi hỏi
người kia một điều gì đó” 2. Như vậy, ở nghĩa chung nhất thì “nghĩa vụ” hay
“trách nhiệm” đều được hiểu là một quan hệ pháp luật/sự ràng buộc pháp lý
giữa hai bên, trong đó một bên phải làm một cơng việc và bên kia có quyền
u cầu bên này thực hiện cơng việc đó 3.Tuy nhiên:
Trong các quan hệ nghĩa vụ dân sự hình thành từ sự thỏa thuận (quan hệ
hợp đồng) thì “nghĩa vụ” được hình thành từ thời điểm quan hệ đó được pháp

luật thừa nhận (thời điểm có hiệu lực của hợp đồng) nhưng “trách nhiệm” chỉ
hình thành từ thời điểm có sự vi phạm “nghĩa vụ” đó.
2
3

Xem J. GHESTIN, M. BILLIAU, G. LOISEAU “Chế định trái quyền và nghĩa vụ” Nxb LGDJ 2005.
Xem: Học viện Tư pháp, Giáo trình luật dân sự NXB Tư pháp 2015, trang 387.


17

Trong các quan hệ nghĩa vụ hình thành từ hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại ngồi hợp đồng thì “nghĩa vụ” và “trách nhiệm” phát sinh đồng thời vào
cùng một thời điểm. Tuy nhiên, trong đó, “nghĩa vụ” được hiểu với góc độ là
nội dung của quan hệ và “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả pháp lý mà bên
có hành vi trái pháp luật phải gánh chịu. Nói cách khác, khi một bên thực hiện
hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho bên kia thì phát sinh quan hệ pháp
luật, trong đó, người gây thiệt hại phải thực hiện việc bồi thường xuất phát từ
nguyên tắc của pháp luật và không liên quan đến nghĩa vụ/hợp đồng nên được
gọi là “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức cụ thể
của trách nhiệm dân sự. Nếu trách nhiệm dân sự nói chung được phát sinh
ngay sau khi có hành vi vi phạm pháp luật thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
chỉ phát sinh chừng nào hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra trong thực tế một
thiệt hại.
Điều 604 , Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc
vô ý xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm đến uy tín tài sản của pháp nhân hoặc
chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm

dân sự phát sinh giữa người do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể
khác với người bị thiệt hại, theo đó, người gây thiệt hại phải bồi thường phải
bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho người bị thiệt hại.
Từ khái niệm về tai nạn giao thông đường bộ và khái niệm về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, có thể rút ra khái niệm về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tai nạn giao thông đường bộ là
trách nhiệm dân sự trong đó, một bên là người phải bồi thường thiệt hại do
tai nạn liên quan đến quá trình hoạt động giao thông đường bộ gây ra thiệt


18

hại đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người khác, bên được bồi thường là
bên bị thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra.
Như vậy, là một dạng cụ thể của trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nên trách nhiệm bồi thường thiệt do tai nạn giao thông
gây ra, về nguyên tắc, chỉ phát sinh khi có đủ bốn điều kiện sau: (1) Có thiệt
hại xảy ra; (2) Có việc gây thiệt hại (có thể là hành vi trái pháp luật, có thể là
do phương tiện giao thơng đường bộ); (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa việc
gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra ; (4) Có lỗi (trong trường hợp trong trường
hợp tai nạn xảy ra do hành vi của con người) hoặc không cần lỗi (trong trường
hợp tai nạn xảy ra do hư hỏng bất ngờ của phương tiên giao thông cơ giới).
1.2.2. Các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn
giao thông đường bộ
Như đã phân tích trong các phần trên, tai nạn giao thông đường bộ luôn
liên quan đến hành vi của con người. Tuy nhiên, trong từng vụ tai nạn, việc
xác định hành vi của người tham gia giao thông là nguyên nhân chính hay sự

kiện khác là ngun nhân chính có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ tai nạn đó là loại trách nhiệm gì.
Đồng thời, xác định loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng vụ tai
nạn giao thông đường bộ là cơ sở để xem xét ai phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại.
Trong thực tế, bởi tất cả các vụ tai nạn có liên quan đến phương tiện giao
thơng cơ giới trong q trình tham gia giao thơng đều xuất phát từ hành vi của
người điều khiển phương tiện nên đều được coi là trách nhiệm thuộc về người
điều khiển phương tiện giao thông đã gây ra tai nạn. Sự đánh đồng này vơ
hình chung đã gây nên tình trạng “trăm dâu đổ đầu tằm”.
Để tránh tình trạng trên, khi áp dụng pháp luật để giải quyết việc bồi
thường thiệt hại trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, cần phải xác định
hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại sau đây:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con
người gây ra
Trách nhiệm này được áp dụng trong các vụ tai nạn giao thông mà trong


19

đó, ngun nhân chính dẫn đến tai nạn là do hành vi trái pháp luật của con
người. Hành vi trái pháp luật là xử sự bằng hành động hoặc không hành động
trái với quy định của pháp luật.
Hành vi trái pháp luật gây ra tai nạn giao thông đường bộ có thể là hành vi
của người điều khiển phương tiện giao thơng khơng tn thủ các quy định về
an tồn giao thông khi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ; có thể là
người tham gia giao thơng khác (người đi bộ hoặc sử dụng phương tiện giao
thông thô sơ); có thể là hành vi cản trở giao thơng; có thể là hành vi vi phạm
các quy định khác về an tồn giao thơng (chẳng hạn, chủ cơng trình giao
thơng đường bộ khơng cắm biển cảnh báo khi cơng trình bị hư hỏng có nguy

cơ gây tai nạn nếu khơng được cảnh báo)
Khi xác định tai nạn giao thông đường bộ là do hành vi của con người gây
ra, cần xác định cả bốn điều kiện phát sinh: (1) Có hành vi trái pháp luật; (2)
Có thiệt hại xảy ra; (3) Có lỗi của người thực hiện hành vi; (4) Có mối quan
hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Theo đó, người
phải bồi thường thiệt hại (hoặc phải gánh chịu thiệt hại) có thể là người điều
khiển phương tiện giao thơng, có thể là người tham gia giao thơng khác, có
thể là người có hành vi cản trở giao thơng, có thể là người có hành vi vi phạm
các quy định khác về an tồn giao thơng đường bộ.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Nguồn nguy hiểm cao độ được quy định khác nhau trong pháp luật của
mỗi nước. Điều 347, Bộ luật dân sự Thái Lan xác định nguồn nguy hiểm cao
độ gồm “bất cứ sự vận chuyển nào được kéo, đẩy bằng máy móc, những vật
có thể gây nguy hiểm bởi tính chất, mục đích hoặc sự vận hành cơ khí của
chúng”; Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: “Các nhà máy chế tạo, nơi khai
thác khoáng sản dễ gây cháy, nổ, độc hại, phương tiện giao thông vận tải cơ
giới là nguồn nguy hiểm cao độ”. Ở nước ta, nguồn nguy hiểm cao độ được
liệt kê theo khoản 1, Điều 623, Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: “Nguồn
nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống
tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy,


20

chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp
luật quy định.
Theo liệt kê trên, có thể thấy rằng dù pháp luật các nước đều khơng có
định nghĩa về nguồn nguy hiểm cao độ và có sự khác nhau trong liệt kê về các
loại nguồn nguy hiểm cao độ nhưng đều có điểm chung ở chỗ xác định tính
chất của nguồn nguy hiểm cao độ với các thuộc tính : (1) Chứa đựng rủi ro

khách quan; (2) Tiềm ẩn rủi ro luôn ở tần suất lớn; (3) Thiệt hại xảy ra là cái
không thể lường trước. Từ các thuộc tính này có thể xác định khái niệm về
nguồn nguy hiểm cao độ như sau: Nguồn nguy hiểm cao độ là những sự vật
mà do cấu tạo hoặc tính chất của chúng nên quá trình chiếm hữu, sử dụng
chúng ln chứa đựng tiểm ẩn một sự nguy hiểm khách quan ở một mức độ
lớn.
Và cũng chính vì thế nên dù pháp luật khơng quy định cụ thể, chúng ta vẫn
phải xác định rằng phương tiện giao thông vận tải cơ giới chỉ được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ khi chúng đang hoạt động và thiệt hại do phương
tiện giao thông vận tải cơ giới gây ra trong khi chúng đang hoạt động mới
được coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Những thiệt hại do
phương tiện giao thông vận tải cơ giới đường bộ gây ra khi chúng không hoạt
động được coi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản nói chung gây ra.
Chẳng hạn, một chiếc xe vận tải đã tắt máy và đỗ trong sân một trường học,
khơng may xe bị đổ vì gẫy trục và đè phải một em học sinh đi ngang qua thì
hồn tồn khơng phải là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Mặt khác, phương tiện giao thông cơ giới bao gồm: phương tiện giao
thông đường không, phương tiện giao thông cơ giới đường thủy, phương tiện
giao thông cơ giới đường sắt và phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Như vậy, từ những phân tích trên, chúng ta khẳng định rằng; phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ đang hoạt động được pháp luật xác định là một
trong các nguồn nguy hiểm cao độ bởi trong quá trình vận hành chúng ln
chứa đựng tiềm ẩn một rủi ro khách quan ở mức độ lớn. Tai nạn có xảy ra hay
không, xảy ra lúc nào, thiệt hại là lớn hay nhỏ hoàn toàn là yếu tố rủi ro nằm
ngồi sự tính tốn của con người.


21

Tuy nhiên, chỉ được coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nếu

tai nạn xảy ra là do hư hỏng của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ là
hư hỏng bất ngờ và người điều khiển khơng có hành vi vi phạm quy định về
an tồn giao thơng khi điều khiển phương tiện giao thơng cơ giới đường bộ.
Trách nhiệm này được áp dụng để giải quyết việc bồi thường thiệt hại
trong các vụ tai nạn giao thơng mà trong đó ngun nhân chính dẫn đến tai
nạn là do hư hỏng bất ngờ của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ.
Cần xác định đây là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
nên khơng có hành vi trái pháp luật mà thay vào đó là có việc gây thiệt hại từ
tài sản. Mặt khác, vì khơng có hành vi trái pháp luật của con người nên trách
nhiệm này phát sinh ngay cả khi khơng có yếu tố lỗi.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một
trường hợp cụ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nên
về nguyên tắc, “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình
đối với tài sản nhưng khơng được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác” 4. Vì vậy, người nào là chủ sở hữu hoặc đang chiếm hữu tài sản đó
trong thời gian tài sản gây ra thiệt hại thì người đó chịu trách nhiệm bồi
thường kể cả khi khơng có lỗi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Từ việc phân tích trên, có thể nói rằng, cũng là việc áp dụng quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để giải quyết
vấn đề bồi thường trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ nhưng nếu áp
dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra phải
cần đủ cả bốn điều kiện phát sinh là: (1) Có hành vi trái pháp luật; (2) Có thiệt
hại xảy ra; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với thiệt
hại xảy ra; (4) Có lỗi. Trái lại, nếu áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì chỉ cần ba điều kiện phát sinh là: (1) Có
việc gây thiệt hại; (2) Có thiệt hại xảy ra; (3) Có mối quan hệ nhân quả giữa
việc gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra. Nghĩa là theo nguyên tắc chung chủ sở
hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy
4


Điều 165, Bộ luật dân sự năm 2005, Hà Nội.


×