Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Tình hình triển khai sản phẩm Bảo hiểm Hộ gia đình tại Công ty Bảo Minh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.21 KB, 104 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Hình 2.1: Biểu đồ doanh thu (2003-2007)....Error: Reference source not found


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

1

LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu hướng hội nhập và phát triển cả trên các mặt kinh tế, văn
hoá, xã hội, chính trị đã và đang trở thành nhu cầu tất yếu của bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Ngày 07/11/2006 đã
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển
của nước ta, đó là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Sự kiện này vừa là cơ hội, vừa là thách
thức của toàn nền kinh tế nói chung và của ngành bảo hiểm nói riêng.
Ngành bảo hiểm Việt Nam với hơn 40 năm trưởng thành và phát triển
đã và đang khẳng định được sự lớn mạnh của mình trong nền kinh tế. Số
lượng các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm ngày càng
nhiều, cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt, các doanh
nghiệp bảo hiểm liên tục đưa ra thị trường những sản phẩm bảo hiểm mới
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, tăng thêm sự lựa chọn cho
người tham gia bảo hiểm.
Bảo Minh - một doanh nghiệp bảo hiểm lớn thứ ba trên thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam, đang tích cực đưa ra những chiến lược sản
phẩm cho mục tiêu chiếm lĩnh thị trường, trở thành doanh nghiệp bảo hiểm


hàng đầu Việt Nam. Và một sản phẩm mới của Bảo Minh đã ra đời trong
thời gian qua là sản phẩm Bảo hiểm Hộ gia đình. Đây là một sản phẩm bảo
hiểm trọn gói đầu tiên trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Với
sứ mệnh tiên phong, Bảo Minh đã thực hiện triển khai sản phẩm bảo hiểm
này như thế nào, có đem lại những kết quả như mục tiêu ban đầu đặt ra cho
công ty hay không? Xuất phát từ thực tế đó, sau một thời gian thực tập tại
công ty Bảo Minh Hà Nội, tác giả đã chọn đề tài “Tình hình triển khai sản
phẩm Bảo hiểm Hộ gia đình tại Công ty Bảo Minh Hà Nội” để làm luận
Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

2

văn tốt nghiệp.
Kết cấu luận văn gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm thương mại và sản phẩm bảo
hiểm trọn gói.
Chương II: Thực trạng triển khai sản phẩm trọn gói - Bảo hiểm Hộ gia
đình tại Bảo Minh Hà Nội.
Chương III: Một số kiến nghị cho việc triển khai sản phẩm Bảo hiểm
Hộ gia đình của Bảo Minh Hà Nội.
Bài viết này đã được hoàn thành với sự hướng dẫn và giúp đỡ của cô
giáo TS. Phạm Thị Định và các cán bộ phòng khai thác số 7 thuộc Công ty
Bảo Minh Hà Nội. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô

giáo TS. Phạm Thị Định và các anh chị phòng khai thác số 7 đã
giúp đỡ em hoàn thành tốt bài viết này!
Trong quá trình làm bài, mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng và đã qua
nhiều lần trao đổi góp ý của cô giáo hướng dẫn thực tập, nhưng với một
khoảng thời gian thực tập và nghiên cứu có hạn nên bài viết chắc chắn không
tránh khỏi những khiếm khuyết. Xin kính mong các thầy cô giáo và bạn đọc
góp ý, xây dựng để tác giả có thể hoàn thiện bài viết của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Phan Thị Thuý Hằng
Lớp

Luận văn tốt nghiệp

: Bảo hiểm 46B

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

3

CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM VÀ CÁC SẢN
PHẨM BẢO HIỂM
I. Khái quát chung về bảo hiểm thương mại
1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm thương mại.
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh
hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có

nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân:
-

Các rủi ro do thiên nhiên gây ra như bão, lũ

lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc, sóng thần, dịch bệnh,…. làm ảnh hưởng đến
sản xuất, đến đời sống và đến sức khoẻ của con người;
-

Các rủi ro do sự phát triển của khoa học và

công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc sống của con người; nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất
ngờ như tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn ô tô,… và làm tăng
nguy cơ mất việc làm của người lao động;
-

Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi

ro này chịu tác động của nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành
viên trong xã hội như ốm đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hỏa hoạn,

Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại
nhiều tài sản làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh
nghiệp, cá nhân,… và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói
chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau
Luận văn tốt nghiệp


Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

4

nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của các rủi ro gây ra. Hiện nay,
theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với
các rủi ro và hậu quả do rủi ro gây ra – đó là nhóm các biện pháp kiểm soát
rủi ro và nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro.
-

Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao

gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các
biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng
xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc
sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện
pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức là loại trừ cơ hội dẫn đến
tổn thất. Tuy nhiên né tránh rủi ro chỉ có thể hiệu quả với những rủi ro có thể
lường trước được. Nhưng trong cuộc sống có rất nhiều rủi ro bất ngờ không
thể tránh né được.
+ Ngăn ngừa tổn thất – các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các
hành động nhằm làm giảm tổn thất hoặc làm giảm mức độ thiệt hại do tổn
thất gây ra. Biện pháp này có hiệu quả đối với những tổn thất có thể kiểm
soát được như dùng bình chữa cháy để dập tắt những đám cháy nhỏ, tuy

nhiên nếu là một đám cháy lớn khó kiểm soát thì thiệt hại là rất lớn và biện
pháp này không phát huy được tác dụng.
+ Giảm thiểu tổn thất – người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua
các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Biện pháp này
làm hạn chế hậu quả của tổn thất, tuy nhiên nếu hâụ qủa tổn thất là rất lớn thì
biện pháp này không có ý nghĩa nhiều.
Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn
hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường
Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

5

Lớp: Bảo hiểm 46

hết được hậu quả.
-

Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm

các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử
dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do
rủi ro gây ra nếu có.
+ Chấp nhận rủi ro – đây là hình thức mà người gặp phải tổn thất tự
chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trường hợp điển hình của chấp nhận rủi ro
là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp nhận

rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro thụ động
và chấp nhận rủi ro chủ động. Trong chấp nhận rủi ro thụ động người ta gặp
tổn thất không có sự chuẩn bị trước và có thể đi vay mượn để khắc phục hậu
quả tổn thất. Đối với chấp nhận rủi ro chủ động, người ta lập ra quỹ dự trữ,
dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng khi rủi ro xảy ra gây tổn thất hoặc
nếu đi vay thì sẽ bị động và còn gặp phải các vấn đề gia tăng về lãi suất…
+ Bảo hiểm – đây là một phần quan trọng trong các chương trình quản

lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà
quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo
quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn là sự
giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán
về tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn
thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi
khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Do nhu cầu của con người, hoạt động bảo hiểm ngày càng phát triển và
không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, doanh nghiệp và mỗi quốc gia. Ngày
nay, sư giao lưu kinh tế, văn hoá giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì
bảo hiểm cũng ngày càng được mở rộng.

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

6


2. Vai trò, tác dụng của bảo hiểm thương mại.
Bảo hiểm có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân
loại mà thậm chí cho tới bây giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm
xuất hiện từ khi nào. Có người cho rằng bảo hiểm xuất hiện lần đầu tiên tại
sông Dương Tử - Trung Quốc với hình thức các hội thuyền đóng góp một
khoản tiền để “bảo hiểm” cho các con thuyền chở hàng; có nghiên cứu lại
cho rằng thời Tiền sử, thời Cổ đại, Thời Trung cổ và thời Cận đại, có các
kho lúa nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong trường hợp khẩn
cấp. Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa hoặc quân xâm
lược ngăn cản người dân thu hoạch. Mặc dù mội hộ gia đình có thể tự đề
phòng cho những trường hợp xấu nói trên, tuy nhiên, những thị dân đã sớm
nhận ra rằng việc dự trữ chung hoặc theo từng cộng đồng có hiệu quả hơn.
Đó là một vết tích của việc tổ chức các hoạt động dịch vụ bảo hiểm. Từ xa
xưa con người đã biết tổ chức một cộng đồng người đóng góp một khoản
nhỏ để đối phó với những rủi ro có thể xảy ra nhằm ổn định cuộc sống. Và
ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế, bảo hiểm ngày càng thể hiện rõ
vai trò của nó.Vai trò của bảo hiểm được thể hiện:
-

Trước hết, bảo hiểm góp phần ổn định tài

chính cho người tham gia trước tổn thất do rủi ro gây ra.
Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh
hưởng đến thu nhập, đời sống, sản xuất kinh doanh của các cá nhân, doanh
nghiệp tham gia bảo hiểm, chưa kể đến những thiệt hại về người. Tổn thất đó
sẽ được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia bảo
hiểm nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh
và các hoạt động khác một cách bình thường. Tác dụng này phù hợp với các
mục tiêu kinh tế và các vấn đề công cộng nên thu hút được số đông người


Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

7

tham gia.
-

Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn

thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt
nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp.
Khi đã tham gia bảo hiểm, cơ quan hoặc công ty bảo hiểm sẽ cùng với
người tham gia thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất rủi ro
đã xảy ra. Cơ quan, công ty bảo hiểm đóng góp tài chính một cách tích cực
để thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro như tuyên truyền, hướng dẫn các
biện pháp phòng tránh tai nạn, mua sắm thêm các dụng cụ phòng cháy chữa
cháy; cùng ngành giao thông làm các biển báo, các đường lánh nạn…
-

Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của

ngân sách Nhà nước.

Với quỹ bảo hiểm do các thành viên tham gia đóng góp, cơ quan, công
ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho
người tham gia để họ khôi phục sản xuất, kinh doanh, ổn định đời sống. Như
vậy, Ngân sách Nhà nước không phải chi ra để trợ cấp cho các thành viên,
các doanh nghiệp khi gặp rủi ro, tất nhiên trừ trường hợp tổn thất có tính
thảm hoạ, mang tính xã hội rộng lớn.
Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách
nhiệm đóng góp vào Ngân sách thông qua các loại thuế, tức tăng thu cho
Ngân sách Nhà nước.
-

Bảo hiểm còn là phương thức huy động vốn

để đàu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Dưới hình thức phí bảo hiểm, ngành bảo hiểm đã huy động được một số
lượng vốn khá lớn từ các đối tượng tham gia. Số vốn đó ngoài chi trả trợ cấp

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

8

hay bồi thường thiệt hại còn là nguồn vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã
hội.

Đặc biệt đối với bảo hiểm nhân thọ, nguồn vốn huy động được tích luỹ
thời gian dài mới sử dụng để chi trả. Do đó, các công ty bảo hiểm có thể sử
dụng để kinh doanh bất động sản, mua trái phiếu,… nghĩa là dùng đầu tư vào
hoạt động kinh tế để sinh lời. Và như vậy, bảo hiểm sẽ góp phần tăng nguồn
vốn cho nền kinh tế, làm cho hệ thống tài chính sôi động hơn,...
-

Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển

quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm nội địa và thị trường bảo hiểm quốc tế có mối
quan hệ qua lại, thúc đẩy nhau phát triển thông qua hình thức phân tán rủi ro
và chấp nhận rủi ro – hình thức tái bảo hiểm vừa góp phần phát triển quan hệ
kinh tế giữa các nước, vừa góp phần ổn định thu, chi ngoại tệ cho Ngân sách.
-

Bảo hiểm thu hút một lượng lao động nhất

định của xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. Đồng
thời hoạt động bảo hiểm cũng góp phần giải quyết đời sống cho bộ phận lao
động làm việc trong ngành bảo hiểm; góp phần tạo ra một bộ phận tổng sản
phẩm trong nước (GDP) của quốc gia.
-

Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần

cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế - xã hội; giúp họ yên tâm trong cuộc
sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Bởi vì, với một giá
khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các gia đình, các tổ chức
khắc phục hậu quả những rủi ro khôn lường.

3. Khái niệm và bản chất của bảo hiểm thương mại.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm. Sau đây là một vài định
nghĩa được chọn lọc:

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

9

“Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những
người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên” (theo
giáo trình bảo hiểm - Đại học kinh tế quốc dân)
“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường
(theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp
xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một
khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có nghĩa là
người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng các nộp một
khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến
tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại
thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi
ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm (theo giáo trình bảo hiểm
- Đại học kinh tế quốc dân)
“Bảo hiểm là một hoạt động, thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức
có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả nếu rủi ro xảy ra nhờ vào

khoản đóng góp cho mình hay cho người khác. Khoản bồi thường hoặc chi
trả này do một tổ chức đảm nhiệm, tổ chức này có trách nhiệm trước các rủi
ro và bù trừ chúng theo đúng quy luật thống kê” (theo giáo trình bảo hiểm Đại học kinh tế quốc dân)
Từ những định nghĩa trên, bản chất của bảo hiểm được thể hiện ở
những nội dung sau:
-

Thứ nhất mục đích chủ yếu của bảo hiểm là

góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia từ đó khôi phục và phát triển
sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
Luận văn tốt nghiệp

Thứ hai, thực chất của hoạt động bảo hiểm là
Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

10

quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước giữa những người tham gia
nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra
gây tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm.
-

Thứ ba, phân phối trong bảo hiểm là phân


phối không đều, không bằng nhau, nghĩa là không phải ai tham gia cũng
được phân phối và phân phối với số tiền như nhau. Phân phối trong bảo hiểm
là phân phối cho số ít người tham gia bảo hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ
gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên cơ sở mức thiệt hại thực tế và điều
kiện bảo hiểm. Điều đó cũng có nghĩa, phân phối trong bảo hiểm không
mang tính bồi hoàn, tức là dù có tham gia đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng
không tổn thất thì không được phân phối (trừ một số sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ, bảo hiểm hưu trí).
-

Thứ tư, hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên

tắc “số đông bù số ít”. Nguyên tắc này được quán triệt trong quá trình lập
quỹ dự trù bảo hiểm cũng như quá trình phân phối bồi thường, quá trình
phân tán rủi ro.
-

Thứ năm, hoạt động bảo hiểm còn liên kết,

gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì
sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. Bảo hiểm với nguyên tắc “số đông bù
số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội
trước những rủi ro của mỗi thành viên.
4. Những nguyên tắc chung trong hoạt động bảo hiểm thương mại.
Bảo hiểm là một ngành nghề kinh doanh dịch vụ đặc biệt đó là kinh
doanh rủi ro, quá trình kinh doanh là một quá trình có chu trình kinh doanh
đảo ngược (giá của sản phẩm được xác định trước khi xác định được chi phí
của sản phẩm); do đó hoạt động kinh doanh bảo hiểm cần phải tuân thủ các
Luận văn tốt nghiệp


Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

11

nguyên tắc sau
4.1. Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít.
Hoạt động bảo hiểm thương mại chính là một hoạt động kinh doanh
nhằm mục đích sinh lời, theo đó công ty bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi
là phí bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải chi trả hoặc bồi thường cho người
tham gia khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra (không phải ai tham gia cũng gặp
phải sự kiện bảo hiểm). Khoản phải trả này của công ty bảo hiểm lớn hơn rất
nhiều so với khoản người tham gia đóng góp. Và vì vậy, hoạt động bảo hiểm
thương mại phải dựa trên số đông người tham gia để khi rủi ro xảy ra đối với
một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất
nhiều người.
Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo
hiểm tích tụ được ngày càng lớn, việc chi trả, bồi thường trở nên dễ dàng
hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường một sản phẩm
bảo hiểm chỉ có thể được triển khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại
bảo đảm đó.
4.2. Nguyên tắc 2: Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm.
Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động bảo hiểm
thương mại. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần
như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm; những rủi ro mang tính đầu

cơ sinh lợi cũng không được bảo hiểm,… Những rủi ro được bảo hiểm là
những rủi ro bất ngờ, không lường trước được và không mong muốn xảy ra
rủi ro, nguyên nhân xảy ra rủi ro phải là nguyên nhân khách quan, không cố
ý. Tính đồng nhất của rủi ro cũng là một yếu tố khác giúp công ty bảo hiểm
có thể xem xét rủi ro có thể được bảo hiểm hay không. Trên cơ sở tính đồng
nhất của rủi ro công ty bảo hiểm có thể tính toán được phí bảo hiểm một
Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

12

cách chính xác và khoa học dựa vào các phương pháp toán học.
Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại
trừ. Đối với các rủi ro được nhận bảo hiểm lại có thể xem xét để phân loại,
sắp xếp theo từng mức độ khác nhau để áp dụng mức phí phù hợp. Chính vì
vậy, một yêu cầu đặt ra đối với người tham gia là phải trung thực tuyệt đối
khi khai báo rủi ro để công ty bảo hiểm có thể xác định chính xác rằng rủi ro
có thể chấp nhận bảo hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế nào.
Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm nhằm tránh cho các công ty bảo
hiểm phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước, tránh cho công ty không
bị phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các công ty bảo hiểm có thể
tính toán được mức phí hợp lý. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho công ty
bảo hiểm mà nguyên tắc này còn đảm bảo tính công bằng cho người tham
gia bảo hiểm.

4.3. Nguyên tắc 3: Nguyên tắc phân tán rủi ro.
Người tham gia bảo hiểm chuyển giao cho người bảo hiểm bằng việc
đóng một khoản phí bảo hiểm, lúc này người bảo hiểm sẽ là người phải đối
mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quỹ được huy
động là lớn nhưng nếu rủi ro tập trung vào công ty lớn, trong cùng thời gian
thì khả năng chi trả đối với công ty là khó khăn, đặc biệt là những công ty
bảo hiểm vừa mới thành lập hoặc những công ty có vốn nhỏ. Điều này là rất
xấu cho công ty bảo hiểm. Và để tránh được những tình huống này các công
ty bảo hiểm thường sử dụng hai phương thức phân tán rủi ro đó là đồng bảo
hiểm và tái bảo hiểm. Như vậy, nhà bảo hiểm có thể chia sẻ hoặc chuyển
giao rủi ro đã nhận của mình với các tổ chức hoặc công ty bảo hiểm khác để
bảo đảm khả năng tài chính của công ty.
4.4. Nguyên tắc 4: Nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

13

Bảo hiểm là sự cam kết sẽ chi trả hoặc bồi thường của người bảo hiểm
đối với người tham gia bảo hiểm trong tương lai, do đó, nguyên tắc này đòi
hỏi trước hết đối với công ty bảo hiểm là phải có trách nhiệm cung cấp sản
phẩm dịch vụ của mình theo đúng những gì đã cam kết.
Nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo hiểm là
phải trung thực khai báo rủi ro của mình để công ty bảo hiểm xác định chính

xác mức phí phải đóng cho rủi ro mà công ty đảm nhận. Thêm vào đó các
hành vi gian lận trục lợi bảo hiểm khi phát hiện sẽ được xử lý theo pháp luật.
4.5. Nguyên tắc 5: Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài
chính bị tổn thất nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác,
người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo
hiểm và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ
nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm loại bỏ khả nằng
bảo hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất
để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình bảo hiểm
thương mại sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng
loại: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán,…
5. Phân loại bảo hiểm thương mại.
Phân loại bảo hiểm thương mại thường căn cứ vào ba tiêu thức chủ yếu
sau:
-

Luận văn tốt nghiệp

Theo tính chất pháp lý, bảo hiểm có thể phân

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46


14

loại thành bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Phần lớn các sản phẩm
bảo hiểm đều là tự nguyện. Việc tham gia bảo hiểm phụ thuộc vào nhận thức
và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm bắt buộc thường gắn với
các rủi ro có hậu quả tổn thất không chỉ ảnh hưởng đến một hay một số đối
tượng và chủ thể mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội. Ví dụ như
bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân
sự của chủ lao động đối với người lao động, bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp,…
-

Theo kỹ thuật bảo hiểm: Các đặc trưng kỹ

thuật được dùng làm căn cứ để phân loại bảo hiểm thương mại thành bảo
hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích. Bảo hiểm
theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là một
năm) bảo đảm các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi
thọ con người.
Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích là các bảo hiểm có thời hạn dài, quỹ
được tích tụ qua nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ
thuật tổn tích thường bảo đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo
thời gian, đối tượng và thường gắn liền với tuổi thọ con người.
-

Theo đối tượng được bảo hiểm, bảo hiểm

thương mại được phân chia thành:
+Bảo hiểm nhân thọ.

+Bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm phi nhân thọ lại được chia thành bảo
hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo
hiểm xe cơ giới và bảo hiểm con người phi nhân thọ.
II. Sản phẩm bảo hiểm trọn gói.

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

15

1. Khái niệm và tác dụng của sản phẩm bảo hiểm trọn gói.
1.1. Các khái niệm.
Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu tiêu dùng những sản phẩm tiện ích
ngày càng tăng, sản phẩm trọn gói ra đời đã đáp ứng được nhu cầu đó của
người tiêu dùng. Vậy sản phẩm trọn gói là gì?
Sản phẩm trọn gói là một phương pháp mà các nhà quản trị hàng đầu sử
dụng để đối phó với xu hướng bão hoà của thị trường và tiêu chuẩn hoá sản
phẩm. Sản phẩm trọn gói ngày càng được nhiều nhà sản xuất, phân phối trên
thế giới sử dụng trong chiến lược sản phẩm của mình. Chẳng hạn, ngân hàng
cung cấp gói dịch vụ gồm bảo hiểm, thẻ tín dụng, và dịch vụ tài chính khác
với giá thấp hơn khi các dịch vụ này được mua riêng; hay những hãng du
lịch cung cấp giá máy bay, phòng khách sạn tại các khu nghỉ mát với giá
thấp hơn cho những khách hàng mua trọn gói, hãng phần mềm máy tính
Microsoft sẵn sàng bán trọn gói phần mềm với giá thấp hơn khi mua riêng

từng phần mềm,…
Có thể hiểu sản phẩm trọn gói là “sản phẩm mà nó bao gồm hai hay
nhiều sản phẩm/ dịch vụ trong một gói sản phẩm, với mức giá được người
mua cảm nhận rằng thấp hơn khi mua từng sản phẩm riêng lẻ”. Marketing
hiện đại chỉ ra rằng, một chiến lược marketing thành công chỉ khi mục tiêu
và công cụ marketing hướng đến khách hàng.
Và không nằm ngoài khái niệm chung của sản phẩm trọn gói, sản phẩm
bảo hiểm trọn gói cũng giống như các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trọn gói
khác, tức là sản phẩm bảo hiểm trọn gói cũng bao gồm hai hay nhiều sản
phẩm bảo hiểm khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng những nhu cầu cùng
lúc của khách hàng, với mức giá mà khách hàng cảm nhận được là thấp hơn
khi mua các sản phẩm bảo hiểm riêng lẻ.
Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

16

Các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh trên các lĩnh vực khác nhau sẽ
có những gói sản phẩm trọn gói riêng mang tính chất “nghiệp vụ”. Ví dụ,
doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đưa ra các gói sản phẩm liên quan đến
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ như bảo hiểm sức khoẻ gia đình, bảo hiểm
nhân thọ hỗn hợp,…, doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm tàu thuỷ đưa ra các gói sản phẩm liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hải như bảo hiểm con người, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm

dân sự,…, doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm phi hàng
hải cung cấp gói sản phẩm liên quan đến sức khoẻ con người, bảo hiểm xe,
bảo hiểm hoả hoạn,…
Trong một nghiệp vụ bảo hiểm thường có rất nhiều sản phẩm, và trong
các danh mục sản phẩm bảo hiểm này có rất nhiều sản phẩm thoả mãn nhu
cầu cùng một lúc của khách hàng, việc chọn gói sản phẩm như thế nào để
thoả mãn nhu cầu cùng một lúc của khách hàng là không khó. Tuy nhiên, sản
phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm có nhu cầu thụ động, nên việc xác định bao
nhiêu sản phẩm trong một gói sản phẩm để giá gói sản phẩm là chấp nhận
được, và khách hàng có thể thanh toán được là điều không dễ dàng chút nào.
Do đó, doanh nghiệp áp dụng chiến lược sản phẩm trọn gói cần phải tính
toán một cách kỹ lưỡng khi đưa ra quyết định về sản phẩm trọn gói mà mình
sẽ cung cấp.
1.2. Tác dụng của sản phẩm bảo hiểm trọn gói.
Giá trị mà sản phẩm trọn gói mang lại cho khách hàng là sự thuận tiện
khi thực hiện ít giao dịch hơn, tiết kiệm thời gian và cảm nhận được giá trị
gia tăng của sản phẩm. Không chỉ mang lại giá trị cho khách hàng, sản phẩm
trọn gói còn giúp doanh nghiệp bảo hiểm bán được nhiều sản phẩm hơn,
giảm được chi phí bán hàng, làm tăng doanh số bán hàng cho công ty. Nó

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

17


cũng cho thấy rằng doanh nghiệp bảo hiểm linh hoạt hơn với các điều kiện
của một thị trường đang bão hoà. Đây cũng là một tiêu chí khá quan trọng
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm đang và sẽ phát hành cổ phiếu!
Hơn thế nữa quá trình hoạch địch chiến lược marketing yêu cầu phải
xác định được lợi thế cạnh tranh của công ty đối với đối thủ cạnh tranh. Việc
sử dụng sản phẩm bảo hiểm trọn gói đem lại cho doanh nghiệp bảo hiểm hai
lợi thế cạnh tranh là: tạo sự khác biệt và giảm được giá.
Trên thực tế, kết quả phản ứng của khách hàng về sản phẩm dịch vụ
khác chào bán rất khả quan. Theo kết quả điều tra qua mạng của tổ chức
Marketing Leadership Council, có khoảng 55% công ty cho rằng, có khoảng
20-60% khách hàng thực sự đã mua sản phẩm khi công ty chào bán sản
phẩm trọn gói. Các chuyên gia marketing cũng đồng ý rằng, mức độ mong
muốn của khách hàng tăng lên cùng với mức độ chào bán sản phẩm trọn gói.
Như vậy tác dụng của các sản phẩm trọn gói là rất lớn, và chắc chắn tác dụng
của sản phẩm bảo hiểm trọn gói cũng lớn như vậy.
Sản phẩm bảo hiểm trọn gói là một dấu hiệu của sự phát triển trên thị
trường bảo hiểm vì khách hàng ngày càng được thoả mãn nhiều nhu cầu
trong đó có thoả mãn cùng một lúc nhiều nhu cầu, tạo được sự thuận tiện về
lợi ích và thời gian khi mà thời gian của người tiêu dùng có hạn. Nền kinh tế
càng phát triển, thu nhập của người dân càng tăng thì nhu cầu về các sản
phẩm bảo hiểm trọn gói càng lớn.
Về bản chất mà nói sản phẩm bảo hiểm trọn gói không phải là một sản
phẩm mới, mà chỉ là các sản phẩm đã được bán từ trước được bán với cách
thức khác - trọn gói, tuy nhiên nó lại có thể thu hút được khách hàng một
cách khá mạnh mẽ. Có thể nói sản phẩm bảo hiểm trọn gói là một chiến lược
marketing sản phẩm hiệu quả. Tuy nhiên, để áp dụng thành công chiến lược

Luận văn tốt nghiệp


Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

18

Lớp: Bảo hiểm 46

này, cần phải lưu ý những vấn đề sau:
-

Xác định rõ giá trị chào bán trong sản phẩm

bảo hiểm trọn gói. Thực tế có ba giá trị mà khách hàng mong muốn khi sử
dụng sản phẩm bảo hiểm trọn gói đó là: tính kinh tế, tính thuận tiện, và tính
giải pháp. Vì thế, các công cụ marketing như chính sách sản phẩm, giá cả,
khuyến mại phải truyền tải đến khách hàng thông điệp “sản phẩm chào bán
của chúng tôi mang đến chi phí thấp hơn/ thuận tiện hơn/ giải pháp tốt hơn
cho khách hàng.
-

Lựa chọn danh mục sản phẩm phù hợp cho

gói sản phẩm. Các sản phẩm riêng lẻ trong gói sản phẩm phải đáp ứng được
nhu cầu trong cùng một lúc của khách hàng, để đảm bảo gói sản phẩm không
bị phá vỡ. Ví dụ, không thể chọn dịch vụ tổ chức đám cưới và dịch vụ khách
sạn trong một sản phẩm dịch vụ chọn gói được vì hai nhu cầu này là tách
biệt, khách hàng thuê phòng để nghỉ chứ không có nhu cầu tổ chức đám
cưới,… Và vì vậy nếu công ty này chỉ bán gói sản phẩm mà không bán riêng

lẻ thì sẽ không có khách!
-

Lựa chọn phương thức và mức độ trọn gói

trong sản phẩm bảo hiểm trọn gói để chào bán. Các sản phẩm có thể được
chào bán hoặc riêng lẻ hoặc trọn gói tuỳ vào quyết định của khách hàng.
Việc mà khách hàng chỉ mua một đến một vài sản phẩm riêng lẻ trong gói
sản phẩm hay thấy trong các gói sản phẩm dịch vụ, khi mà khách hàng đã sử
dụng một vài sản phẩm tương tự như trong gói sản phẩm của công ty rồi
nhưng chưa mua những sản phẩm khác và có nhu cầu về sản phẩm đó, thì
các công ty khi sử dụng chiến lược sản phẩm trọn gói cần phải linh hoạt để
khai thác tối đa những nhu cầu của khách hàng tiềm năng đối với sản phẩm
của công ty mình.

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

-

19

Lớp: Bảo hiểm 46

Thận trọng trong việc định giá sản phẩm trọn


gói. Theo một nghiên cứu về chiến lược giá thì khách hàng thường cộng dồn
giá các sản phẩm riêng lẻ để tính giá sản phẩm trọn gói. Vì thế cần phải có
chiến lược sao cho chứng minh được sản phẩm trọn gói có lợi hơn, nhất là
đối với những khách hàng đã từng sử dụng các sản phẩm riêng lẻ. Có hai
cách định giá có thể sử dụng: giá của sản phẩm trọn gói thấp hơn giá của các
sản phẩm riêng lẻ, và giá gia tăng (tức là gia tăng giá trị của gói sản phẩm
bằng các sản phẩm khuyến mại). Tuỳ từng trường hợp cụ thể ứng với từng
sản phẩm và đặc tính của thị trường mà sử dụng cách nào cho phù hợp. Vì
thế, một công ty trước khi áp dụng công cụ này trong chiến lược marketing
sản phẩm nên nghiên cứu kỹ đánh giá của khách hàng về sản phẩm trọn gói,
lựa chọn chiến lược sản phẩm cũng như chiến lược giá của sản phẩm .
Sản phẩm bảo hiểm trọn gói tạo ra ưu thế cho các doanh nghiệp bảo
hiểm nhỏ: Với sự bão hoà của thị trường như hiện nay, cùng với sự tiêu
chuẩn hoá sản phẩm ngày càng trở thành những thách thức đối với các nhà
quản trị, thì sản phẩm bảo hiểm trọn gói có thể coi là một phương thức mới
để họ đối phó với thách thức đó. Nếu việc nghiên cứu, sáng tạo ra một sản
phẩm bảo hiểm hoàn toàn mới tốn kém nhiều tiền bạc và thời gian, mà
không nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nhỏ làm được thì sản phẩm trọn gói là
một giải pháp hoàn hảo giúp doanh nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh lâu
dài, giúp doanh nghiệp bảo hiểm đứng vững trên thị trường.
Ở Việt Nam, sản phẩm bảo hiểm trọn gói, cũng như các sản phẩm trọn
gói nói chung cũng đã được các công ty sử dụng để chào bán và marketing
sản phẩm, và thu được kết quả khả quan. Tâm lý tiêu dùng của người Việt
Nam nói chung là thích được mua hàng với giá thấp, thích mua hàng khuyến
mại vì họ cho rằng họ được nhận giá trị cao hơn số tiền họ bỏ ra. Chính tâm
lý nổi bật này của người Việt Nam mà sản phẩm trọn gói có điều kiện phát
Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định



Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

20

triển. Một số công ty đã sử dụng sản phẩm trọn gói thành công như: Ngân
hàng ACB với sản phẩm ACB-Visa Electron đưa đến cho khách hàng một
giải pháp đi du lịch quốc tế bằng dịch vụ tài chính kết hợp dịch vụ y tế, công
ty VinaBridge hay công ty liên doanh khai thác Container cung cấp trọn gói
hai dịch vụ vận chuyển và kho bãi, Tổng công ty Bảo Minh với sản phẩm
bảo hiểm hộ gia đình với ba sản phẩm riêng lẻ là bảo hiểm xe mô tô, bảo
hiểm nhà tư nhân và bảo hiểm sức khoẻ,…
2. Đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm trọn gói
Sản phẩm bảo hiểm trọn gói trước hết là một sản phẩm dịch vụ nên nó
có đầy đủ những đặc điểm của một sản phẩm dịch vụ đó là:
-

Tính vô hình: Khi mua bảo hiểm, mặc dù

khách hàng nhận biết được các yếu tố hữu hình như tờ giấy in biểu tượng của
doanh nghiệp, tên gọi của sản phẩm, nội dung thoả thuận,… nhưng khách
hàng không nhìn được màu sắc, kích thước, hình dáng, mùi vị của sản phẩm
hay nói cách khác, khách hàng không thể cảm nhận được sản phẩm thông
qua các giác quan của mình. Tính vô hình của sản phẩm làm cho việc giới
thiệu, chào bán sản phẩm khó khăn hơn những sản phẩm hữu hình do khách
hàng không cảm nhận được chất lượng của sản phẩm, không thấy được sự
khác nhau giữa các sản phẩm của các doanh nghiệp bảo hiểm khác.
-


Tính không thể tách rời và không thể cất giữ.

Qúa trình cung ứng và tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm là một thể thống nhất
không thể tách rời, do đó nó gây ra hiện tượng thừa, thiếu nguồn nhân lực
khi yếu tố mùa vụ xuất hiện. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm
cần phải đào tạo những nhân viên có thể nhận biết và đáp ứng nhu cầu khách
hàng một cách tốt nhất trong những trường hợp nhu cầu của khách hàng tăng
mạnh.

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

-

Lớp: Bảo hiểm 46

21

Tính không đồng nhất. Do sản phẩm bảo

hiểm được thực hiện bởi con người, cho nên chất lượng của sản phẩm là
khác nhau đối với những nhân viên khác nhau, thậm chí cùng một nhân viên
cung cấp nhưng vào những thời điểm khác nhau chất lượng dịch vụ cũng
khác nhau. Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm cần chú trọng đến công tác tuyển
chọn, đào tạo và khuyến khích nhân viên đặc biệt là nhân viên bán hàng.

-

Tính không được bảo hộ bản quyền. Đặc

điểm này làm cho sản phẩm bảo hiểm của một công ty bị cạnh tranh quyết
liệt, bởi sản phẩm bảo hiểm là dễ bắt chước, và không được bảo hộ, nên
doanh nghiệp bảo hiểm phải đổi mới sản phẩm: giảm phí hoặc gia tăng các
lợi ích bổ sung cho sản phẩm để khách hàng có thể nhận biết và đánh giá cao
sản phẩm của doanh nghiệp.
Sản phẩm bảo hiểm trọn gói là một sản phẩm bảo hiểm nên nó có đầy
đủ những đặc điểm của một sản phẩm bảo hiểm đó là:
-

Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm “không

mong đợi”. Cả doanh nghiệp và khách hàng đều không mong muốn rủi ro
xảy ra vì một khi rủi ro xảy ra thì đồng nghĩa với thương tích thiệt hại, mất
mát mà doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường và chi trả cũng khó có thể bù đắp
hết được. Đặc điểm này làm cho việc chào bán là vô cùng khó khăn.
-

Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm của “chu

trình hạch toán đảo ngược”. Tức là chi phí của sản phẩm lại được phát hiện
sau khi bán sản phẩm. Điều này đòi hỏi khi doanh nghiệp thiết kế sản phẩm
mới cần phải căn cứ vào các số liệu thống kê của các chỉ tiêu liên quan để
đưa ra được một tỉ lệ phí hợp lý để doanh thu sản phẩm có thể bù đắp được
các chi phí có thể phát sinh và thu được lợi nhuận hợp lý.
Luận văn tốt nghiệp


Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có “hiệu
Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

22

quả xê dịch”. Đặc điểm này là do tần suất xảy ra rủi ro trong mỗi năm là
khác nhau làm cho tỷ lệ bồi thường cũng thay đổi; do đó hiệu quả kinh
doanh là không ổn định.
Ngoài những đặc điểm trên, sản phẩm bảo hiểm trọn gói còn có những
đặc điểm riêng của sản phẩm trọn gói như:
-

Tính không ổn định của sản phẩm. Số lượng

sản phẩm riêng lẻ trong sản phẩm bảo hiểm trọn gói là nhiều, và khách hàng
được quyền lựa chọn những sản phẩm trong gói sản phẩm này mà không đòi
hỏi bắt buộc phải mua cả gói. Điều này làm cho việc tính toán chi phí cũng
như việc quản lý hồ sơ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi doanh nghiệp
bảo hiểm cần xây dựng một quy trình quản lý sản phẩm cho hợp lý. Vấn đề
này khó khăn và phức tạp hơn sản phẩm bảo hiểm riêng lẻ nhiều.
-

Tính không đồng nhất về nhu cầu đối với các

sản phẩm riêng lẻ. Sản phẩm bảo hiểm nào được bán cho khách hàng cũng

có giá trị trong một thời gian nhất định; thường có thời hạn ít nhất là một
năm. Đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ, khách hàng chỉ mua sản
phẩm mới khi hết hạn hợp đồng sản phẩm cũ cùng loại. Do đó, tại một thời
điểm nào đó, khách hàng chỉ có nhu cầu đối với loại sản phẩm mà hiện tại họ
chưa sử dụng hoặc đã đến thời gian đáo hạn sản phẩm. Sở dĩ có hiện tượng
này là do các sản phẩm bảo hiểm riêng lẻ đã được bán từ trước đó rồi cho
nên có thể khách hàng có nhu cầu tiêu dùng tất cả các sản phẩm bảo hiểm
riêng lẻ của gói sản phẩm nhưng vào những thời điểm khác nhau khi mà hợp
đồng bảo hiểm riêng lẻ đáo hạn.
-

Sản phẩm trọn gói thực chất không phải là

một sản phẩm hoàn toàn mới mà chỉ là một gói các sản phẩm riêng lẻ đã có
từ trước, cho nên sản phẩm trọn gói có tính chất chứa đựng, là sự tổng hợp

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


Phan Thị Thuý Hằng

Lớp: Bảo hiểm 46

23

của các sản phẩm riêng lẻ. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm phải đưa ra
một mức giá thấp hơn tổng giá trị của các sản phẩm riêng lẻ để tạo ra giá trị
mới cho sản phẩm trọn gói, kích thích khách hàng mua sản phẩm. Điều này

đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có những công cụ marketing riêng, đặc
trưng cho sản phẩm bảo hiểm trọn gói để sản phẩm bảo hiểm trọn gói thể
hiện được vai trò của nó.
Nói tóm lại, sản phẩm bảo hiểm trọn gói, tuy về bản chất không phải là
một sản phẩm hoàn toàn mới nhưng nó có thể gây ra một làn sóng tiêu dùng
mạnh hơn rất nhiều so với các sản phẩm bảo hiểm riêng lẻ, nó là một phương
thức hiệu quả để đối phó với tình hình nhu cầu thị trường đang bão hoà cũng
như sự cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên để
sản phẩm trọn gói hoàn thành được sứ mệnh của nó, bản thân nó chưa thể
quyết định được, quan trọng hơn đó là phải có một chương trình marketing
tổng hợp để nâng cao giá trị của sản phẩm trọn gói cũng như kích thích
người dân tiêu dùng nhiều hơn.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI SẢN PHẨM TRỌN GÓI SẢN PHẨM BẢO HIỂM HỘ GIA ĐÌNH TẠI BẢO MINH HÀ NỘI

I. Sự ra đời và phát triển của Bảo Minh Hà Nội.
1. Giới thiệu về công ty Bảo Minh Hà Nội.
- Giới thiệu vể Tổng công ty bảo hiểm Bảo Minh.
Vinh dự được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Tài chính lựa chọn là doanh
nghiệp bảo hiểm nhà nước đầu tiên hoạt động hết sức có hiệu quả để thực
hiện cổ phần hoá. Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh đã được

Luận văn tốt nghiệp

Giáo viên hướng dẫn: TS.Phạm Thị Định


×