Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư phế quản phổi điều trị tại trung tâm hô hấp bệnh viện bạch mai trong năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.73 KB, 70 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Ung thư phế quản phổi (UTPQP) là thuật ngữ để chỉ các khối u ác tính
phát triển từ biểu mô niêm mạc phế quản (PQ), tiểu phế quản, phế nang, các
tuyến phế quản hoặc các thành phần khác của phổi [7].
UTPQP là bệnh lý khá phổ biến hiện nay, đứng thứ ba trong các bệnh
phổi mạn tính và thứ năm trong các ung thư tạng khác [7]. Trên thế giới hàng
năm có khoảng 50 triệu người mắc và 7 triệu người chết vì ung thư, trong đó
tỷ lệ chết vì UTPQP chiếm tới 20 % ở nữ và 30% ở nam giới. Nhìn chung
UTPQP chiếm vị trí hàng đầu trong các bệnh ung thư ở các nước kinh tế phát
triển và đứng hàng thứ hai ở các nước đang phát triển. Nó là nguyên nhân gây
tử vong hàng đầu trong các bệnh do ung thư ở hơn 35 nước trên thế giới [9].
Trong những năm gần đây, UTPQP gia tăng không ngừng và hiện nay
đã tăng gấp 25 lần so với đầu thế kỷ 20 về tỷ lệ phát hiện bệnh hàng năm. Ở
Mỹ, năm 2009 có khoảng 219.440 ca mắc mới và 159.390 trường hợp tử vong
do UTPQP [41].
Ở Việt Nam, đầu thập niên 80, UTPQP đứng hàng thứ 5 trong các ung
thư ở nam giới và hàng thứ 10 ở nữ giới. Tỷ lệ này gia tăng rất nhanh và đến
thập niên 90, UTPQP đã đứng hàng đầu ở nam giới và thứ 3 ở nữ giới [11].
Năm 2010, tỷ lệ chuẩn hóa theo tuổi (ASR) ở nam là 3,51/ 100.000 dân, ở nữ
là 13,9/100.000 dân [11].
UTPQP có đặc điểm bệnh tiến triển nhanh, di căn sớm và tỷ lệ tử vong
cao. Triệu chứng của bệnh thường rất dễ nhầm với các triệu chứng của bệnh
phế quản phổi khác. Bệnh lại thường được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, do
vậy công tác điều trị gặp nhiều khó khăn mà hiệu quả lại không cao. Các
nghiên cứu cho thấy 62% bệnh nhân khi vào viện không còn khả năng phẫu
thuật và hạn chế các biện pháp điều trị khác [34], [38]. Chính vì vậy việc phát



2

hiện sớm, chẩn đoán chính xác giai đoạn bệnh và type mô bệnh học là rất
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả điều trị và làm giảm bớt gánh nặng
cho người bệnh.
Ở Việt Nam, UTPQP đã được tiến hành nghiên cứu bởi nhiều tác giả
khác nhau. Hầu hết các tác giả tập trung đề cập đến đặc điểm cận lâm sàng và
các phương pháp điều trị cũng như hiệu quả của các phương pháp đó, số
nghiên cứu tập trung vào đặc điểm lâm sàng còn chưa nhiều. Tại Trung tâm
hô hấp Bệnh viện Bạch Mai, trong năm 2013, nhiều bệnh nhân đã được chẩn
đoán, phát hiện mắc bệnh UTPQP bằng các phương pháp khác nhau. Từ
những đặc điểm của từng bệnh nhân trên, chúng tôi tiến hành làm đề tài luận
văn nghiên cứu : “ Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung
thư phế quản phổi điều trị tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai trong
năm 2013” với mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của ung thư phế quản phổi ở bệnh nhân điều
trị tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai trong năm 2013.
2. Nhận xét một số đặc điểm cận lâm sàng của ung thư phế quản phổi ở
bệnh nhân điều trị tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch Mai trong
năm 2013.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. DỊCH TỄ HỌC CỦA UNG THƯ PHẾ QUẢN NGUYÊN PHÁT:
1.1.1. Tình hình ung thư phế quản phổi trên thế giới:
Ung thư phế quản phổi là bệnh ung thư phổ biến nhất trên thế giới,
được mô tả lần đầu tiên vào thế kỷ XX với tần suất ngày một tăng, đặc biệt ở

các nược phát triển. Tỷ lệ mắc UTPQP cao nhất ở Trung và Đông Âu đối với
nam giới và ở Bắc Mỹ đối với nữ giới. Mặc dù y học đã tích cực nghiên cứu
ung thư phế quản trong 10 năm qua nhưng tỷ lệ sống thêm 5 năm sau chẩn
đoán vẫn chỉ từ 10- 13% [13], [25].
Theo WHO năm 1982, UTPQP chiếm tỷ lệ 22% ở nam và 11% ở nữ
trong tổng số ung thư nói chung và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở
nam giới tại 20 nước [3].
Tại Mỹ từ năm 1930 đến đầu những năm 1950 tỷ lệ tử vong do UTPQP
bắt đầu tăng lên, và từ những năm 1950 bệnh UTPQP đã xếp hàng đầu trong
số các nguyên nhân gây tử vong vì ung thư ở nam giới. Tỷ lệ này ở nữ giới
ban đầu thấp hơn, nhưng đã tăng nhanh. Năm 1987, UTPQP đã vượt qua ung
thư vú và trở thành nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư
ở nữ giới ở Mỹ. Hiện nay Mỹ có tỷ lệ tử vong do UTPQP so với ung thư nói
chung là 32% ở nam và 25% ở nữ [37]. Tại Mỹ, năm 2001, UTPQP là nguyên
nhân của khoảng 160.000 người chết [29].
Tại Pháp, theo thống kê của WHO, năm 1993 có khoảng 20.000 trường
hợp tử vong do UTPQP, năm 1995 có 26.153 trường hợp trong đó nam là
22.757 và nữ là 3.396 trường hợp, năm 1997 là 25.000 trường hợp [34].
Tại Anh năm 1991, UTPQP gây tử vong khoảng 22.000 bệnh nhân nam
và 10.000 bệnh nhân nữ. Năm 2008 có khoảng 41.000 bệnh nhân đã được


4

chẩn đoán mắc UTPQP trong đó 28.000 trường hợp là nam giới ( đứng hàng
thứ 2 sau ung thư tiền liệt tuyến) và 17.900 trường hợp là nữ giới ( đứng thứ
3 sau ung thư vú và ung thư trực tràng).
Tại Thượng Hải- Trung Quốc, tỷ lệ mắc UTPQP năm 2000 ở nam là
72,8/100.000 dân, ở nữ là 30/100.000 dân. Tỷ lệ sống thêm 5 năm là 7,1%.
Năm 2001, UTPQP là nguyên nhân gây tử vong của hơn một triệu

người trên toàn thế giới. Đối với phụ nữ từ 15 đến 64 tuổi, UTPQP là nguyên
nhân hàng đầu gây tử vong trong các loại ung thư. UTPQP vẫn là nguyên
nhân gây tử vong hàng đầu trong các loại ung thư ở nam giới [30].
1.1.2. Tình hình ung thư phế quản phổi ở Việt Nam:
Cũng như các nước trên thế giới, số người mắc UTPQP ở Việt Nam
đang ngày một gia tăng ở mọi tầng lớp xã hội, mọi ngành nghề, mọi lứa tuổi
khác nhau.
Năm 1988, theo thống kê của Hoàng Đình Cầu, trong 3 triệu dân phát
hiện có 1.482 BN ung thư, trong đó UTPQP ở nam giới chiếm hàng đầu với
20,8% [3].
Năm 1996, theo thống kê của Nguyễn Việt Cồ và cộng sự, UTPQP
đứng hàng đầu ở nam giới và đứng hàng thứ ba ở nữ giới trong các bênh ung
thư [9].
Ước tính chung tỷ lệ mắc ung thư năm 2000 ở Việt Nam có khoảng
36.021 trường hợp là nam giới và khoảng 32.768 trường hợp là nữ giới.
Trong đó UTPQP đứng hàng đầu ở nam giới với khoảng 6.905 ca mắc mới
hàng năm [1], [9].
Tại Trung tâm hô hấp bệnh viện Bạch Mai, UTPQP từ năm 1969 đến
1972 có 89 trường hợp, từ 1974 đến 1978 có 186 trường hợp, từ năm 1981
đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996 đến 2000 có 639 trường hợp [7].


5

Tóm lại trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, UTPQP là một
bệnh khá phổ biến và ngày càng gia tăng. Bệnh được phát hiện hầu hết ở giai
đoạn muộn gây rất nhiều hạn chế đối với khả năng điều trị ngoại khoa cũng
như một số biện pháp khác. Việc chẩn đoán và điều trị UTPQP còn là vấn đề
khó khăn đặt ra cho ngành y tế của Việt Nam và thế giới.
1.2. CĂN NGUYÊN VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ:

UTPQP có thể do rất nhiều nguyên nhân gây ra bao gồm các chất gây
ung thư (trong khói thuốc lá, khí độc hại, nguồn nước ô nhiễm…), bức xạ ion
hóa, nhiễm vius… Phơi nhiễm này gây nên thay đổi tích lũy cho AND trong
các biểu mô phế quản. Từ đó phát sinh ra những tế bào phát triển bất thường
tạo thành khối u ác tính.
1.2.1. Hút thuốc lá, thuốc lào (gọi chung là hút thuốc lá):
Từ những năm 1930, người ta đã nghi ngờ vai trò của thuốc lá trong
những nguyên nhân gây ung thư. Các chất hydrocacbon thơm trong khói
thuốc lá và hắc ín trong thuốc lá, đặc biệt là chất 3 - 4 benzopyren được chứng
minh có vai trò gây ung thư phế quản phổi [3]. Hiện nay người ta đã phát hiện
ra trong khói thuốc có hơn 4000 hóa chất, trong đó có khoảng hơn 60 chất có
tính chất gây ung thư [7].
Khoảng 90% trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTPQP trên thế giới là
người có hút thuốc lá [6]. Hút thuốc lá được coi là nguyên nhân của 85% các
trường hợp UTPQP tại Mỹ. Tỷ lệ tử vong do UTPQP cao hơn từ 10 - 15 lần ở
những người nghiện thuốc so với những người không nghiện thuốc lá. Đồng thời
việc giảm hay ngừng hút thuốc lá làm giảm nguy cơ mắc UTPQP [37].
Tại Việt Nam, ngày 05/11/2010, Bộ Y tế đã công bố kết quả điều tra về
sử dụng thuốc lá ở người trưởng thành ở Việt Nam. Kết quả cho thấy tỷ lệ hút
thuốc lá ở Việt Nam vào loại cao nhất trên thế giới ( ~ 50% ở nam giới).


6

Khoảng 15 triệu người đang hút thuốc lá, trong đó có hơn 80% là hút thuốc
hàng ngày.
Nguy cơ bị UTPQP tăng cao không chỉ ở người hút thuốc lá mà còn ở
những người hút thuốc thụ động. Những điều tra mới đây chỉ ra rằng hút sống
ở trong môi trường có khói thuốc lá lâu ngày (hút thuốc lá thụ động) cũng làm
tăng nguy cơ bị UTPQ. Người bị hít hơi thuốc lâu ngày có nguy cơ cao hơn

1,5 lần so với người không hút [6].
Mức độ tăng nguy cơ phụ thuộc vào: tuổi bắt đầu hút (càng sớm nguy
cơ càng cao), số bao năm ( tính số bao hút/ ngày * số năm hút, càng lớn nguy
cơ càng cao), thời gian hút (càng dài nguy cơ càng cao).
1.2.2. Ô nhiễm không khí:
Người ta nhận thấy rằng UTPQP phát sinh nhiều hơn ở các nước có
nền công nghiệp hiện đại, giao thông phát triển. Sự phơi nhiễm với chất thải
công nghiệp, các chất khói bụi trong không khí, các chất hóa học là nguyên
nhân gây UTPQ [25]. Các bụi Amiante, Berylli khi bị hít vào phổi sẽ làm tăng
nguy cơ mắc bệnh, đặc biệt là ung thư màng phổi. công nhân khai thác hoặc
thường xuyên tiếp xúc với amiante có nguy cơ mắc UTPQP cao gấp 7 lần
người không tiếp xúc [28]. Sự tiếp xúc với kim loại nặng như nikel, arsenic
hay khí than, dầu mỏ và hợp chất của dầu mỏ, khói động cơ dienzen cũng góp
phần làm tăng nguy cơ mắc bệnh [28].
1.2.3. Các bức xạ ion hóa:
Nguồn bức xạ có thể từ thiên nhiên, tia vũ trụ, đất, vật liệu xây dựng
hay do con người tạo ra trong phát triển khoa học kỹ thuật. Nhiều nghiên cứu
cho thấy rằng UTPQP ở thợ mỏ vùng Joachimastal (Tiệp Khắc) và
Scheneeberg (Đức) quan sát được từ thập niên 60 có căn nguyên bởi quặng
uranit phóng xạ có trong các mỏ đó [27].


7

1.2.4. Gen p53 và bệnh UTPQ:
Gen p53 đã được nghiên cứu rộng trong ung thư tế bào nhỏ, theo đó
50-70% số BN ung thư có biển đổi ở gen p53. Nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy hóa chất benzopyren có trong khói thuốc lá đã gây nên sự biến đổi của
gen p53, một gen nằm trên cánh ngắn NST số 17. Gen này được coi là có vai
trò điều hòa và kiểm soát việc phân chia tế bào. Khi tổn thương gen p53 sẽ

làm ngăn cản quá trình tế bào ngừng phân chia, làm cho tế bào không có thời
gian sửa chữa sai sót trong quá trình phân bào, đồng thời ngăn cản quá trình
chết theo chương trình của tế bào. Do đó những tế bào ung thư sẽ phân chia
liên tục và không có hiện tượng chết theo chương trình. Người ta cho rằng
gen p53 đã bị biến đổi không còn khả năng kiểm tra được sự phân chia tế bào
một cách bình thường. [6].
1.2.5. Các yếu tố khác:
Tình trạng nhiễm virus HPV, EBV có nguy cơ mắc ung thư phổi. Các
bệnh lý về phổi như xơ phổi, lao phổi, sarcoidosis hay tình trạng dinh dưỡng
như chế độ ăn ít hoa quả, rau tươi, thiếu vitamin A, E, ăn nhiều đồ nướng đều
là những yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ mắc UTPQP [20].
1.3.

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA UTPQP:

1.3.1. Triệu chứng của đường hô hấp:
Ho khan: là triệu chứng thường gặp, có thể là ho kéo dài, ho thành tiếng
hoặc ho thành cơn, điều trị bằng các thuốc giảm ho và kháng sinh không đỡ.
Theo Midthun (1996), tỷ lệ BN có triệu chứng ho trong UTPQP là 74% [40].
Mặc dù vậy, ho là triệu chứng của nhiều bệnh lý hô hấp cấp và mạn tính khác
nhau nên thường dễ bị bỏ qua chẩn đoán UTPQP, chỉ phát hiện khi tình trạng
bệnh đã nặng.


8

Khạc đờm: có thể khạc đờm trong hay có mủ, có thể có sốt đi kèm nếu có
tình trạng bội nhiễm phế quản như viêm mủ phế quản, viêm phổi do tắc nghẽn.
Ho ra máu: triệu chứng này gặp ở khoảng 50% các trường hợp. Ho máu
số lượng ít, lẫn với đờm thành dây máu đỏ thẫm hay hơi đen, đôi khi khạc máu

đơn thuần do u làm tổn thương một vài mạch máu nhỏ của phế quản và phổi.
Hội chứng viêm phế quản phổi cấp hoặc bán cấp: thường gặp trong ung
thư phế quản lớn, có biểu hiện như một viêm phổi hay phế quản phế viêm.
Nghĩ đến ung thư khi bệnh nhân hết sốt, không ho, không khạc đờm mà hình
ảnh trên X-quang vẫn còn tồn tại trên 1 tháng [7].
1.3.2. Các dấu hiệu chứng tỏ ung thư đã lan tỏa:
- Đau ngực: không có điểm đau rõ rệt, thường đau bên tổn thương, đau
kiểu thần kinh liên sườn. Có khi đau quanh bả vai, mặt trong cánh tay (hội chứng
Pancoast- Tobias) đó là trường hợp ung thư ở đỉnh phổi. Triệu chứng đau ngực
có thể làm thầy thuốc chẩn đoán nhầm là đau thần kinh liên sườn [2].
- Khó thở: thường ít gặp, thường do u làm tắc phế quản và xẹp phổi
hoàn toàn,nếu khó thở kiểu thanh quản và có tiếng cò cử thì có thể là do khối
u ở ngã ba khí phế quản, cũng có khi khó thở do liệt cơ hoành [2].
- Khó nuốt: do thực quản bị chèn ép.
- Khó nói: giọng khàn, giọng đôi do thần kinh quặt ngược bì chèn ép.
- Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên: phù áo khoác, tuần hoàn bàng
hệ ở mặt, ngực, môi tím.
- Hội chứng tràn dịch màng phổi: ung thư di căn vào màng phổi. Phải
chọc dịch màng phổi xét nghiệm tế bào, sinh thiết màng phổi, soi màng phổi.
- Hội chứng Claude- Bernard-Horner: do chèn ép thần kinh giao cảm
cổ: nửa mặt đỏ, khe mi mắt hẹp, đồng tử co nhỏ, nhãn cầu tụt về phía sau.


9

1.3.3. Các dấu hiệu ngoài phổi:
Liệt dây thần kinh hoành: thường phát hiện trong chụp Xquang ngực,
biểu hiện cơ hoành một bên nâng cao.
Xâm lấn hạch trước cơ bậc thang: hạch thượng đòn, làm sinh thiết
hạch, không có hạch thì làm sinh thiết Daniels (cắt một mảnh tổ chức trước cơ

bậc thang), xét nghiệm mô bệnh học.
Di căn tim, màng tim: hiếm gặp, thường ở giai đoạn muộn, biểu hiện
bằng viêm màng ngoài tim, tràn dịch màng ngoài tim.
Di căn các cơ quan khác: hạch hố thượng đòn, hạch cổ, hạch gần động
mạch chủ, carina, não, gan, tủy sống, tuyến thượng thận…
1.3.4. Các triệu chứng cận ung thư:
Gồm một số triệu chứng biểu hiện ngoài phổi không do di căn của
UTPQP với các đặc điểm: không thực sự đặc hiệu của UTPQP, có thể xuất
hiện trước khi phát hiện UTPQ, đặc điểm lâm sàng rõ rệt và tiến triển song
song với UTPQ, thuyên giảm nhanh sau cắt u.
Hội chứng Pierre-Marie: còn gọi là hội chứng sưng đau xương khớp
phì đại do u phổi (to đầu chi, ngón tay dùi trống, sưng đau các khớp nhỏ nhỡ,
đau dọc xương dài, tăng sinh màng xương dài, rối loạn vận mạch do cường
giao cảm phế vị).
Vú to một bên hoặc hai bên ở nam giới: 3% bệnh nhân có biểu hiện này
do khối u tiết hCG hay estrogen lạc chỗ. 3/4 các trường hợp sau khi cắt bỏ u
vú đang to lên sẽ trở lại bình thường.
Tăng calci huyết do ung thư: hay gặp nhất, chiếm 40% các trường hợp
tăng calci huyết. Gồm 2 loại: tăng calci huyết ác tính thể dịch gây ra bởi
hormon tuần hoàn và tăng calci huyết tiêu xương cục bộ gây ra bởi hormon
tại chỗ do ung thư di căn xương, tủy xương.


10

Giảm Natri huyết do ung thư: gặp ở 15% BN ung thư tế bào nhỏ, 3%
BN ung thư đầu mặt cổ, 1% BN ung thư không tế bào nhỏ.
Hội chứng ACTH lạc chỗ do ung thư: ACTH sản xuất lạc chỗ làm cho
tuyến thượng thận tăng tiết glucocorticoid và kháng corticoid. 50% do UTPQ
tế bào nhỏ gây ra, 10% do u carcinoid phế quản...

Bệnh to cực lạc chỗ: Do u sản sinh lạc chỗ hormon tăng trưởng GHRH.
Những ung thư gây ra bệnh to cực bao gồm: UTPQ, u carcinoid phế quản, u
đầu tụy, ung thư vú, ung thư đại tràng.
Hội chứng huyết học cận ung thư: Tăng bạch cầu hạt, tăng tiều cẩu,
tăng bạch cầu ái toan...
1.3.5. Triệu chứng di căn:
Hạch thượng đòn: hạch kích thước 1 - 2 cm, chắc, ít di động, một số
trường hợp hạch thành khối lớn xâm nhiễm vào tổ chức dưới da.
Đau do di căn có thể là triệu chứng đầu tiên của bệnh. UTPQ có xu
hướng di căn tới não, xương, gan, tuyến thượng thận và hạch bạch huyết. Di
căn tới não gây đau đầu liên tục kèm các biểu hiện thần kinh, di căn xương
gây đau nhức xương khớp, có thể gãy xương, di căn gan gây đau vùng bụng.
1.3.6. Triệu chứng toàn thân:
Thường gặp nhất là chán ăn, mệt mỏi, gầy sút, sốt. các triệu chứng này
thường không đặc hiệu, gặp nhiều trong các bệnh khác.
Mặc dù biểu hiện lâm sàng phong phú nhưng từng loại tế bào ung thư
thì tỷ lệ các triệu chứng cũng khác nhau. Theo Hasen và Salawry (1973): ho
ra máu, phù áo khoác, nuốt nghẹn, khàn tiếng gặp nhiều ở ung thư biểu mô
dạng biểu bì và dạng ung thư biểu mô tế bào nhỏ. Triệu chứng vú to ở nam
giới gặp nhiều ở ung thư biểu mô tế bào lớn. Tràn dịch màng phổi gặp nhiều ở
ung thư biểu mô tuyến [35].


11

Tỷ lệ BN có di căn từ UTPQP đến các cơ quan khác cũng khác nhau
tùy từng loại tế bào. Theo Hansen và Salawry, tỷ lệ BN có di căn ở ung thư
biểu mô tế bào nhỏ là cao nhất [35]. Trong các cơ quan di căn, di căn não
thường gặp hơn cả. Ngoài ra cũng hay gặp di căn hạch ngoại biên thường ở
cũng bên so với khối u.

Tuy nhiên, không phải tất cả BN đều có các triệu chứng lâm sàng như
đã nêu trên. Nhiều trường hợp phát hiện bệnh khi tình cờ đi khám sức khỏe
định kỳ, chỉ phát hiện được khi làm các phương pháp cận lâm sàng như chụp
Xquang, một số BN khi phát hiện bệnh đã ở giai đoạn nặng [39].
1.4. CÁC THĂM DÒ CẬN LÂM SÀNG TRONG CHẨN ĐOÁN UTPQP:
1.4.1. X-quang tim phổi:
X-quang tim phổi vẫn là một phương pháp cơ bản trong chẩn đoán
UTPQP. Chụp Xquang tim phổi thẳng nghiêng phát hiện được 70 - 80% các
trường hợp UTPQP. Hình ảnh Xquang phổi giúp ta định hướng chẩn đoán:
UTPQP trung tâm: là những nốt mờ ở cực trên hoặc ngay dưới rốn
phổi, hình thể tròn hoặc trái xoan không đều hoặc rốn phổi to ra do ung thư
xâm nhập vào hạch hoặc bóng mờ ở rốn phổi lồi to ra bờ có múi.
UTPQP ngoại vi: hình ảnh hay gặp là khối tròn đơn độc và sự lan rộng
của ung thư vào màng phổi.
Đặc điểm gợi ý khối u ác tính: bờ có múi, tua gai hoặc khe nứt, khối u
>= 3cm ( đường kính càng lớn khả năng ác tính càng cao).
Tuy nhiên, chẩn đoán bằng Xquang tim phổi còn nhiều hạn chế: không
phát hiện được khối u kích thước bé, các cấu trúc chồng lên xương, mạch máu
có thể che lấp được khối u...
Theo nghiên cứu của Đồng Khắc Hưng trên 162 BN UTPQP thì tỷ lệ
phát hiện khối u < 3cm bằng Xquang chỉ là 6,8%. [13]. Theo Tô Kiều Dung,


12

tỷ lệ này chỉ là 3,5% [9]. Như vậy trong trường hợp Xquang bình thường
cũng không cho phép loại trừ UTPQP, cần phải làm thêm các phương pháp
thăm dò cận lâm sàng khác đễ giúp chẩn đoán.
1.4.2. Chụp cắt lớp vi tính (CLVT):
Chụp cắt lớp vi tính có thể phát hiện được những tổn thương kích thước

nhỏ mà X-quang tim phổi không phát hiện được. Chụp CLVT cũng rất có giá
trị trong chẩn đoán giai đoạn của UTPQP, còn phát hiện được những di căn
của UTPQP vào rốn phổi, màng phổi, trung thất, hạch bạch huyết, xương
sườn, cột sống ngưc với độ nhạy 70 - 90%, độ đặc hiệu 60 - 80%. Ngoài ra,
phương pháp này còn có thể phân biệt được các u mỡ, kén nước, u đặc dựa
vào phương pháp đo tỷ trọng. Tuy nhiên, chụp CLVT lồng ngực không xác
định chắc chắn mô bệnh học của tổn thương u lành hay u ác và tỷ lệ âm tính
giả từ 15 - 30%.
Ngoài ra, chụp CLVT còn được sử dụng để hướng dẫn sinh thiết xuyên
thành ngực, xuyên thành phế quản, chọc hút qua nội soi thực quản, sinh thiết
qua nội soi trung thất. CLVT còn có thể phát hiện hạch vùng trung thất dưới
carina và khoang Barety để xác định giai đoạn của UTPQ [26].
1.4.3. Chụp cộng hưởng từ ( MRI):
Chụp MRI có thể được chỉ định khi tổn thương UTPQP mà chụp
CLVT khó phát hiện được như vùng đỉnh phổi, ống sống, thành ngực hay sát
mạch máu lớn ở trung thất mà không cần tiêm thuốc cản quang. Đánh giá
khối u vùng đỉnh phổi: xác định tình trạng xâm lấn thành ngực, xương sườn,
mạch máu lớn, đám rối cánh tay và ống tủy với độ nhạy 94% so với 63% của
chụp CLVT [17].
Ngoài ra chụp MRI sọ não còn được chỉ định trong đánh giá di căn não
của UTPQP. Theo Walker và CS (2007), ung thư phổi là nguồn gốc gây di


13

căn não nhiều nhất, chiếm 48% các bệnh lý ung thư [45]. Nguyên lý của MRI
phụ thuộc vào sự biến đổi mật độ của các proton, thời gian thư chuỗi dọc
(T1W) và thời gian thư chuỗi ngang (T2W). Trên MRI để đánh giá sự tương
phản hình ảnh có thể sử dụng nhiều loại xung khác nhau và thay đổi các thông
số khác nhau. Phân tích hình ảnh chủ yếu dựa vào 3 chuỗi xung T1W, T2W,

FLAIR và 3 hướng cắt khác nhau trong không gian, đó là mặt phẳng ngang
(axial), mặt phẳng đứng ngang (coronal) và mặt phẳng đứng dọc (sagital).
Phương pháp MRI cho phép quan sát các dấu hiêu trực tiếp của khối u
di căn như vị trí u, kích thước, hình dáng, số lượng, ranh giới, vôi hóa, chảy
máu trong u, hoại tử trong u và các hình ảnh gián tiếp như xâm lấn tổ chức
xung quanh khối, phù não, hiệu ứng khối do u đè đẩy.
1.4.4. Chụp cắt lớp bằng bức xạ hạt Positron (PET - Positron emisson
tomography):
PET có thể phát hiện u lành và u ác đạt hiệu quả cao hơn các phương
pháp khác nhờ ứng dụng nguyên lý chuyển hóa của tế bào ung thư: các tế bào
ung thư chuyển hóa glucose cao hơn bình thường và hấp thụ 18F Fluorodeoxy Glucose (FDG) và chuyển hóa thành FDG-6-PO4 giữ lại trong
tế bào. Khi đồng vị phóng xạ FDG phân hủy sẽ phát ra các positron mang
điện tích dương sinh ra tia gama. Máy chụp PET sẽ phát hiện và khu trú các
tia gama này để chẩn đoán ung thư và phân loại giai đoạn [31].
1.4.5. Chụp PET phối hợp với CLVT:
Hai loại hình ảnh PET và CLVT được phối hợp làm một chẩn đoán tốt
hơn sử dụng đơn độc mỗi phương pháp.
1.4.6. Xạ hình phổi:
Dùng đồng vị phóng xạ thấy giảm hoặc mất hiện tượng phân bố máu
trong phổi nơi có khối u. Kết hợp với ghi xạ hình thông khí phổi để dự đoán
FEV1 còn lại sau mổ. Nếu FEV1 sau mổ < 30% lý thuyết thì không nên mổ.


14

1.4.7. Các hình thức lấy bệnh phẩm mô bệnh học:
Mô bệnh học là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định bệnh UTPQP.
Các kỹ thuật lấy bệnh phẩm chẩn đoán bao gồm:
- Tế bào học dịch đờm.
- Tế bào học dịch màng phổi, sinh thiết màng phổi mù hay nội soi sinh

thiết màng phổi làm mô bệnh học.
- Tế bào học chọc hạch thượng đòn hoặc hạch cổ, sinh thiết hạch làm mô
bệnh học.
- Soi phế quản bằng ống mềm kết hợp với sinh thiết phế quản, sinh thiết
xuyên vách phế quản, chải rửa phế quản để xác định hình thái tổn
thương của niêm mạc khí phế quản, chẩn đoán tế bào mô bệnh học.
Theo Đồng Khắc Hưng (1995), sinh thiết phế quản với UTPQ trung
tâm tỷ lệ dương tính là 77,9%, UTPQ ngoại vi tỷ lệ dương tính là
58,1%. Sinh thiết xuyên thành phế quản thì tỷ lệ dương tính của UTPQ
trung tâm là 81,8%, UTPQ ngoại vi dương tính là 65,1% [13].
- Chọc hút, sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của siêu âm
hoặc CLVT làm tế bào học và mô bệnh học. Đây được xem như là một
phương pháp rất có hiệu quả để xác định tổn thương ở nơi không thể
nội soi sinh thiết được hay khi sinh thiết qua soi phế quản cho kết quả
âm tính. Theo Ngô Quý Châu (1992) nghiên cứu 86 BN UTPQP được
sinh thiết chọc hút kim nhỏ qua thành ngực dưới hướng dẫn của
Xquang thấy: độ nhạy ở lần thứ nhất là 87,4%, lần thứ hai là 96,6% và
lần thứ ba là 100%, không có dương tính giả, độ đặc hiệu là 100% [3].
1.4.8. Các kỹ thuật thăm dò khác:
Thăm dò chức năng hô hấp: Dung tích sống có thể giảm nhẹ hoặc nặng tùy
theo khối u lớn hay bé, làm xẹp phổi hoàn toàn hay một phần. FEV1 có thể giảm,
nếu chỉ số Tiffeneau giảm dưới 50% thì không có chỉ định phẫu thuật.


15

Siêu âm xuyên phế quản: xác định sự xâm lấn của ung thư vào hạch
trung thất, rốn phổi và sự lan tràn trực tiếp vào trung thất và khí phế quản
trước mổ.
Siêu âm nội soi qua phế quản: sử dụng đầu dò siêu âm gắn ở đầu soi

phế quản có hiệu quả hơn trong việc phát hiện hạch trung thất và các khối u
khác xâm lấn vào trung thất.
1.5. CÁC TYPE MÔ BỆNH HỌC CỦA UTPQP:
Dựa theo phân loại của WHO năm 1999, UTPQ được chia làm 9 loại :
1.5.1. Ung thư biểu mô tế bào nhỏ:
Là loại ung thư có độ ác tính cao, dễ di căn xa, thường xuất hiện ở vị trí
quanh phế quản và xâm nhập dưới niêm mạc. Đặc trưng bởi sự lan rộng các tế
bào u nhỏ (chỉ lớn gấp 2 - 3 lần tế bào lympho thuần thục).
1.5.2. Ung thư biểu mô tuyến:
Loại ung thư này chiếm khoảng 50% các loại UTPQP, chủ yếu gặp ở
nữ giới. Thường gặp u ở vùng ngoại vi, soi phế quản ít thấy tổn thương. Đặc
điểm mô bệnh học đặc trưng nhất là sự hình thành các ống tuyến hay sản sinh
chất nhầy của tế bào u.
Các hình thái như:
+ Dạng nang.
+ Dạng nhú.
+ Tiểu phế quản phế nang: không chế nhày, chế nhầy, hỗn hợp chế
nhày và không chế nhày hay loại tế bào trung gian.
+ Ung thư biểu mô tuyến đặc với chất nhầy.
+ Ung thư biểu mô tuyến với các nhóm phức hợp.


16

1.5.3. Ung thư biểu mô tế bào vảy:
Ung thư biểu mô tế bào vảy chiếm khoảng 30% trong UTPQP sau ung
thư biểu mô tuyến. Đặc điểm đó là các tế bào u xếp thành đám, dạng lát tầng
có thứ tự. Đặc điểm quan trọng nhất để chẩn đoán là dựa vào sự biệt hóa vảy
của các tế bào u.
1.5.4. Ung thư biểu mô tế bào lớn:

Là dạng ít gặp, chiếm khoảng 10 - 15% tổng số các type. Tế bào u đa
hình thái, kích thước lớn xếp thành từng đám hay dải nhưng không cho thấy
sự biệt hóa vảy hay tuyến.
1.5.5. Ung thư biểu mô tuyến dạng biểu bì:
Ung thư có sự hiện diện của biểu mô vảy và biểu mô tuyến, mỗi loại
gồm ít nhất 10% toàn bộ khối u.
1.5.6. Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình thể, sarcome và dạng
sarcome:
Đây là nhóm ung thư biểu mô không tế bào nhỏ kém biệt hóa, trong đó
có chứa các thành phần của những phần tử sarcome hay dạng sarcome.
+ Ung thư biểu mô với các tế bào hình thoi và/ hoặc tế bào khổng
lồ.
+ Ung thư biểu mô - sarcome.
+ Ung thư nguyên bào phổi.
+ Loại khác.
1.5.7. U carcinoid:
Đặc trưng bằng những mẫu phát triển dạng cơ quan, bè, đảo, dậu, dải
hoặc sắp xếp dạng hoa hồng nhỏ gợi ra sự biệt hóa thần kinh - nội tiết.


17

+ U carcinoid điển hình.
+ U carcinoid không điển hình.
1.5.8 Ung thư biểu mô dạng tuyến nước bọt:
Đặc trưng bằng sự hiện diện của các tế bào vảy, tế bào chế nhầy và các
type trung gian, về mô bệnh học giống như u tuyến nước bọt cùng tên.
+ Ung thư biểu mô tế bào vảy - nhầy
+ Ung thư biểu mô túi dạng tuyến bạch huyết
+ Các nhóm khác

1.5.9. Ung thư biểu mô không xếp loại:
Thực chất là các ung thư không biệt hóa, không thể xếp vào loại nào
trong 8 type trên.
Đa số các UTPQP thuộc vào 4 nhóm đầu tiên.
1.6. PHÂN LOẠI TNM VÀ GIAI ĐOẠN
1.6.1. Phân loại TNM của UTPQP không tế bào nhỏ:
Hệ thống phân loại quốc tế UTPQPKTBN ra đời năm 1974 được dùng
để đánh giá giai đoạn bệnh, chỉ ra các yếu tố tiên lượng đối với từng nhóm
nhỏ. Phân loại này được đánh giá dựa trên sự xâm nhập của khối u vào tổ
chức phổi, xâm lấn vào các cơ quan kế cận và tổ chức xung quanh (T), số
hạch vùng liên quan (N), và việc có hay không có di căn xa (M) [6]. Hệ thống
phân loại này đã được sửa đổi để phù hợp hơn năm 2010:
T - Khối u nguyên phát ( primary tumor)
+ Tx: Không đánh giá được khối u nguyên phát.
+ Tis: Khối u tại chỗ
+ To: Không thấy khối u


18

+ T1: Khối u ≤ 3cm, được bao bọc bởi phổi hoặc màng phổi tạng,
không xâm lấn phế quản thùy. Trong đó:
- T1a: khối u ≤ 2cm.
- T1b: khối u > 2cm nhưng ≤ 3cm
+ T2: Khối u > 3cm nhưng ≤ 7cm, hoặc khối u xâm lấn vào màng
phổi tạng, tổn thương tại phế quản gốc nhưng cách carina ≥ 2cm, hoặc khối u
gây xẹp phổi/ viêm phổi tắc nghẽn lan đến rốn phổi nhưng không tổn thương
toàn bộ phổi. Trong đó:
- T2a: khối u > 3cm nhưng ≤ 5cm.
- T2b: Khối u > 5cm nhưng ≤ 7cm.

+ T3 : Khối u > 7cm hoặc xâm lấn trực tiếp vào thành ngực, vòm
hoành, thần kinh hoành, màng phổi trung thất, màng ngoài tim ; hoặc khối u ở
phế quản gốc cách carina < 2cm ; hoặc khối u gây xẹp phổi/ viêm phổi tắc
nghẽn toàn bộ phổi ; hoặc có những khối u khác cùng thùy.
+ T4 : Khối u có đường kính bất kỳ xâm lấn vào tim, mạch máu lớn,
khí quản, thực quản, thần kinh quặt ngược, thanh quản, thân đốt sống, carina
hoặc có những khối u khác ở thùy phổi khác cùng bên.
N - hạch lympho vùng ( regional lympho nodes)
+ Nx : Không đánh giá được tình trạng hạch.
+ N0 : Không có hạch di căn vùng.
+ N1 : Di căn vào hạch lympho quanh phế quản, và/ hoặc hạch quanh
rốn phổi cùng bên và những hạch trong phổi, kể cả tổn thương xâm lấn trực tiếp.
+ N2 : Di căn vào hạch lympho trung thất và/ hoặc dưới carina.
+ N3 : Di căn vào hạch lympho trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối
bên, hạch cơ bậc thang cùng bên hay đối bên, hoặc hạch lympho thượng đòn.
M - Di căn xa (distant metastasis)
+ Mx : Không đánh giá được tình trạng di căn xa.
+ M0 : Không có di căn xa.


19

+ M1a : Có khối u khác ở phổi đối bên ; hoặc khối u với những khối ở
màng phổi hoặc sự lan tràn màng phổi ác tính.
+ M1b : Di căn xa.
1.6.2. Phân loại giai đoạn của UTPQ tế bào nhỏ :
Gồm 2 giai đoạn :
- Giai đoạn giới hạn : có những tổn thương khu trú ở một nửa lồng
ngực, có hay không có xâm nhập hạch bạch huyết và tràn dịch màng phổi
không phụ thuộc vào kết quả tế bào học.

- Giai đoạn lan tràn : là những trường hợp muộn hơn giai đoạn giới
hạn, bao gồm cả xâm nhập cả hạch bạch huyết xa và các tạng như : não, gan,
tụy, các vị trí ổ bụng và mô mềm.
Bảng 1.1: Phân loại giai đoạn TNM theo AJCC và UICC 2009
Giai đoạn
Ia

T
T1a,b

N
N0

M
M0

Ib
IIa

T2a
T1a,b

N0
N1

M0
M0

T2a


N1

M0

T2b
T2b

N0
N1

M0
M0

T3

N0

M0

T1-3

N2

M0

T3

N1

M0


T4
T4

N0,1
N2

M0
M0

T1-4

N3

M0

T bất kỳ

N bất kỳ

M1a,b

IIb
IIIa

IIIb

IV



20

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Gồm 100 bệnh nhân được chẩn đoán lúc ra viện là UTPQP, điều trị tại
Trung tâm hô hấp bệnh viện Bạch Mai trong năm 2013.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
Được chẩn đoán xác định là UTPQP bằng mô bệnh học.
Được nhập viện và điều trị tại Trung tâm hô hấp bệnh viện Bạch Mai
trong năm 2013.
BN được khai thác đầy đủ các triệu chứng lâm sàng và tiền sử, được
làm các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết cho chẩn đoán (Xquang, CLVT,
sinh thiết chẩn đoán mô bệnh học).
Hồ sơ bệnh án lưu trữ đầy đủ.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
Ung thư phổi thứ phát.
Bệnh án nghiên cứu không đầy đủ thông tin.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
2.2.1. Loại nghiên cứu:
Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang.
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu:
Địa điểm nghiên cứu: hồ sơ bệnh án thu thập tại phòng lưu trữ hồ sơ
bệnh viện Bạch Mai.


21

2.2.3. Cách thức tiến hành:

Thu thập bệnh án của các bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định
UTPQP bằng tế bào học hoặc mô bệnh học tại Trung tâm Hô Hấp bệnh viện
Bạch Mai từ tháng 1/2013 đến tháng 12/2013. Điền các thông tin cần thiết thu
thập được vào mẫu bệnh án nghiên cứu.
Những thông tin cần thiết:
- Hành chính: tên, tuổi, giới, địa chỉ, ngày vào viện, ngày ra viện.
- Thời gian phát hiện bệnh: là khoảng thời gian kể từ khi phát hiện dấu
hiệu đầu tiên của bệnh đến khi vào viện.
Triệu chứng lâm sàng nghi ngờ UTPQP:
- Triệu chứng của đường hô hấp:
+ Ho khan kéo dài.
+ Ho máu.
+ Ho có đờm.
+ Khó thở
- Triệu chứng chèn ép, xâm lấn vào thành ngực, lồng ngực:
+ Đau ngực.
+ Khàn tiếng, mất tiếng hoặc giọng đôi.
+ Nuốt khó, nuốt nghẹn.
+ Hội chứng chèn ép TM chủ trên: phù áo khoác, phù cổ mặt, tĩnh
mạch cổ nổi, tím mặt
+ Hội chứng Pancoast - Tobias
+ Nấc
+ Hội chứng Claude - Bernard - Horner


22

- Triệu chứng cận ung thư:
+ To đầu chi: móng tay khum, ngón tay dùi trống
+ Đau nhức xương khớp

+ Vú to nam giới
- Triệu chứng toàn thân: mệt mỏi, chán ăn, gầy sút cân, sốt.
- Vị trí hạch ngoại biên
- Tiền sử hút thuốc lá, thuốc lào, số bao năm hút; tiền sử tiếp xúc với
hóa chất, amiant.
Đặc điểm cận lâm sàng của bệnh UTPQP:
- Xét nghiệm công thức máu, máu lắng, sinh hóa máu, chức năng hô hấp.
- Kết quả Xquang phổi chuẩn và hoặc CLVT ngực:
+ Vị trí và hình ảnh tổn thương trên XQ và CLVT
+ Mức độ xâm lấn của khối u tới các tổ chức xung quanh trên CLVT
+ Các tổn thương khác: xẹp phổi, TDMP, TDMT
+ Hạch trung thất trên CLVT
- Nội soi phế quản:
+ Vị trí tổn thương trên nội soi: thanh quản, khí quản, carina, PQ
gốc P, PQ gốc T, phổi P, phổi T
+ Hình ảnh tổn thương trên nội soi: u sùi, phù nề chít hẹp, thâm
nhiễm, loét chảy máu, đè ép từ ngoài vào, viêm cấp, viêm mủ,
viêm mạn, chảy máu...
- Các xét nghiệm đánh giá di căn xa: CHT sọ não, CHT toàn thân, xạ
hình xương, PET CT, siêu âm, CLVT ổ bụng.


23

- Chẩn đoán type mô bệnh học: tiến hành lấy bệnh phẩm bằng nhiều
phương pháp khác nhau phụ thuộc vào vị trí khối u, tình trạng của
bệnh nhân.
+ Sinh thiết cựa phế quản
+ Sinh thiết xuyên vách phế quản
+ Sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CLVT

+ Sinh thiết màng phổi
+ Sinh thiết hạch
Mẫu bệnh phẩm được gửi đến Trung tâm giải phẫu bệnh Bệnh viện
Bạch Mai và phân loại mô bệnh học UTPQP theo tiêu chuẩn của tổ chức y tế
thế giới năm 1999.
Phân loại giai đoạn bệnh: nghiên cứu của chúng tôi sử dụng bảng phân
loại TNM của AJCC và UICC năm 2010 cho UTPQP.
Phân loại giai đoạn bệnh: ( theo AJCC và UICC 2010)
+ Giai đoạn I: T1,N0,M0; T2a,N0,M0.
+ Giai đoạn II: T2b,N0,M0; T1-2,N0,M0; T3,N0,M0
+ Giai đoạn III: T4,N0,M0; T3-4,N1,M0; T1-4,N2-3,M0
+ Giai đoạn IV: T bất kỳ, N bất kỳ, M1.
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU:
Nhập, xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 và các thuật toán thống
kê y học.
Kết quả được biểu diễn dưới dạng bảng và đồ thị thống kê tỷ lệ hoặc
tần suất với biến định tính. Với biến định lượng được biểu thị dưới dạng trung
bình ± độ lệch chuẩn.


24

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA BỆNH UTPQP:
3.1.1. Đặc điểm phân bố bệnh theo giới:

Biểu đồ 3.1: Phân bố bệnh theo giới
Nhận xét:

Trong mẫu nghiên cứu của 100 BN mắc bệnh UTPQP thì chúng tôi gặp
73 BN là nam giới (73,0%) và 27 BN là nữ giới (27,0%).
Tỷ lệ BN nam/ nữ là 2,7/1.


25

3.1.2. Đặc điểm phân bố theo tuổi:
Bảng 3.1: Phân bố bệnh theo tuổi
Nhóm tuổi

Số BN

Tỷ lệ %

< 40

1

1,0

40 – 49

11

11,0

50 – 59

32


32,0

60 – 69

35

35,0

≥ 70

21

21,0

Tổng

100

100

Nhận xét:
Tuổi trung bình của bệnh UTPQP trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi
là 60,8 ± 10,34, thấp nhất là 32 tuổi, cao nhất là 83 tuổi.
Trong số 100 BN, gặp chủ yếu ở nhóm 60 - 69 tuổi với 35 BN
( 35,0%), sau đó là 32 BN ở nhóm tuổi 50 - 59 tuổi ( 32,0%). Nhóm ≥ 70 tuổi,
chúng tôi gặp 21 BN (21,0%), nhiều hơn ở nhóm 40 - 49 tuổi là 11 BN
( 11,0%). Nhóm < 40 tuổi chỉ có 1 BN ( 1,0%).



×