Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.02 KB, 8 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

Đề tài
Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI

Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI

1. Một số vấn đề về đầu tư phát triển và nguồn vốn đầu tư
1.1.

Đầu tư phát triển

Đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nhằm thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong
tương lai.
Tuỳ vào từng góc độ tiếp cận với những tiêu thức khác nhau có thể phân chia
thành nhiều hoạt động đầu tư khác nhau. Theo tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu
tư, một trong những tiêu thức thường được sử dụng, thì đầu tư được chia thành đầu
tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó người
bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành
kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư
trực tiếp bao gồm đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển. Đầu tư dịch chuyển là một
hình thức đầu tư trực tiếp trong đó việc bỏ vốn là nhằm dịch chuyển quyền sở hữu
giá trị của tài sản (như vậy thực chất trong đầu tư dịch chuyển không có sự gia tăng
giá trị tài sản).
Đầu tư phát triển là một phương thức của đầu tư trực tiếp. Hoạt động đầu tư
này nhằm duy trì và tạo ra năng lực mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh


hoạt đời sống của xã hội. Đây là hình thức đầu tư trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế. Hình thức đầu tư này đóng vai trò rất quan trọng đối với tăng trưởng và phát
triển của nền kinh tế tịa mỗi quốc gia.
Trong các hình thức đầu tư trên thì đầu tư phát triển là tiền đề, là cơ sở cho
các hoạt động đầu tư khác. Các hình thức đầu tư gián tiếp, dịch chuyển không thể tồn
tại và vận động nếu không có đầu tư phát triển.
1.2.

Nguồn vốn đầu tư

1.2.1. Khái niệm
Nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tích luỹ được thể hiện dưới dạng
giá trị được chuyển hoá thành vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Đây
là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển
kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội.
1.2.2. Các nguồn huy động vốn đầu tư
• Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế (vĩ mô): nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu
tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.

2


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích luỹ của nội bộ nền kinh tế bao gồm
tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của
chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội. Biểu hiện cụ thể của
nguồn vốn đầu tư trong nước bao gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của
dân cư và tư nhân. Nguồn vốn nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà
nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát
triển của doanh nghiệp nhà nước. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân bao gồm phần

tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích luỹ của cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá
trình đầu tư phát triển của nước sở tại. Theo tính chất luân chuyển vốn, có thể phân
nguồn vốn đầu tư nước ngoài thành: Tài trợ phát triển chính thức – ODF (bao gồm
viện trợ phát triển chính thức – ODA và các hình thức tài trợ khác, trong đó ODA
chiếm tỷ trọng chủ yếu trong ODF); nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương
mại quốc tế; đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI; nguồn huy động qua thị trường vốn
quốc tế.
• Trên góc độ các doanh nghiệp (vi mô): nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, đơn
vị thực hiện đầu tư bao gồm nguồn vốn bên trong và nguồn vốn bên ngoài.
Nguồn vốn bên trong hình thành từ phần tích luỹ từ nội bộ doanh nghiệp (vốn
góp ban đầu, thu nhập giữ lại) và phần khấu hao hàng năm. Nguồn vốn này có ưu
điểm là đảm bảo tính độc lập, chủ động, hạn chế rủi ro về tín dụng. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp nếu chỉ dựa vào nguồn vốn này sẽ bị hạn chế về quy mô đầu tư.
Nguồn vốn bên ngoài hình thành từ việc vay nợ hoặc phát hành chứng khoán
ra công chúng thông qua hai hình thức tài trợ chủ yếu: tài trợ gián tiếp qua các trung
gian tài chính (ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng…) hoặc tài trợ trực tiếp
qua thị trường vốn (thị trường chứng khoán, hoạt động tín dụng thuê mua…).

3


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI

2. Tổng quan về ODA và FDI
2.1.

Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance – ODA)


Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính
phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các
hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác.
Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm), thời hạn
cho vay dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm), khối lượng
vốn cho vay lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành
tố tài trợ) đạt ít nhất 25%.
Khi xem xét trên góc độ nguồn vốn đầu tư, ODA là một trong những nguồn
vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này, một phần vốn
ODA có thể đưa vào ngân sách đáp ứng các mục tiêu chi đầu tư phát triển của nhà
nước, một phần có thể đưa vào các chương trình tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước
và một phần có thể vận hành theo các dự án độc lập.
Đặc điểm của ODA
Một khoản tài trợ được coi là ODA nếu đáp ứng đầy đủ 3 điều kiện sau:
Một là: Được các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức chính thức
cung cấp. Tổ chức chính thức bao gồm các nhà nước mà đại diện là Chính phủ, các
tổ chức liên chính phủ hoặc liên quốc gia, và các tổ chức phi chính phủ hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận. Gắn với nguồn cung cấp, người ta chia ODA thành hai
dạng: ODA song phương và ODA đa phương.
-

ODA song phương: Chủ yếu do các nước là thành viên của DAC cung cấp.
ODA đa phương: Do các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, Liên minh châu
Âu, các Tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB, Ngân hàng phát triển
châu Phi, Quỹ viện trợ của OPEC, Quỹ Cô oét và các Tổ chức phi chính phủ
cung cấp.

Hai là: Mục tiêu chính là giúp các nước đang phát triển (ĐPT) phát triển kinh
tế, nâng cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm:
Xoá đói, giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ

thuật như giao thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như
giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm, phòng chống
dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường
năng lực của cơ quan quản lý nhà nước, cải cách thể chế…
Ba là: Thành tố hỗ trợ (Grant element – GE) phải đạt ít nhất 25%. Thành tố hỗ
trợ, còn được gọi là yếu tố không hoàn lại là một chỉ số biểu hiện tính “ưu đãi” của

4


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI
ODA so với các khoản vay thương mại theo điều kiện thị trường. Thành tố hỗ trợ
càng cao càng thuận lợi cho nước tiếp nhận. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên tổ
hợp các yếu tố đầu vào: Lãi suất, thời gian ân hạn, thời hạn cho vay, số lần trả nợ
trong năm, và tỷ lệ chiết khấu.
2.2.

Đầu trư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ
sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có
thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý,
điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ
các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài
của nước sở tại.
Các đặc điểm của FDI:
-

-


-

Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định cuả dự án đạt mức
tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định.
Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý dự án mà họ bỏ vốn đầu tư. Quyền
quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp
định của dự án.
Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các bên
theo tỉ lệ góp vốn và vồn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi
tức cổ phần nếu có.
FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại
toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn
tính hoặc sát nhập các doanh nghiếp với nhau.

5


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI

3. Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI
Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các nước
ĐPT thực hiện các chiến lược phát triển KTXH của mình. Vai trò của ODA thể hiện
trên các giác độ cơ bản như:
-

-

-

-


-

ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát
triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Vốn ODA với đặc tính ưu việt là
thời hạn cho vay dài thường là 10 – 30 năm, lãi suất thấp khoảng từ 0,25% đến
2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu đãi như vậy Chính phủ
các nước ĐPT mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y
tế.
ODA giúp các nước ĐPT phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường. Một
lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho đầu
tư phát triển giáo dục, đào tạo, các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y tế, đảm bảo
sức khoẻ cộng đồng. Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước ĐPT đã
gia tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
ODA giúp các nước ĐPT xoá đói, giảm nghèo. Xoá đói nghèo là một trong
những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc tế đưa ra khi hình thành phương
thức hỗ trợ phát triển chính thức. Mục tiêu này biểu hiện tính nhân đạo của
ODA.
ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế của
các nước ĐPT. Đa phần các nước ĐPT rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng
lai, gây bất lợi cho cán cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc
biệt các khoản trợ giúp của IMF có chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng
lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng bản tệ.
ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thành nguồn lực bổ sung cho đầu tư tư
nhân. Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như
nam châm “hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối
với những nước đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng
cố niềm tin của khu vực tư nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ. Tuy
nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân.

Ở những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo nghiêm trọng thì viện trợ không
những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân. Điều này giải thích tại
sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng ODA lớn của
cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.

6


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI
-

ODA giúp các nước ĐPT tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương
trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây
dựng chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, nguồn vốn ODA cũng tiềm ẩn nhiều hậu quả bất lợi đối với các
nước tiếp nhận nếu ODA không được sử dụng hiệu quả, như làm tăng gánh nặng nợ
quốc gia, lệ thuộc chính trị vào nhà tài trợ…
Trong khi đó, hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà
còn có cả công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing,
trình độ quản lý...Hình thức đầu tư này mang tính hoàn chỉnh bởi khi vốn đưa vào
đầu tư thì hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành và sản phẩm được tiêu thụ
trên thị trường nước chủ nhà hoặc xuất khẩu. Do vậy, đầu tư kỹ thuật để nâng cao
chất lượng sản phẩm là một trong những nhân tố làm tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm trên thị trường. Đây là đặc điểm để phân biệt với các hình thức đầu tư khác,
đặc biệt là với hình thức ODA (hình thức này chỉ cung cấp vốn đầu tư cho nước sở
tại mà không kèm theo kỹ thuật và công nghệ).
Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn
pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền
trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Tỷ lệ góp vốn

của bên nước ngoài càng cao thì quyền quản lý, ra quyết định càng lớn. Đặc điểm
này giúp ta phân định được các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu nhà đầu
tư nước ngoài góp 100% vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước
ngoài điều hành.
Đầu tư trưc tiếp nước ngoài đẩy nhanh quá trình tiếp nhận công nghệ ở các
nước tiếp nhận đầu tư : Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về vốn, trình độ khoa
học công nghệ kỹ cao, trong khi nước sở tại khan hiếm vốn lại không có điều kiện
nghiên cứu nên mặt bằng công nghệ thưòng thấp hơn, luôn có nhu cầu tiếp nhận
công nghệ (song cũng rất hạn chế việc tiếp nhận công nghệ thông qua con đường
quan hệ thương mại vì không có vốn). Với hình thức đầu tư trực tiếp, nước tiếp nhận
có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được các công nghệ hạng hai đã
lỗi thời ở nước đối tác nhưng còn tiên tiến hơn so với công nghệ trong nước với chi
phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên cứu, có điêù kiện đi tắt đón đầu rút ngắn
khoảng cách về mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Thông qua FDI các nước nhận đầu tư
có thể tiếp cận với thị trường thể giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các
công ty đa quốc gia thực hiện mà các công ty có lợi thể về việc tiếp cận với khách
hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của họ

7


Mối quan hệ qua lại giữa ODA và FDI
về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn... Bên cạnh đó các
nước tiếp nhận đầu tư còn có thể học hỏi được kinh ngiệm kinh doanh, nâng cao hiêu
quả quản lý, và tác phong lao động của các nhà đầu tư nước ngoài có kinh nghiệm
kinh doanh, có khả năng quản lý hiệu quả. Ngoài ra đầu tư trưc tiếp còn góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nước đang phát thiển thường có cơ cấu kinh tế bất
hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực một do không có nhiều vốn. Vi vây FDI sẽ cung
cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn,dần dần mang tính chất của
một nền kinh tế phát triển.

Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể đầu tư nước ngoài
trong khuôn khổ Luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ
có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong
muốn thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích
hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó. Mặc dù
FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ chính
trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA.
Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ
nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh
của họ. Trong khi đó, hoạt động ODA và ODF (Official Development Foreign)
thường dẫn đến tình trạng nợ nước ngoài do hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Như vậy qua những phân tích trên có thể thấy cả ODA lẫn FDI đều có vai trò
hết sức quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển như Việt Nam. Có sự so sánh để thấy rõ những ưu nhược điểm của
từng loại nguồn vốn nhưng không phải là để nghiêng về nên thu hút, sử dụng nguồn
vốn nào mà là để thấy rằng nên sử dụng, đầu tư mỗi loại nguồn vốn trên ở từng lĩnh
vực nào để đạt hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Trong thực tế, nguồn vốn ODA nhờ
những đặc điểm vốn có thường được sử dụng trong đầu tư vào các dự án về cơ sở hạ
tầng, an sinh xã hội… còn FDI thường xuất hiện trong các dự án sản xuất kinh doanh
thương mại của các doanh nghiệp trực tiếp làm ra các sản phẩm dịch vụ phục vụ cho
nhu cầu của nền kinh tế. Chính việc khác biệt trong mục đích sử dụng, lĩnh vực đầu
tư này cho thấy mối quan hệ qua lại giữa hai loại nguồn vốn, có tác dụng bổ trợ nhau
thúc đẩy hiệu quả đầu tư, sự phát triển của nền kinh tế.

8



×