Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn bị thu hồi đất do tác động của đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.56 KB, 96 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

1

LỜI MỞ ĐẦU
Đô thị hóa là xu hướng phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế
giới. Qúa trình đô thị hóa có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống
kinh tế-xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế quốc gia. Song song với
những lợi ích không nhỏ đã đạt được, quá trình đô thị hóa cũng làm nảy sinh
nhiều bức xúc, trong đó có vấn đề người dân bị thu hồi đất, rơi vào tình
trạng bị mất việc làm.
Là một nước đang phát triển, Việt Nam cũng không nằm ngoài quy
luật trên. Hiện nay, quá trình hiện đại hóa và đô thị hóa đang được đẩy mạnh
nên vấn đề nông dân bị thu hồi đất, vấn đề tạo việc làm mới cho những nông
dân này vẫn luôn là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và của mọi người
dân trong xã hội. Thực tế cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng
tạo việc làm cho người lao động bị thu hồi đất bằng các hoạt động cụ thể
như ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích tạo việc làm, hỗ trợ vốn, đề
ra các chương trình quốc gia giải quyết việc làm…Việc thực hiện tốt các
chương trình này đã góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người lao
động. Tuy nhiên, hiện nay, nhu cầu việc làm ngày càng tăng, do đó vấn đề
tạo việc làm cho người lao động nói chung và người lao động bị ảnh hưởng
trong quá trình đô thị hóa nói riêng đang là một vấn đề nhạy cảm và rất được
quan tâm.
Với mục tiêu đề xuất các giải pháp về lao động và việc làm cho những
người nông dân bị thu hồi đất do quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội
nhằm nâng cao đời sống và thu nhập cho người dân tôi đã chọn đề tài: “Một
số giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp nông thôn bị
thu hồi đất do tác động của đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội”.

Sinh viên: Lê Thị Miền



Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

2

Qua việc tìm hiểu nguyên nhân và thực trạng của vấn đề này tôi muốn
có một vài đóng góp nhỏ nhằm giải quyết vấn đề còn nhiều tranh cãi này
trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trong tiến trình hội nhập như
hiện nay.
Nội dung chính của đề tài bao gồm:
Chương I: Cơ sở lý luận về lao động và việc làm cho người lao động nông
nghiệp nông thôn.
Chương II: Thực trạng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp nông thôn bị
thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội.
Chương III: Những biện pháp nhằm giải quyết việc làm cho nông dân
bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới giảng viên Hoàng Văn Định,
người đã tận tình hướng dẫn và cung cấp cho tôi những kinh nghiệm quý
báu để hoàn thành bài viết này. Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới
Tiến sĩ Chu Tiến Quang, người đã hướng dẫn tôi tại cơ sở thực tập, cung cấp
cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm để hoàn tất quá trình thực tập của
mình.
Do còn nhiều hạn chế về trình độ, năng lực, và thời gian hoàn thành
bài viết có hạn nên tôi khó tránh khỏi những sai sót trong quá trình nghiên
cứu và tìm hiểu đề tài. Rất mong nhận được sự thông cảm, góp ý của thầy cô
giáo và các bạn để hoàn thiện hơn về vấn đề này.


Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

3

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LAO ĐỘNG VÀ VIỆC
LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, NÔNG
THÔN DO TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA

I. NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ NGUỒN LAO
ĐỘNG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.
1. Khái niệm và vai trò của lao động.
1.1. Khái niệm.
Lao động là hoạt động có mục đích của con người nhằm biến đổi các
vật chất tự nhiên thành sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người.
Lao động là một hành động diễn ra giữa người và giới tự nhiên. Trong khi
lao động con người vận dụng sức lực tiềm tàng trong thân thể của mình, sử
dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự nhiên, chiếm lấy những vật
chất trong tự nhiên, biến đổi vật chất đó, làm cho chúng trở nên có ích cho
đời sống của mình. Vì thế lao động là điều kiện không thể thiếu được của
đời sống con người, là một sự tất yếu vĩnh viễn, là kẻ môi giới trong sự trao
đổi vật chất giữa tự nhiên và con người. Lao động chính là việc sử dụng sức
lao động.
1.2. Vai trò của lao động đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Qúa trình lao động đồng thời là quá trình sử dụng sức lao động. Sức

lao động là năng lực lao động của con người, là toàn bộ thể lực và trí lực của
con người. Sức lao động là yếu tố tích cực nhất, hoạt động nhất trong quá
trình lao động. Nó phát động và đưa các tư liệu lao động vào hoạt động để
tạo ra sản phẩm. Nếu coi sản xuất là một hệ thống gồm ba phần hợp thành
(các nguồn lực, quá trình sản xuất, sản phẩm hàng hóa) thì sức lao động là

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

4

một trong các nguồn lực khởi đầu của sản xuất (đầu vào) để tạo ra các sản
phẩm hàng hóa (đầu ra).
Không có lao động đồng nghĩa với việc xã hội sẽ không tham gia vào
quá trình sản xuất vật chất. Như vậy, con người sẽ không thể có những phát
minh, sáng chế khoa học, không tạo ra của cải vật chất… và do vậy xã hội
không thể tồn tại được. Do đó có thể coi lao động là yếu tố khởi nguồn của
sự sống, sự phát triển xã hội loài người.
2. Nguồn lao động và đặc điểm nguồn lao động nông nghiệp nông
thôn.
2.1. Khái niệm nguồn lao động nông nghiệp nông thôn.
Nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của xã hội.
Việc nghiên cứu nguồn nhân lực trong nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối
với sự phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân.
Nguồn nhân lực trong nông nghiệp là tổng thể sức lao động tham gia

vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng của
người lao động. Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15
đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) và những người trên và dưới độ tuổi nói
trên tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, lượng của nguồn nhân lực trong nông nghiệp không phải chỉ
bao gồm những người trong độ tuổi mà bao gồm cả những người trên và
dưới độ tuổi có khả năng và thực tế tham gia lao động.
Về chất lượng bao gồm cả thể lực và trí lực của người lao động, cụ thể
là trình độ sức khỏe, trình độ nhận thức, trình độ chính trị, trình độ văn hóa,
nghiệp vụ và tay nghề của người lao động.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

5

2.2. Đặc điểm của nguồn lao động nông nghiệp nông thôn.
Lao động trong kinh doanh nông nghiệp gắn chặt với đất đai, điều
kiện tự nhiên, cây trồng, vật nuôi, công cụ lao động…Vì vậy lao động trong
sản xuất nông nghiệp nông thôn có những đặc điểm riêng như:
Thứ nhất, lao động trong nông nghiệp có tính thời vụ: Đặc điểm này
do tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp quy định. Tuy vậy hiện nay con
người cũng có nhiều biện pháp hữu hiệu để giảm bớt tính thời vụ này.
Thứ hai, lao động trong sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào
điều kiện tự nhiên: Là một ngành phải thường xuyên tiếp xúc với môi trường
tự nhiên nên lao động trong ngành cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ của các

điều kiện khí hậu như mưa, nắng, gió, bão, lũ lụt…Nếu điều kiện thuận lợi
thì cây trồng, vật nuôi phát triển tốt và ngược lại. Vì vậy, cần phải có những
giải pháp hạn chế rủi ro, tăng thời gian làm việc và năng suất lao động trong
công tác tổ chức và sử dụng lao động.
Thứ ba, lao động trong sản xuất nông nghiệp tiếp xúc thường xuyên
với cơ thể sống. Do đối tượng lao động của nông nghiệp là cây trồng và vật
nuôi, chúng phát triển theo các quy luật sinh học. Vì thế, để giúp cây trồng
và vật nuôi phát triển tốt, con người phải có sự hiểu biết về quy luật phát
triển của sinh vật, phải gắn bó chăm sóc, tạo mọi điều kiện để cây trồng vật
nuôi phát triển tốt.
Thứ tư, lao động trong sản xuất nông nghiệp có kết cấu phức tạp,
không đồng nhất: Lao động trong nông nghiệp có nhiều loại khác nhau như
lao động thường xuyên, lao động thời vụ, lao động trong độ tuổi, lao động
ngoài độ tuổi, lao động giản đơn, lao đông kỹ thuật, lao động gia đình, lao
động thuê ngoài…Vì vậy đòi hỏi phải tìm ra các hình thức tổ chức lao động
thích hợp, với điều kiện cụ thể của từng cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm
phát huy đầy đủ có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của cơ sở.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

6

Từ trước tới nay, những người dân nông thôn sinh sống theo làng
xóm, xung quanh đều là anh em họ hàng. Văn hóa sinh hoạt theo nếp sống
cộng đồng làng xóm, họ hàng gần gũi. Môi trường văn hóa thuần khiết, có

quan hệ hàng xóm gần gũi, lành mạnh, ít tệ nạn xã hội.
2.3. Xu hướng biến động nguồn lao động.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nguồn nhân lực
trong nông nghiệp có số lượng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng lao động
xã hội. Song, cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hóa, nguồn
nhân lực trong nông nghiệp vận động theo xu thế giảm xuống cả tương đối
và tuyệt đối. Qúa trình biến đổi đó diễn ra theo hai giai đoạn như sau:
Giai đoạn đầu diễn ra khi đất nước bắt đầu công nghiệp hóa, nông
nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hóa, năng suất lao động nông nghiệp
tăng lên, một số lao động nông nghiệp được giải phóng trở nên dư thừa và
được các ngành khác thu hút, sử dụng vào hoạt động sản xuất – dịch vụ.
Nhưng do tốc độ tăng tự nhiên của lao động trong khu vực công nghiệp lớn
hơn tốc độ thu hút lao động dư thừa từ nông nghiệp nên ở thời kỳ này tỷ
trọng lao động nông nghiệp mới giảm tương đối, số lượng tuyệt đối còn tăng
lên. Giai đoạn này dài hay ngắn tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của
đất nước quyết định..
Giai đoạn thứ hai, nền kinh tế đã phát triên ở trình độ cao, năng suất
lao động nông nghiệp tăng nhanh và năng suất lao động xã hội đạt trình độ
cao. Số lao động dôi ra do nông nghiệp giải phóng đã được các ngành khác
thu hút hết. Vì thế, giai đoạn này số lượng lao động giảm cả tương đối và
tuyệt đối.
Số lượng và chất lượng nguồn lao động nông nghiệp có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Ở một số nước đang phát triển số lượng nguồn lao đông
nông nghiệp rất lớn nhưng chất lượng nguồn lao động nông nghiệp thấp.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A



Khóa luận tốt nghiệp

7

Còn ở một số nước phát triển thì số lượng nguồn lao động nông nghiệp
không nhiều nhưng chất lượng nguồn lao động lại rất cao. Do vậy, xu hướng
biến động của nguồn lao động trong nông nghiệp là giảm số lượng nguồn lao
động trong nông nghiệp và tăng cường chất lượng nguồn lao động nông
nghiệp.
Nước ta đang ở giai đoạn thứ nhất, tỷ trọng nông nghiệp trong tổng
lao động xã hội đã có xu hướng giảm xuống từ 72% năm 1993 xuống
68,64% năm 1998 và xuống còn 56,79% năm 2005, nhưng số lao động còn
tăng lên, từ 20.482,9 ngàn lao động lên 25.302 ngàn lao động năm 1998 và
24.676 ngàn lao động năm 2005
II. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN.
1. Khái niệm việc làm.
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động
lao động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Điều 13, Chương II(việc làm), Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương bằng tiền mặt hoặc
bằng hiện vật cho công việc đó.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm: sản xuất
nông nghiệp trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng hoặc hoạt
động kinh tế phi nông nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc
một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao

dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

8

nông nghiệp trên đất do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử
dụng, hoặc hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành
viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
Như vậy một hoạt động được coi là việc làm khi hoạt động đó không
bị pháp luật cấm và hoạt động đó phải có ích, tạo ra thu nhập cho người lao
động và cho các thành viên trong gia đình.
2. Các đặc trưng về việc làm ở nông thôn.
Ở nông thôn các ngành sản xuất nông, lâm, thủy hải sản vẫn là nguồn
cung cấp việc làm chính cho người dân nông thôn. Nhưng hiện nay do ảnh
hưởng của quá trình đô thị hóa làm thu hẹp diện tích canh tác nông nghiệp
làm giảm nguồn cung cấp việc làm cho lao động nông thôn. Song song với
vấn đề diện tích bị thu hẹp còn vấn đề dân số tăng nhanh làm cho đất nông
nghiệp ngày càng trở nên khan hiếm, nếu không được chuyển dịch sang các
ngành sản xuất khác thì tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm trong nông
nghiệp nông thôn sẽ là điều khó tránh khỏi.
Qúa trình sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự
nhiên, sinh thái của từng vùng…Việc sản xuất chủ yếu theo mùa vụ, do đó
việc làm cho lao động không thường xuyên. Đến lúc mùa vụ thì công việc
chủ yếu là gieo trồng và thu hoạch, còn lại là thời kỳ nông nhàn. Trong thời

kỳ nông nhàn thì lao động nông thôn có thể được coi là thiếu việc làm. Khi
đó một bộ phận lao động nông thôn chuyển sang làm các công việc phi nông
nghiệp hay di chuyển đến nơi khác để tìm việc làm, kiếm thêm thu nhập.
Các làng nghề thủ công truyền thống đã và đang phát huy được thể
mạnh trong việc tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn. Nghề này tạo ra
các sản phẩm thủ công độc đáo không chỉ có giá trị sử dụng mà còn mang
đặc trưng văn hóa, nghệ thuật của từng cộng đồng, dân tộc. Hoạt động phi
nông nghiệp này hiện nay cũng là một nguồn cung cấp việc làm hiệu quả
cho một lượng không nhỏ lao động thất nghiệp trong nông thôn.
Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

9

Các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn chủ yếu
đều bắt nguồn từ kinh tế hộ gia đình. Do đó các lao động trong hộ có thể làm
các công việc của nhau. Việc đa dạng các hoạt động việc làm này cũng
chính là một giải pháp hiệu quả để tạo thêm việc làm cho lao động nông
thôn.
Ngoài ra ở nông thôn còn có các hoạt động dịch vụ nông thôn như
cung ứng vật tư, đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Hoạt động này cũng cần
một lượng lao động không nhiều nhưng cũng đáng kể góp phần làm giảm
thiếu việc làm và thất nghiệp ở nông thôn, tăng thêm thu nhập cho người lao
động.
3. Thiếu việc làm và thất nghiệp.
Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá

hình là những người làm việc ít hơn mức mà mình mong muốn. Thiếu việc
làm được biểu hiện dưới hai dạng: hoặc là người lao động không có đủ việc
làm theo thời gian quy định trong tuần, trong tháng hoặc là làm những công
việc có thu nhập quá thấp không đảm bảo cuộc sống nên muốn làm việc
thêm để có thu nhập.
Thất nghiệp là sự mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư
liệu sản xuất. Thất nghiệp được chia thành nhiều loại, trong đó có một số
loại thất nghiệp như sau:
Thất nghiệp tạm thời: Là thất nghiệp phát sinh do người lao động cần
có thời gian để tìm việc làm thích hợp nhất với chuyên môn và sở thích của
họ.
Thất nghiệp cơ cấu: Là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ
giữa kỹ năng, trình độ lành nghề của người lao động với cơ hội việc làm do
cầu lao động và sản xuất thay đổi.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

10

Thất nghiệp theo mùa: Là thất nghiệp do cầu lao động giảm thường
vào những thời kỳ nhất định trong năm. Ví dụ cầu lao động của ngành nông
nghiệp giảm sau vụ trồng cấy và kéo dài cho đến khi thu hoạch mùa màng.
Thất nghiệp chu kỳ: Là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo thời
kỳ của nền kinh tế. Ví dụ trong thời gian kinh tế suy thoái mức thất nghiệp
tăng lên.

4. Các chính sách của Đảng và Nhà nước về việc làm.
Cơ chế chính sách của Nhà nước, của chính quyền địa phương, các
quy định của chủ doanh nghiệp là nhóm nhân tố rất quan trọng trong việc
tạo việc làm cho người lao động. Trong mỗi thời kỳ khác nhau, Nhà nước sẽ
đề ra những chính sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất,
cải thiện đời sống, mở rộng hoặc thu hẹp việc làm của ngành này hay ngành
khác, tạo môi trường để người sử dụng lao động và người lao động gặp
nhau. Các chính sách và cơ chế của Nhà nước cũng trực tiếp hoặc gián tiếp
khuyến khích chủ sử dụng lao động thu hút lao động hay sa thải lao động.
Với đặc điểm của nước ta là có số lượng lao động dồi dào, lực lượng
lao động trẻ. Đặc điểm này đã trở thành lợi thế so sánh của nước ta. Nhận
thức được điều này, Chính phủ đã đề ra các chương trình tạo việc làm song
song với những cải cách trong chính sách lao động. Một số chương trình đã
được Chính phủ áp dụng và tạo ra hiệu quả tương đối tốt được thể hiện dưới
đây:
Chương trình quốc gia tạo việc làm(NEGP).
Chính phủ đề ra chương trình này năm 1992. Chương trình có mục
đích tăng cường trực tiếp các cơ hội tạo việc làm bằng việc cung cấp cho
người lao động trợ cấp tín dụng, trợ cấp thời gian gián đoạn làm việc và đào
tạo nghề. Việc thực hiện chương trình do Qũy tạo việc làm quốc gia tài trợ
với cam kết từ phía Nhà nướcvà vốn ODA. Qũy này ưu tiên và cung cấp các

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

11


điều khoản ưu đãi cho các dự án ở khu vực nông thôn, các chương trình tạo
việc làm hoạc các dự án kinh doanh sử dụng nhiều lao động. Đến nay
chương trình này đã đạt được những hiệu quả đáng kể. Tính từ năm 1992 tới
giữa năm 2006, Qũy tạo việc làm quốc gia đã cho vay 5.500 tỷ đồng và tạo
ra khoảng 4 triệu việc làm. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ước tính
rằng trong năm 2004 Qũy này đã cho vay 1.015 tỷ đồng và tạo ra khoảng
350.000 việc làm hay 22,5% tổng việc làm trong năm đó. Trong giai đoạn
2005-2010 Qũy có kế hoạch giải ngân khoảng 6000 tỷ đồng hỗ trợ tạo thêm
khoảng 1,5-1,6 triệu việc làm. Tuy nhiên, chương trình này cũng gây ra
nhiều lo ngại như tính hiệu quả và sự hợp lý của những vốn vay không kiểm
soát được.
Tạo việc làm ở khu vực nông thôn và thành thị
Cam kết của Chính phủ tạo thêm việc làm đã dẫn đến những cải cách
tiếp theo trong chính sách đầu tư. Luật Doanh nghiệp năm 2000, và gần đây
là luật Doanh nghiệp năm 2005, đã đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh
của Doanh nghiệp hơn rất nhiều. Điều này đã giúp cho rất nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp trong nhiều
năm qua.
Nhằm tăng cường tạo việc làm ở khu vực nông thôn, Chính phủ đã có
một số sáng kiến giúp cải thiện khả năng tiếp cận của người nghèo đến tín
dụng. Những sáng kiến đó là Chương trình cung cấp tín dụng cho người
nghèo nhằm hỗ trợ các hoạt động sản xuất của các hộ nghèo. Chính phủ đã
cho thành lập thêm ngân hàng Chính sách xã hội vào tháng 3-2003 (trên cơ
sở Ngân hàng phục vụ người nghèo). Ngân hàng này cung cấp tín dụng với
lãi suất ưu đãi cho các hộ nghèo ở khu vực nông thôn lẫn thành thị. Tính đến
giữa năm 2003, Ngân hàng này đã có 5.480.106 lượt khách hàng còn dư nợ,
và số lượng hộ nghèo đã thoát khỏi đói nghèo tăng lên từ 644.035 hộ năm
2002 lên 1.294.035 hộ năm 2003.
Sinh viên: Lê Thị Miền


Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

12

Ngoài các chính sách trên Chính phủ còn thực hiện nhiều biện pháp
khác nhằm tạo việc làm ở nông thôn như đẩy mạnh khuyến nông, khuyến
công…Những chương trình hướng vào thị trường lao động trên thực tế đã
giúp tạo việc làm và nâng cao phúc lợi người dân.
III. SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN VIỆC LÀM CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN.
1. Khái niệm đô thị hóa
Đã từ lâu “đô thị hóa” đã trở thành cụm từ khá quen thuộc với người
dân. Nhưng hiểu rõ chính xác bản chất của của đô thị hóa là một vấn đề
không đơn giản. Một cách đơn giản như chúng ta được biết thì đô thị hóa là
một biểu hiện của phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia hay mỗi miền
đất nước. Theo nghĩa hẹp, đô thị hóa được hiểu như một quá trình dịch cư từ
lĩnh vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp với biểu hiện bên ngoài là sự
tăng trưởng tỷ lệ dân số đô thị, sự nâng cao mức độ trang bị kỹ thuật đô thị.
Khái quát một cách toàn diện hơn thì, đô thị hóa là một quá trình biến
chuyển kinh tế-xã hội-văn hóa và không gian lãnh thổ, gắn liền với những
tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của xã hội loài người, trong đó diễn ra sự phát
triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển đổi lối
sống, sự mở rộng không gian thành hệ thống song song với việc tổ chức bộ
máy hành chính-chính trị-quân sự. Các nước có trình độ phát triển kinh tế xã
hội cao thì có tỷ lệ đô thị hóa cao.
Trong từ điển Tiếng Việt thì “Đô thị hóa là quá trình tập trung dân cư

ngày càng đông vào các đô thị và làm nâng cao vai trò của thành thị đối với
sự phát triển xã hội”.
Còn trong Bách Khoa toàn thư thì “Đô thị hóa là sự mở rộng của đô
thị, tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng
số dân hay diện tích của một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo tỷ

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

13

lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó
còn được gọi là mức độ đô thị hóa, còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc độ
đô thị hóa”.
Dù là định nghĩa theo quan niệm nào đi chăng nữa thì nó cũng phải
được gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá trình hình
thành và phát triển, mở rộng các thành phố. Qúa trình đô thị hóa đã có ảnh
hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta. Đô thị hóa làm
tăng mật độ dân cư, tập trung sức người vào việc phát triển kinh tế của vùng,
làm thay đổi nông thôn, dần dần biến nông thôn thành thành thị. Từ đó quá
trình đô thị hóa góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống nhân dân.
Quá trình đô thị hóa cũng được hiểu là quá trình cải biến cơ cấu kinh tế của
từng khu vực theo hướng tăng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp, dịch vụ
và giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Đô thị hóa
không chỉ vì sản xuất, trong đó biến con người thành phương tiện sản xuất,
mà quá trình đô thị hóa phải vì con người, phải làm cho cuộc sống của con

người hòa hợp về mặt quan hệ xã hội và quan hệ với thiên nhiên.
2. Xu hướng phát triển của các khu công nghiệp.
2.1. Tất yếu của việc công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn.
Nâng cao mức sống cho người dân, thoát khỏi tình trạng kinh tế nông
nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, mức sống thấp chuyển sang một nền kinh tế
công nghiệp năng suất cao đã từ lâu là mục đích của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì công nghiệp hóa là một xu
hướng tất yếu.
Để theo kịp tiến trình phát triển của kinh tế thế giới nước ta không thể
chỉ tập trung vào phát triển nền nông nghiệp lúa nước vốn là thế mạnh của
nước ta được. Thay vào đó cần phải áp dụng những công nghệ mới hiện đại
vào sản xuất để tạo ra năng suất lao động cao, tăng thu nhập, nâng cao đời

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

14

sống nhân dân. Có như vậy nước ta mới hòa nhịp cùng với xu hướng chung
của thế giới được.
Đô thị hoá là một hiện tượng mang tính chất toàn cầu, mang một số
đặc trưng như làm tăng nhanh số lượng các thành phố; khiến cho quy mô
dân số tập trung trong mỗi thành phố ngày càng lớn; việc hình thành và mở
rộng quy mô đô thị với hạ tầng kỹ thuật hiện đại dẫn đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế từ nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ.
Ngoài ra đô thị hóa còn làm cho quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị

ngày một tăng nhanh.
Đô thị hóa cùng với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa có vai
trò to lớn trong việc phát triển kinh tế-xã hội của nước ta. Do đô thị hóa thúc
đẩy quá trình phân bổ lại các cơ sở kinh tế, sử dụng những công nghệ hiện
đại làm cho năng suất lao động cao hơn nên phát triển đô thị đóng vai trò
kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế trong vùng và những khu vực
xung quanh.
Đô thị hóa thúc đẩy sự phát triển của các khu công nghiệp, khu chế
xuất, từ đó sẽ tạo động lực thu hút hàng trăm dự án đầu tư nước ngoài với
hàng chục tỷ USD vào việc xây dựng các nhà máy, xí nghiệp ở địa phương
và cả nước. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến cuối năm 2005
các khu công nghiệp đã thu hút được 2098 dự án đầu tư nước ngoài với tổng
số vốn đăng ký khoảng 17,8 tỷ USD, trong đó có 1287 dự án đã đi vào sản
xuất.Tổng số vốn đã thực hiện khoảng trên 9 tỷ USD, đạt gần 50% so với
tổng số vốn FDI đã đăng ký.
Đô thị hóa góp phần tạo ra thu nhập và nâng cao thu nhập không chỉ
của những người nông dân mà còn tăng thu nhập cho toàn xã hội, cho cả nền
kinh tế quốc dân và tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Sự thật là 4
thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng chiếm

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

15

khoảng 14% dân số nhưng đã tạo ra 36,4% GDP, và 45,7% giá trị sản lượng

công nghiệp (2004).
Các khu công nghiệp mới đã tạo ra hàng loạt những việc làm mới thu
hút nhiều lao động từ khu vực nông nghiệp sang, góp phần làm giảm tỷ lệ
thất nghiệp của xã hội.
Việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp đã góp phần cung
cấp các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tại chỗ với chất lượng cao cho tiêu
dùng của người dân. Song song với vấn đề này đô thị hóa còn tác động đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp-nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi vì các đô thị lớn là nơi tiêu thụ hàng
nông sản chất lượng cao, góp phần chuyển đổi tập quán sản xuất truyền
thống của nhiều vùng nông thôn, thúc đẩy nâng cao chất lượng và giá trị
nông sản, mở rộng thị trường.
Đô thị hóa góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao tay nghề
của người lao động. Bằng cách thành lập nhiều cơ sở đào tạo có uy tín, chất
lượng cao ở các đô thị lớn đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
cho cả nước. Như vậy đô thị hóa đã
Ngoài ra đô thị hóa còn đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung
nguồn vốn cho việc phát triển các các vùng nông thôn. Đô thị hóa đã thu hút
được một lượng lớn lao động nông thôn tham gia vào các hoạt động dịch vụ
và làm việc ở các khu công nghiệp mới. Thu nhập của những người lao động
này một phần được đưa về các vùng nông thôn cho gia đình, từ đó hỗ trợ
xây dựng nhà cửa, các công trình xã hội, góp phần làm đẹp hạ tầng nông
thôn.
Bên cạnh những tích cực đạt được trên đây, quá trình đô thị hóa cũng
làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực như việc thu hẹp đất canh tác nông
nghiệp, gây ô nhiễm môi trường. So với các nước trên thế giới quá trình đô

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A



Khóa luận tốt nghiệp

16

thị hóa ở nước ta trong điều kiện hạ tầng xã hội và kỹ thuật đô thị còn yếu
kém, quy hoạch và kiến trúc các đô thị còn mang tính tự phát. Ngoài ra định
hướng phát triển không gian khu vực đô thị hóa còn chưa rõ nét, còn mang
nặng tính hình thức đô thị, chưa thực sự giải quyết vấn đề cốt lõi của đô thị
hóa đối với khu vực dân cư như chưa gắn kết chất lượng đô thị với việc giữ
gìn bản sắc dân tộc và đảm bảo cảnh quan đô thị.
Mặc dù còn nhiều bất cập nhưng những đóng góp của đô thị hóa trong
công cuộc phát triển kinh tế đất nước là vô cùng to lớn. Đô thị hóa đã làm
biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội và đời sống nông thôn. Qúa trình đô thị hóa
đã biến nền sản xuất nông nghiệp độc canh trở thành nền sản xuất hàng hóa
đa ngành nghề. Đời sống vật chất của người dân đang ngày được nâng cao,
đường sá được mở rộng và hiện đại hóa, nhà cửa của người dân nông thôn
khang trang hơn, hiện đại hơn dưới tác động của đô thị hóa. Với những đóng
góp không nhỏ của đô thị hóa với sự phát triển kinh tế và đời sống nhân dân
thì quá trình này là một xu hướng tất yếu không thể thiếu trong tiến trình
phát triển của mỗi quốc gia.
2.2. Xu hướng phát triển của quá trình đô thị hóa.
Đô thị hóa đã và đang tạo ra những thay đổi về hạ tầng cơ sở và tiếp
tục tạo ra những thay đổi mới về hạ tầng cơ sở cũng như đời sống của nhân
dân. Đô thị hóa tiếp tục phát triển theo những xu hướng sau:
Thứ nhất, hình thành các trung tâm công nghiệp, trung tâm thương
mại, dịch vụ ở các đô thị lớn.
Tại các đô thị lớn vốn đã có nhiều trung tâm công nghiệp, trung tâm
thương mại và dịch vụ. Việc hình thành các trung tâm mới sẽ nâng cao tính

cạnh tranh giữa các trung tâm này, nâng cao hoạt động của đô thị, tạo ra tính
chuyên môn hóa cao trong sản xuất. Điều này sẽ thúc đẩy quá trình đô thị
hóa theo chiều sâu. Đồng thời xu hướng này sẽ tạo ra thêm một khối lượng

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

17

việc làm ở những đô thị lớn, giải quyết tình trạng thất nghiệp ở một bộ phận
dân cư.
Thứ hai, hình thành các trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại
và dịch vụ ở các vùng lân cận, đặc biệt là những vùng ngoại ô.
Ở những vùng ngoại ô này, so với những khu đô thị lớn thì số lượng
các khu công nghiệp chưa nhiều, tốc độ phát triển, tốc độ chuyên môn hóa
chưa thể sánh kịp. Nhưng với xu hướng hình thành các trung tâm công
nghiệp và trung tâm thương mại và dịch vụ ở khu vực này sẽ góp phần đáp
ứng các nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân nơi đây. Cùng với quá
trình phát triển kinh tế đất nước các trung tâm này sẽ trở thành những vệ tinh
hỗ trợ cho sự phát triển của các đô thị lớn, giúp cho các đô thị lớn hoạt động
hiệu quả hơn.
Thứ ba, đô thị hóa sẽ phát triển theo hướng nâng cao hạ tầng nông
thôn, chuyển một phần nông thôn thành thành thị.
Thực tế cho thấy diện tích đất phục vụ cho nông nghiệp ngày càng
giảm đi trong khi đó diện tích đất đai sử dụng trong các khu công nghiệp
ngày càng tăng lên. Điều này có thể được hiểu là một phần nông thôn đã

được đô thị hóa và trở thành những đô thị nhỏ. Đây là một xu hướng tiến bộ
và mới xuất hiện ở nước ta. Tuy nhiên để thực hiện tốt xu hướng này thì cần
phải có sự đầu tư lớn về vốn và công nghệ.
Thứ tư, song song với việc phát triển đô thị theo chiều sâu là việc
phát triển đô thị theo chiều rộng. Việc phát triển theo chiều rộng được tiến
hành bằng việc mở rộng các đô thị. Điều này dẫn đến một xu hướng tất yếu
đã được kể trên, đó là việc nhiều vùng nông thôn được chuyển thành thành
thị. Biểu hiện của xu hướng này là việc hình thành và phát triển các dịch vụ
công cộng và môi trường
3. Sự cần thiết phải thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình đô
thị hóa.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

18

Sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức
thương mại thế giới WTO, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được
diễn ra với tốc độ nhanh hơn trước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra
với tốc độ càng cao làm cho tiến trình đô thị hóa diễn ra ngày càng cao. Đô
thị hóa với tốc độ cao sẽ làm cho việc hình thành các khu công nghiệp và
trung tâm thương mại diễn ra với tốc độ nhanh và quy mô lớn. Điều này đòi
hỏi phải hi sinh một bộ phận lớn đất đai mà chủ yếu là đất nông nghiệp. Để
không ảnh hưởng đến khối lượng sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra hàng
năm thì việc áp dụng những công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp và tiến

hành thâm canh theo chiều sâu là điều tất yếu. Việc thực hiện những biện
pháp nêu trên phù hợp với những chính sách và đường lối của Đảng vì tạo ra
khối lượng sản phẩm nông nghiệp lớn, chất lượng cao trên một diện tích nhỏ
là mục tiêu không chỉ của nước ta mà còn của tất cả các quốc gia trên thế
giới.
Việc phát triển các đô thị không chỉ đòi hỏi nhu cầu đất cho phát triển
các khu công nghiệp mà còn đòi hỏi về đất đai để xây dựng nhà cửa cho
nguồn lao động tăng lên ngày càng nhiều trong các khu đô thị mới. Mặt
khác, thực hiện theo chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước đó là thực
hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong
nông nghiệp, tăng tỷ trong trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Do vậy
việc hi sinh đất nông nghiệp cho phát triển các lĩnh vực công nghiệp và dịch
vụ là một tất yếu khách quan trong quá trình đô thị hóa không chỉ ở nước ta
mà ở mọi nước trên thế giới khi thực hiện đô thị hóa.
4. Tác động của việc phát triển các khu công nghiệp đô thị hóa
đối với việc làm của lao động nông nghiệp nông thôn.
Việc xây dựng các khu công nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị hóa
đã thu hồi một bộ phận đất sử dụng trong nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là
một bộ phận dân cư lao động trong nông nghiệp sẽ bị thu hồi đất đai phục vụ
Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

19

sản xuất nông nghiệp của mình. Thực tế nước ta nói chung, khu vực ngoại
thành nói riêng, việc sản xuất nông nghiệp cần yếu tố quan trọng nhất là đất

đai. Khi người dân bị thu hồi đất thì có hai khả năng có thể xảy ra. Đối với
những người bị thu hồi hết đất đai, hoặc những người bị thu hồi một phần
đất đai nhưng không muốn tham gia hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
nữa mà đô thị hóa đang tạo ra những cơ hội việc làm mới cho họ thì bộ phận
này có thể sẽ chuyển hướng sang tham gia vào các hoạt động phi nông
nghiệp để tìm kiếm việc làm. Đối với những người bị thu hồi một phần đất
đai mà muốn tiếp tục tham gia vào các hoạt động nông nghiệp trên diện tích
đất còn lại của mình hoặc những người thì cần phải thay đổi cách thức thực
hiện các hoạt động canh tác. Họ phải tiến hành đầu tư phát triển trên mảnh
ruộng của mình theo chiều sâu sao cho với diện tích đất hạn hẹp còn lại đó
sẽ tạo ra năng suất cao thì mới đáp ứng được mức sống của mình. Tùy theo
quan điểm và khả năng của mỗi người sẽ quyết định cơ hội việc làm mới của
mình. Nhìn chung những người bị thu hồi đất hầu hết trước mắt sẽ phải đối
mặt với tình trạng thất nghiệp. Đây cũng là thời gian để họ suy nghĩ nên
chọn hướng đi nào cho phù hợp nhất.
Nhìn chung, trong quá trình đô thị hóa, dân số và lao động trong các
đô thị tăng nhanh. Bởi vì do các hiện tượng như việc di dân từ các vùng khác
đến, dư thừa lao động nông nghiệp do bị thu hẹp diện tích đất nông nghiệp,
và tỷ lệ tăng dân số tự nhiên với số dân đông đúc đang sinh sống ở các khu
đô thị. Vấn đề này gây ra áp lực giải quyết việc làm cho những người lao
động này, đặc biệt là trong những giai đoạn đô thị hóa diễn ra với tốc độ
nhanh như hiện nay.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp


IV.

20

KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.

1. Kinh nghiệm của Trung Quốc.
Trung Quốc cũng là một quốc gia có tốc độ đô thị hóa tương đối cao.
Với đặc điểm là một quốc gia đông dân, diện tích lớn, quá trình giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn là một vấn đề rất phức tạp và khó khăn ở
quốc gia này. Nhưng bằng những nỗ lực không ngừng, Chính phủ Trung
Quốc đã có những biện pháp phù hợp khắc phục những khó khăn này và tạo
ra hiệu quả cao trong vấn đề giải quyết việc làm cho những người dân nông
thôn. Một số biện pháp đó được cụ thể hóa dưới đây:
1.1. Phát triển các xí nghiệp địa phương để thu hút việc làm.
Qúa trình phát triển của các xí nghiệp ở địa phương của Trung Quốc
được chia làm 4 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Từ khi tiến hành đổi mới đến năm 1984. Giai đoạn này
nhờ vào chủ trương đổi mới của Trung Quốc về nông thôn, đặc biệt là hệ
thống hợp đồng trách nhiệm với các hộ gia đình đã tạo điều kiện thúc đẩy
phát triển kinh tế nông thôn, các nhân tố sản xuất bắt đầu tham gia vào các
hoạt động kinh tế phi nông nghiệp. Các đội sản xuất được đổi tên thành các
xí nghiệp địa phương.
Giai đoạn 2: Từ 1985 đến 1988: Trong giai đoạn này sản xuất nông
nghiệp có nhiều biến động lớn và có sự giảm sút đáng kể. Nhưng do các xí
nghiệp địa phương lúc này lại rất phát triển làm cho kinh tế nông thôn không
những không bị đẩy lùi mà còn có những bước phát triển đáng kể. Lúc này
Nhà nước đã ra rất nhiều những biện pháp khuyến khích phát triển các xí
nghiệp địa phương. Nhờ vậy mà năm 1988 tổng giá trị sản lượng của các xí

nghiệp này đạt 65,9 tỷ nhân dân tệ, tăng gấp hơn 6 lần so với năm 1983. Các
xí nghiệp này hàng năm thu hút được lực lượng lao động dư thừa lên đến 10

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

21

triệu người và đến năm 1988 số lượng lao động làm trong các xí nghiệp này
lên đến 95,5 triệu người. Chỉ trong vòng vài năm, tổng giá trị sản lượng của
các xí nghiệp địa phương đã vượt quá giá trị sản xuất nông nghiệp và trở
thành phần thu nhập chính trong nông thôn.
Giai đoạn 3: Từ 1989 đến 1991: Giai đoạn này chứng kiến nhiều biến
động trong sự phát triển của các xí nghiệp địa phương. Nhờ vào các chính
sách mở cửa của Trung Quốc làm cho các hoạt động đầu tư về vốn, kỹ thuật
trong các ngành chế biến của các xí nghiệp này rất phát triển. Năm 1991
tổng giá trị sản lượng của các xí nghiệp địa phương lần đầu tiên đã đạt 1.100
nhân dân tệ, đạt 850 tỷ nhân dân tệ, chiếm 1/3 tổng giá trị sản lượng công
nghiệp quốc gia, thu hút hàng trăm triệu lao động.
Giai đoạn 4: Bắt đầu từ năm 1992: Giai đoạn này, Trung Quốc thực
hiện các chính sách và cải cách mở cửa ra bên ngoài, tạo ra một nền kinh tế
hướng ngoại trên phạm vi cả nước. Kết quả là các chính sách này đã thúc
đẩy phát triển các xí nghiệp địa phương, tạo điều kiện thu hút lao động dư
thừa.
1.2. Xây dựng các đô thị quy mô vừa và nhỏ để giảm bớt lao động
nhập cư ở các thành phố lớn.

Việc thực hiện chính sách này đã tạo ra những hiệu quả đáng kể trong
việc giải quyết việc làm cho người lao động. Các đô thị được thành lập ở
vùng nông thôn đã góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp nông thôn và
làm nền tảng cho quá trình chuyển đổi bộ mặt xã hội nông thôn. Nhờ đó mà
trong những năm gần đây các đô thị nhỏ đã trở thành trung tâm sản xuất,
dịch vụ, giải trí cũng như giáo dục và thông tin. Mặt khác sự phát triển của
các đô thị nhỏ còn góp phần thu hẹp khoảng cách giữa thành thị với nông
thôn.

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

22

Biện pháp xây dựng các đô thị nhỏ ở nông thôn đã tạo ra rất nhiều lợi
thế. Trước hết phải kể đến đó là các đô thị nhỏ có nhiều cơ hội việc làm hơn
do các đô thị này có dân số thấp. Những ngành công nghiệp mới sẽ có khả
năng thu hút nhiều lao động hơn. Những người nông dân có kỹ năng sẽ có
cơ hội tham gia vào các ngành công nghiệp và dịch vụ đem lại thu nhập cao
hơn so với việc sản xuất nông nghiệp. Mặt khác, những đô thị nhỏ nằm giữa
các thành phố lớn và khu vực nông thôn sẽ đem lại những đặc trưng về lối
sống của cả hai khu vực nên những người nông dân ở đây sẽ dễ dàng định
cư hơn là các thành phố lớn và đặc biệt là về vấn đề giao thông, những đô thị
này sẽ thuận lợi hơn cho việc gia nhập của nông dân ở các vùng lân cận.
Tiếp theo phải kể đến đó là những người nhập cư vào các đô thị nhỏ có thể
dễ dàng tìm được việc làm so với việc tìm kiếm việc làm ở những khu đô thị

lớn do điều kiện cạnh tranh thấp hơn và yêu cầu về vốn thấp.
1.3. Một số biến pháp khác của Trung Quốc.
Để khuyến khích bộ phận dân cư tham gia trong lĩnh vực nông
nghiệp, Trung Quốc tiến hành tăng giá thu mua nông sản một cách hợp lý,
giảm giá cánh kéo giữa hàng nông nghiệp và hàng công nghiệp. Nhờ đó làm
tăng sức mua của người dân.
Để tạo ra cơ cấu việc làm hợp lý, Trung Quốc thực hiện chính sách đa
dạng hóa và chuyên môn hóa sản xuất kinh doanh, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn. Trung Quốc còn thực hiện chính sách khoán sản
phẩm làm cho người dân biết tận dụng khả năng sử dụng đất đai một cách
hợp lý, tạo ra hiệu quả kinh tế cao trên một đơn vị diện tích canh tác.
Song song với việc quan tâm phát triển các ngành nghề trong lĩnh vực
nông nghiệp, Trung Quốc còn thực hiện nhiều biện pháp nhằm giải quyết
việc làm cho lao động nông nghiệp tham gia vào các hoạt động phi nông
nghiệp. Đó là việc tạo môi trường thuận lợi để công nghiệp nông thôn phát
triển. Vào giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa nông thôn, nhà nước
Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

23

thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất hàng trong nước, hạn chế ưu đãi với
doanh nghiệp công nghiệp, tạo ra sân chơi bình đẳng hơn cho doanh nghiệp
nông thôn.
2. Kinh nghiệm của Thái Lan.
Thái Lan cùng với Việt Nam cũng như một số quốc gia khác nằm

trong khu vực ASEAN có một nét chung là có nhiều nghề thủ công truyền
thống được hình thành và phát triển từ rất lâu. Những nghề này đã từng là
nguồn sống chính của một bộ phận khá lớn dân cư nông thôn của cả nước.
Các nghề thủ công truyền thống này đóng vai trò quan trọng trong việc giải
quyết công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ dân cư nông thôn. Vì
vậy mà trong chính sách phát triển kinh tế của mình, Thái Lan vẫn luôn nhấn
mạnh đến các chính sách phát triển các nghề thủ công truyền thống. Chính
phủ Thái đã đầu tư một khoản vốn không nhỏ để xây dựng trung tâm dạy
nghề truyền thống cho những nông dân nghèo. Trung tâm dạy nghề truyền
thống làm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống do Hoàng hậu đỡ
đầu đã thu hút được hàng trăm thanh niên nghèo ở các địa phương về học
nghề. Trong thời gian học tập họ còn đưa ra các chính sách cấp học bổng và
tạo các điều kiện học tập để khuyến khích học viên phấn đấu rèn luyện tích
cực. Kết thúc khóa học học viên được giới thiệu lại địa phương và được tạo
điều kiện để hành nghề. Chính sách này góp phần vừa đảm bảo thu nhập vừa
duy trì phát triển và bảo tồn nghề truyền thống của dân tộc.
Chính phủ Thái Lan còn đưa ra những chính sách để hỗ trợ việc làm
cho lao động nữ, tận dụng nguồn lao động nữ còn đang thất nghiệp vào
những lĩnh vực thích hợp. Các chính sách đó có thể được khái quát như sau:
-Tăng trưởng nhanh xuất khẩu hàng công nghiệp và hàng thủ công
nghiệp, tạo thị trường xuất khẩu quốc tế nhằm phát triển nhanh chóng nền
kinh tế và thu hút lao động nữ, tạo việc làm….

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp


24

-Áp dụng những công nghệ phù hợp để phát triển một số ngành nghề
phù hợp với lao động nữ như ngành dệt may, bao bì, hay một số ngành nghề
truyền thống..
-Thu hút lao động nữ vào các ngành dịch vụ như trong lĩnh vực ăn
uống, dịch vụ và phục vụ. Đặc biệt là những vùng ngoại thành, gần các
thành phố lớn nhu cầu về dịch vụ và phục vụ có nhiều công việc phù hợp với
lao động nữ.
Ngoài ra, Chính phủ Thái Lan còn ban hành nhiều chính sách và biện
pháp cụ thể trong việc hỗ trợ cho người dân nông thôn được vay vốn, trong
đó chính sách thiết lập hệ thống tín dụng nông thôn đã giúp người dân nông
thôn tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng chính thức để khuyến khích đầu
tư phát triển các nghề phi nông nghiệp.
3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Thực hiện phương châm tăng nhanh thu nhập quốc dân bình quân đầu
người hàng năm nhờ áp dụng chiến lược công nghiệp hóa định hướng xuất
khẩu kết hợp với chính sách và biện pháp giảm tỷ lệ phát triển dân số từ
2,7%/năm xuống còn 1,4% vào năm 1985, chiến lược công nghiệp hóa này
được thực hiện dễ dàng dựa vào nguồn nhân lực dồi dào với giá rẻ, tăng
cường đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước có trọng điểm.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất vào năm 1962,
chính phủ Hàn Quốc đã chuyển chiến lược công nghiệp hóa từ thay thế nhập
khẩu sang khuyến khích xuất khẩu bắt đầu với xuất khẩu hàng hóa. Chiến
lược phát triển công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động đóng vai trò quan
trọng vào phát triển kinh tế và tạo việc làm cho lao động nông thôn. Nhờ lợi
thế lao động rẻ và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, nền kinh tế định
hướng xuất khẩu đã tăng trưởng nhanh kéo theo việc giải quyết được việc
làm cho một bộ phận lao động thất nghiệp và thiếu việc làm.


Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


Khóa luận tốt nghiệp

25

Chính phủ Hàn Quốc luôn coi chính sách tạo việc làm cho người lao
động là chính sách ưu tiên số một, chiến lược hàng đầu trong kế hoạch 5
năm. Ở mỗi thời kỳ, để đạt mục tiêu của mình chính phủ đã tập trung vào
các đối tượng chủ chốt khác nhau: Chính sách tạo việc làm trước kia nhằm
tạo việc làm giản đơn để thu hút lao động không có kỹ năng. Thời kỳ cuối
những năm 1990 trở lại đây, chính sách việc làm nhằm vào giảm mức thất
nghiệp cơ cấu để tăng năng suất lao động. Do đó cần thực hiện chương trình
trợ cấp bảo đảm thất nghiệp và mở rộng các chương trình đào tạo lại kỹ năng
áp dụng các chương trình đảm bảo việc làm, nhằm tăng cường hiệu quả của
hoạt động thị trường lao động, giảm thất nghiệp tạm thời và giảm mức độ
không phù hợp giữa các cơ hội việc làm và người tìm việc.
4. Kinh nghiệm của Philippin.
Philippin là một quốc gia có tỷ lệ tăng dân số hàng năm khá cao, tỷ lệ
thất nghiệp, thiếu việc làm hàng năm cúng rất cao. Trong quá trình phát triển
kinh tế đất nước chính phủ Philippin đã rất quan tâm đến các vấn đề về
nguồn nhân lực như sức khỏe, dinh dưỡng, giáo dục, sử dụng nguồn nhân
lực và tạo việc làm cho người lao động nhất là lao động nông nghiệp nông
thôn.
Kinh nghiệm đầu tiên có thể coi là bài học không thành công của
nước này là các chính sách phát triển kinh tế tập trung vào công nghiệp hóa,
dựa vào thay thế nhập khẩu nhằm thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp

có năng suất thấp sang khu vực công nghiệp hiện đại có năng suất cao. Kết
quả là điều này đã làm thay đổi giá các yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất. Do vậy, chính sách này không đạt được mục tiêu thu hút lao động, tạo
việc làm.
Philippin đã thực hiện chiến lược tạo việc làm ở nước ngoài bằng
cách xuất khẩu lao động như việc đưa lao động nữ đi làm giúp việc ở một số

Sinh viên: Lê Thị Miền

Lớp: Nông nghiệp 46A


×