Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích khách hàng trong cho vay tại NHNoPTNT việt nam – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Ngân hàng thương mại (NHTM) là một trung gian tài chính quan trọng , với
vai trò tập trung vốn của nền kinh tế, chức năng làm trung gian thanh toán và quản
lý các phương tiện thanh toán, chức năng tạo tiền,…ngân hàng thương mại đã góp
phần không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước.
Trong hoạt động của NHTM Việt Nam, tín dụng nói chung và hoạt động cho
vay nói riêng chiếm tỷ trọng lớn, và là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân
hàng. Tuy nhiên đây lại là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong một vài năm trở
lại đây, những rủi ro này đã được bộc lộ rõ nét. Nhũng khoản nợ khó đòi, khách
hàng mất khả năng thanh toán, tỷ lệ nợ quá hạn cao, chất lượng và hiệu quả của cho
vay kém đang là vấn đề chung mà các NHTM Việt Nam gặp phải. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân phổ biến nhất là việc đánh giá
không đúng tình hình tài chính cũng như khả năng trả nợ của khách hàng khi thực
hiện cho vay. Chính vì vậy nâng cao chất lượng phân tích khách hàng trong hoạt
động cho vay được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết với các NHTM. Từ thực tiễn
trên, tôi đã chọn đề tài: “Phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay tại Ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam – chi nhánh Hà Nội –
Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu
2. Mục tiêu nghiên cứu
-

Làm rõ những lý luận cơ bản về phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại

-

Nghiên cứu thực trạng phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay của
NHNo&PTNT Việt Nam – chi nhánh Hà Nội, đưa ra những tồn tại và nguyên nhân.

-



Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích khách hàng trong hoạt động
cho vay tai NHNo&PTNT Việt Nam- chi nhánh Hà Nội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay.

-

Phạm vi nghiên cứu: NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội giai đoạn từ
2011-2013
1

1


4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
phương pháp chủ đạo, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp khác như thống kê,
tổng hợp, phân tích, so sánh, dùng hệ thống sơ đồ bảng biểu để trình bày các nội
dung lý luận và thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng phân tích khách hàng
trong cho vay tại NHTM
Chương 2: Thực trạng phân tích khách hàng trong cho vay tại NHNo&PTNT
Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng phân tích khách hàng trong cho

vay tại NHNo&PTNT Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội

2

2


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH KHÁCH HÀNG TRONG
CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trung gian tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân
hàng thương mại có vai trò trong việc điều tiết nền kinh tế, giúp lưu thông dòng vốn
thông qua hệ số nhân tiền tệ qua đó kích thích nền kinh tế phát triển. Ngân hàng bao
gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài
chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về
quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng có thể được định
nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Theo quan điểm của Perters. Rose: “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và các dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.”
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 01 năm 2011 “Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực
hiện tất cả các hoạt động: Nhận tiền gửi; Cấp tín dụng; Cung ứng dịch vụ thanh toán
qua tài khoản và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận.”
Với việc hoạt động chủ yếu là chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư dưới hình

thức nhận tiền gửi và cấp tín dụng, ngân hàng đã trở thành trung gian tài chính lớn
nhất trong nền kinh tế. Với điều kiện thuận lợi như vậy ngân hàng ngày càng hoàn
thiện mình hơn để là trung gian thanh toán. Ngân hàng đã đưa ra rất nhiều hình thức
thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí như: séc, ủy nhiệm chi, nhờ
thu, thẻ, ATM, POS…. Cùng với đó ngân hàng thương mại cũng có một chức năng
không kém quan trọng, đó là thông qua chức năng trung gian tài chính, trung gian
3

3


thanh toán nó tác động vào số nhân tiền tệ, tạo ra khối lượng tiền gửi thanh toán
nhiều gấp bội so với lượng tiền cơ sở thông qua hoạt động cho vay. Khi thực hiện
chức năng này, hệ thống NHTM đã tác động vào đường cung tiền, tác động lạm
phát và tăng trưởng kinh tế.
Sự phát triển không ngừng của hệ thống ngân hàng trong nước và ngoài nước
đã góp phần rất lớn vào sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. Các ngân
hàng ngày càng cung cấp nhiều sản phẩm dịch vụ hiện đại đa dạng và phong phú
đến khách hàng. Đồng thời không ngừng đáp ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính,
phi tài chính tốt nhất để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng. Dưới
đây là một số những dịch vụ ngân hàng thương mại đang cung cấp đến khách hàng.
Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh đặc biệt.
Đối tượng kinh doanh chính của NHTM là vốn tiền tệ, do đó hai mảng hoạt động
lớn nhất của NHTM là huy động vốn và sử dụng vốn thông qua tín dụng và đầu tư.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế và sự thay đổi không ngừng của công nghệ
thông tin, NHTM ngày càng mở rộng hoạt động của mình. Bên cạnh các hoạt động
truyền thống như huy động vốn, tín dụng, đầu tư, NHTM còn thực hiện cung ứng
các dịch vụ thanh toán qua tài khoản và nhiều hoạt động khác. Sự đa dạng trong các
dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là “Bách hóa tài

chính”. Các hoạt động của ngân hàng gồm:
Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động quan trọng của các ngân hàng thương mại, tuy
không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng tạo nguồn vốn cho ngân
hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác. Nguồn vốn của ngân hàng có thể là
nguồn từ dân cư hay các tổ chức kinh tế, xã hội dưới các nhóm sản phẩm huy động
như:
Nhóm sản phẩm tiền gửi, tiết kiệm: Tài khoản tiền gửi, tài khoản tiền gửi
thanh toán, tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm định kỳ.
Nhóm sản phẩm huy động vốn qua phát hành các giấy tờ có giá: Kỳ phiếu, trái
phiếu.
4

4


Ngoài ra, ngân hàng còn có thể huy động vốn thông qua việc đi vay trên thị
trường liên ngân hàng hoặc vay ngân hàng nhà nước.
Hoạt động cấp tín dụng
Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền
hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng
nghiệp vụ bao gồm: Cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Tín dụng là hoạt động đặc trưng của ngân hàng bên cạnh hoạt động huy động
vốn. Hoạt động tín dụng quyết định phần lớn hiệu quả sử dụng nguồn vốn huy động
được. Tín dụng góp phần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ và đóng góp chính vào
doanh thu của ngân hàng. Ngân hàng ngày càng tạo ra nhiều chùm sản phẩm tín
dụng phù hợp với nhu cầu của khách hàng: nhóm sản phẩm dành cho cá nhân,
nhóm sản phẩm dành cho doanh nghiệp, nhóm sản phẩm dành cho dự án đầu tư,
nhóm sản phẩm liên kết (ngân hàng, nhà thầu, chủ đầu tư và khách hàng)….

Cung ứng các dịch vụ thanh toán:
Cung ứng các dịch vụ thanh toán ngày càng có vai trò quan trọng trong hệ
thống NHTM, nó là nguồn thu ổn định ít rủi ro và là yếu tố trọng yếu đối với sự
phát triển của hệ thống NHTM hiện đại trong tương lai. Bên cạnh những sản phẩm
truyền thống hệ thống ngân hàng không ngừng phát triển các sản phẩm thanh toán
hiện đại như: Thẻ, E- banking, các sản phẩm liên kết (sản phẩm bảo hiểm, mua bán
thanh toán qua mạng)... đã ngày càng được xã hội chấp nhận và dần trở thành
những tiện ích thiết yếu. Hệ thống ATM, POS của NHTM đã đáp ứng một phần
thanh toán rất lớn của khách hàng. Hơn nữa, dịch vụ mobile, internet banking cũng
đã hỗ trợ rất lớn đến sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Việc thanh
toán qua hệ thống ngân hàng đã mang lại những lợi ích thiết thực cho người sử
dụng một cách nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm chi phí.
Các hoạt động khác
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại ngày càng phong phú và đa dạng thể hiện qua các mảng hoạt động như:
kinh doanh ngoại hối, tư vấn tài chính, bảo quản vật có giá, quản lý ngân quỹ,…
5

5


Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Đây là hoạt động mua bán ngoại tệ theo các
hình thức giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi. Hoạt động này tạo ra một nguồn thu tương
đối tốt cho ngân hàng và cũng là hoạt động tạo điều kiện để các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu hoạt động ngày một tốt hơn. Với việc tổ chức và quản lý ngoại hối ở Việt
Nam, thì ngân hàng là nguồn cung ứng ngoại tệ, để đáp ứng nhu cầu thanh toán
bằng ngoại tệ của các cá nhân, tổ chức trong nước với nước ngoài. Ở Việt Nam,
hoạt động xuất nhập khẩu đang ngày càng được đẩy mạnh, đã tạo điều kiện cho
hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong hoạt
động của ngân hàng cũng như trong nền kinh tế.

Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn tài chính: Do hoạt động trong lĩnh vực tài
chính nên các ngân hàng có nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Đặc điểm này đã
khiến ngân hàng trở thành đối tác tin cậy của nhiều khách hàng trong việc cung cấp
về dịch vụ ủy thác như: ủy thác về đầu tư, ủy thác vay vốn, ủy thác phát hành… sẵn
sàng cung cấp dịch vụ tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp,… Ngân hàng có thể cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính cho
khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc
ngân hàng.
Bảo quản tài sản hộ: Hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng cần một hệ
thống tài sản cố định giúp đảm bảo an toàn như kho quỹ, két sắt,… Tận dụng tài sản
có sẵn này, ngân hàng thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho
thuê tủ két,…cho khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện.
Quản lý ngân quỹ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các
doanh nghiệp và cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với
nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong
việc thu – chi tiền mặt, ngân hàng đã cung cấp dịch vụ quản lý ngân quỹ, quản lý
việc thu chi cho khách hàng đồng thời tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm
thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần
tiền mặt để thanh toán.
Đầu tư: Ngoài hoạt động tín dụng, đầu tư là mảng hoạt động sinh lời đáng kể
cho ngân hàng. Ngân hàng thực hiện đầu tư vào các tài sản tài chính như: cổ phiếu,
6

6


trái phiếu, chứng khoán phái sinh,… đầu tư góp vốn liên doanh, liên kết,… nhằm đa
dạng hóa tài sản sinh lời và phân tán rủi ro.
Bên cạnh đó ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác thông qua các công ty
con hoặc công ty liên kết để đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu tài chính của khách hàng

như: Môi giới chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay trong ngân hàng.
Khái niệm của hoạt động cho vay trong ngân hàng.
Cho vay của NHTM là việc chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
NHTM (người sở hữu) sang khách hàng vay (người sử dụng) sau một thời gian nhất
định quay trở lại NHTM với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 có hiệu lực thi hành từ ngày
01 tháng 01 năm 2011 "Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao
hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả
gốc và lãi".
Trong các hình thức cấp tín dụng thì cho vay là hoạt động quan trọng nhất và
chiếm tỷ trọng lớn nhất tại các ngân hàng. Do dó tín dụng có thể được hiểu theo
nghĩa hẹp hơn là cho vay.
Từ khái niệm trên ta có thể thấy NHTM cho vay theo các nguyên tắc sau:
* Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng
tín dụng
Theo nguyên tắc này thị mọi khoản vay đều phải được xác đinh trước về mục
đích kinh tế. bởi vậy các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay vốn, trước khi
vay phải trình bày với ngân hàng về mục đích vay vốn, gửi cho ngân hàng các kế
hoạch, đơn xin vay gửi ngân hàng với đầy đủ các nội dung sau: Số tiền vay, thời
hạn sử dụng vốn vay, mục đích sử dụng vốn vay và tính hiệu quả của vốn vay ngân
hàng. Trên cơ sở đó ngân hàng kiểm tra xem xét, nếu thấy đồng vốn vay ngân hàng
đem lại hiệu quả kinh tế và có khả năng trả nợ đúng hạn thì mới quyết định cho vay.
Mặt khác trên cơ sở kế hoạch xin vay vốn của người xin vay, bản thân ngân hàng
phải xây dựng kế hoạch cho vay vốn của mình để chủ động trong việc đầu tư tín
7

7



dụng. Nguyên tắc đảm bảo cho khách hàng vay vốn có đủ vốn và vay vốn có kế
hoạch. Đồng thời nguyên tắc này nhằm tiết kiệm đồng vốn, đầu tư vốn có trọng
điểm và có hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra nó còn tăng cường sự giám đốc bằng
đồng tiền của ngân hàng đối với đơn vị vay vốn của ngân hàng.
Trường hợp khách hàng có nhu cầu vay vốn phát sinh ngoài kế hoạch, ngân
hàng xét thấy cần thiết và hợp lý, cân đối với nguồn vốn của mình, có thể cho vay
bổ sung cho người vay. Vốn vay phải sử dụng đúng cam kết và mục đích.
* Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn đầy đủ cả gốc và lãi.
Hoàn trả là thuộc tính vốn có của tín dụng, sự hoàn trả là mối quan tâm hàng
đầu của các ngân hàng khi cho vay. Thu hồi nợ gốc và lãi đúng hạn là cơ sở đế ngân
hàng tồn tại và phát triển.
Xuất phát từ nguyên tắc đúng hoàn trả, người cho vay (ngân hàng) khi chuyển
giao tài sản cho người đi vay (khách hàng vay vốn) sử dụng phải có cơ sở để tin
rằng người đi vay sẽ trả nợ đúng hạn. Việc sử dụng vốn đúng mục đích của người
vay ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ, lãi cho ngân hàng vì ngân hàng cho
vay dựa trên những phân tích, tính toán trên phương án vay vốn của khách hàng, và
chấp nhận rủi ro trong phương án đó.
Để có thể thực hiện được nguyên tắc này trong quản lý vốn vay ngân hàng
phải xác đinh thời hạn cho vay, các kỳ hạn nợ của từng khoản vay, đồng thời
thường xuyên theo dõi, đôn đốc khách hàng trong việc trả nợ.
Vai trò của hoạt động cho vay trong ngân hàng.
* Đối với nền kinh tế
- Cho vay là hoạt động cơ bản kết nối những nguồn vốn nhàn rỗi với những
người thực sự có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế
Hoạt động cho vay góp phần điều hoà cung- cầu dịch vụ hàng hoá:
Doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh, hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh
mà thiếu vốn thì doanh nghiệp phải vay vốn của Ngân hàng. Nhưng doanh nghiệp
chỉ thu được lợi nhuận cũng như có khả năng trả nợ Ngân hàng khi doanh nghiệp
tiêu thụ được hết số sản phẩm hàng hoá đã sản xuất ra, hay phải có một bộ phận

những người tiêu dùng mua và có khả năng mua sản phẩm đó.
8
8


Về phía người tiêu dùng, với một mức thu nhập nhất định, họ không thể có đủ
số tiền để mua hàng hoá mình muốn. Họ chỉ có đủ khả năng mua sau một thời gian
dài tích luỹ. Đó là nguyên nhân dẫn đến chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn của
doanh nghiệp bị ngưng trệ. Doanh nghiệp sẽ không thu hồi đủ tiền để thực hiện
vòng quay sản xuất. Do đó Ngân hàng cho vay là giải pháp có lợi đôi bên.
Ngân hàng cho doanh nghiệp vay sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh, thì sẽ có
nhiều hàng hoá. Ngân hàng cho người tiêu dùng vay sẽ thoả mãn nhu cầu hàng hoá.
Như vậy hoạt động cho vay của Ngân hàng đã góp phần điều hoà cung cầu sản
phẩm hàng hoá dịch vụ cho nền kinh tế.
Hoạt động cho vay góp phần điều tiết và phân phối các nguồn vốn:
Vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục
và biểu hiện qua các hình thức khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất,
tạo thành chu kì tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một
vòng tuần hoàn này thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình sản xuât kinh doanh,
để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi nguồn vốn của doanh nghiệp luôn đồng thời tồn
tại ở ba giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa, thiếu
vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm
thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có những đơn vị tạm thời thiếu vốn. Đây là hiện tượng
mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kì nền
kinh tế nào, làm nảy sinh nhu cầu ngày càng bức thiết phải giải quyết được vấn đề
điều hoà vốn. Ngân hàng thương mại với vai trò là một trung gian tài chính đứng ra
tập trung phân phối lại tiền tệ, điều hoà cung và cầu vốn cho các doanh nghiệp, đã
góp phần điều tiết lại nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp không bị gián đoạn.
- Cho vay là công cụ điều tiết kinh tế xã hội của nhà nước

Cho vay được coi như một công cụ trong chính sách tiền tệ quốc gia để thực
hiện điều hoà lưu thông tiền làm cho tiền tệ ổn định. Thông qua cho vay, Ngân hàng
Trung ương tiến hành việc đưa tiền cung ứng vào lưu thông. Dựa trên tín hiệu của
thị trường cung cầu quỹ cho vay, ngân hàng Trung Ương cũng nắm bắt được nhu
cầu của tiền tệ của nền kinh tế, qua đó đưa ra kế hoạch cung ứng tiền phù hợp.
9

9


Hoạt động cho vay góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
Nhiều thành phần kinh tế, phần lớn nguồn vốn đi vay từ Ngân hàng để bắt tay
vào ngành thương mại dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn (Ví dụ kinh tế ngoài quốc doanh
chiếm tới trên 70%). Do vậy bằng các chính sách cho vay, định hướng chung của
nhà nước góp phần tạo cho nền kinh tế một cơ cấu kinh tế hợp lý, cân đối.
Bằng những công cụ tín dụng Ngân hàng, Ngân hàng có thể cho vay ưu đãi
những ngành nghề cần thiết để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng
và nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
* Đối với khách hàng.
- Hoạt động cho vay góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của khách
hàng.
Khách hàng khi vay vốn phải cam kết với các điều kiện chặt chẽ về mục đích
sử dụng, về hoàn trả gốc lãi và luôn có sự giám sát của ngân hàng. Do đó phải luôn
chú trọng để sử dụng vốn có hiệu quả
- Hoạt động cho vay góp phần giúp các thành phần kinh tế mở rộng ứng
dụng công nghệ mới
Với những doanh nghiệp trình độ trang bị kĩ thuật còn thấp kém, công nghệ
thấp kém, chắp vá, thiếu đồng bộ làm giảm ưu thế của các doanh nghiệp , làm cho
các doanh nghiệp đó kém phát triển. Thông qua vốn vay của Ngân hàng, doanh

nghiệp dùng đồng vốn này để đầu tư, tìm kiếm những công nghệ hiện đại, đổi mới
dây truyền sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm thoả mãn
nhu cầu trong và ngoài nước. Như vậy hoạt động cho vay mở rộng ứng dụng công
nghệ mới vào các doanh nghiệp, thông qua đó giúp doanh nghiệp sản xuất ngày
càng có hiệu quả, mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Đối với Ngân hàng thương mại
- Cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính, lợi nhuận cao cho ngân
hàng,dùng chi trả các khoản lãi tiền gửi hay động và các khoản chi phí quản lý,
trang thiết bị, tiền lương và các khoản chi phí khác để duy trì hoạt động của ngân
hàng.
10

10


Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động lớn của Ngân hàng doanh
thu từ hoạt động này thường chiếm 70% doanh thu, ở các nước phát triển, hay đến
90% doanh thu của Ngân hàng, ở các nước đang phát triển.
- Thông qua hoạt động cho vay, ngân hàng mở rộng được các loại hình dịch
vụ khác như thanh toán, thu hút tiền gửi, kinh doanh ngoại tệ, tư vấn... từ đó đa
dạng hóa hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro.
Rủi ro trong hoạt động cho vay
Lợi nhuận và rủi ro là hai vấn đề luôn song hành với nhau, lợi nhuận càng lớn
thì rủi ro càng cao; đó là một nguyên tắc luôn đúng với hoạt động của mọi chủ thể
kinh doanh, trong đó có ngân hàng thương mại. Là hoạt động mang lại phần lớn lợi
nhuận cho ngân hàng, cho vay cũng trở thành hoạt động có nhiều rủi ro nhất trong
ngân hàng. Rủi ro tín dụng là ngôn từ thường được sử dụng trong hoạt động cho
vay của ngân hàng hoặc trên thị trường tài chính. Đó là khả năng không chi trả được
nợ của người đi vay đối với người cho vay khi đến hạn phải thanh toán. Luôn là
người cho vay phải chịu rủi ro khi chấp nhận một hợp đồng cho vay tín dụng. Bất

kỳ một hợp đồng cho vay nào cũng có rủi ro tín dụng. Rủi ro cho vay hay rủi ro tín
dụng là rủi ro thường gặp và phổ biến trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng nhưng có thể hiểu rủi ro tín
dụng là khả năng (hay xác suất) mà người đi vay không thực hiện, hoặc không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi của khoản vay theo cam kết. “Rủi ro
tín dụng gắn liền với hoạt động của ngân hàng, là bạn đường trong kinh doanh, có
thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ”
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có nhiều cách nhìn khác nhau về nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong
một ngân hàng thương mại. Nếu xem xét các nguyên nhân này dưới góc độ đối
tượng tạo ra rủi ro, có thể phân loại thành: nguyên nhân thuộc về chủ quan người
vay, nguyên nhân thuộc về ngân hàng, nguyên nhân bất khả kháng. Đây cũng là
cách nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng phổ biến hiện nay.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Khách hàng là đối tượng trực tiếp tham gia vào mối quan hệ tín dụng với ngân
hàng, vì vậy, rủi ro do người đi vay gây ra cho ngân hàng là một trong những
11

11


nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng rủi ro tín dụng của ngân hàng. Có một số
nguyên nhân cơ bản thường thấy xuất phát từ đối tượng này như:
Yếu kém trong việc quản lý kinh doanh:
Khách hàng vay vốn có thể có phương án kinh doanh tốt, nhiều tính khả thi,
sự hỗ trợ đầy đủ về mặt tài chính, song trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ lại
có những quyết định đầu tư sai lầm cũng như sự thiếu sót trong quản lý, có thể dẫn
tới nhưng hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng tới khả năng tạo ra lợi nhuận của dự án,
từ đó, khiến khách hàng không có khả năng hoàn trả khoản vay cho ngân hàng và
dẫn đến nợ quá hạn.

Sử dụng vốn vay sai mục đích:
Một nguyên nhân nữa xuất phát từ phía người vay vốn là việc sử dụng vốn vay
sai mục đích đã cam kết với ngân hàng. Nguyên nhân này còn được gọi là rủi ro đạo
đức. Sau khi vay vốn, chủ thể vay vốn có thể nhìn thấy những dự án khác có khả
năng sinh lời cao, nhưng không lường hết được rủi ro của dự án đó, dẫn đến việc sử
dụng khối lượng tiền vốn đã vay đầu tư vào các dự án có mức độ rủi ro lớn, phá vỡ
cam kết với ngân hàng. Điều này dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút
và gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng cho vay.
Thiếu minh bạch trong việc cung cấp thông tin về tài chính:
Để vay vốn ngân hàng, khách hàng cần có một khả năng tiềm lực về tài chính
nhất định, nếu không đáp ứng được điều kiện nay, khách hàng sẽ không được ngân
hàng cho vay. Xuất phát từ yếu tố đó, nhiều khách hàng đã cung cấp những thông
tin tài chính thiếu chính xác, gây sai lệch về khả năng tài chính của mình để có thể
vay được vốn ngân hàng. Thậm chí, với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, họ sẵn
sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng. Sự thiếu sót trong thông tin và tình
trạng yếu kém về mặt tài chính của khách hàng khiến ngân hàng đánh giá sai lầm
mức độ rủi ro của khách hàng, làm tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
Bên cạnh những nguyên nhân trên, ý thức trả nợ của khách hàng cũng là một
yếu tố tạo ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Việc chây ỳ, trì hoãn thời gian trả nợ
với mục đích quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt làm các khoản nợ quá
hạn của ngân hàng tăng lên, khiến ngân hàng gặp phải rủi ro.
12

12


Tóm lại, sự bất cân xứng về thông tin giữa ngân hàng và khách hàng
trong quá trình cho vay là yếu tố cơ bản dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng

Trên thực tế, có không ít trường hợp rủi ro tín dụng xảy ra xuất phát từ phía
các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, có thể phân loại các trường hợp này thành các
nguyên nhân:
Do quy trình, chính sách cho vay của ngân hàng
Việc xây dựng một quy trình cho vay cũng như kiểm tra, giám sát sau vay hợp
lý là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng đồng thời cũng là thách thức
đặt ra cho tất cả các ngân hàng thương mại. Một số ngân hàng thương mại, đặc biệt
là các ngân hàng thương mại tại Việt Nam, chưa xây dựng được một hệ thống quy
trình, chính sách hợp lý trong hoạt động cho vay. Các khâu từ phân tích tài chính
khách hàng, đến thẩm định khách hàng, chấm điểm, xếp loại khách hàng,… được
thực hiện không đầy đủ hoặc lỏng lẻo dẫn đến việc ra quyết định sai lầm trong cho
vay. Hoạt động kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng không
được quan tâm, thậm chí bị bỏ qua trong hoạt động tín dụng tạo ra cơ hội để khách
hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Các tình huống đó dẫn đến sự tăng lên trong rủi
ro tín dụng mà các ngân hàng thương mại phải đối mặt.
Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức, chạy theo lợi nhuận
Với những ngân hàng thương mại chỉ thực hiện cho vay một hoặc một vài đối
tượng khách hàng, tất nhiên lợi nhuận của các ngân hàng này sẽ giảm sút. Để gia
tăng tính cạnh tranh cũng như tăng lợi nhuận, việc mở rộng hoạt động tín dụng, tiếp
cận các khách hàng mới là điều thường thấy ở các ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên, mở rộng tín dụng quá mức là nguyên nhân làm tăng rủi ro tín dụng của ngân
hàng, bởi lẽ việc mở rộng quá mức đồng nghĩa với việc lựa chọn khách hàng thiếu
cẩn thận, thiếu thông tin cũng như những đánh giá khác về ngành nghề, lĩnh vực
kinh doanh. Việc mở rộng tín dụng cũng khiến sự giám sát của ngân hàng không thể
thực hiện đầy đủ, kịp thời, là cơ sở tạo điều kiện để rủi ro đạo đức từ phía khách
hàng xảy ra.
13

13



Chạy theo lợi nhuận là nguyên nhân cơ bản khiến ngân hàng bỏ qua tính an
toàn trong hoạt động kinh doanh của mình. Khi sự cạnh tranh trong hệ thống ngân
hàng càng lớn, các ngân hàng luôn phải đổi mới sản phẩm, dịch vụ, nâng cao khoa
học kỹ thuật, rút ngắn thời gian đánh giá chất lượng khách hàng. Điều này khiến
không ít ngân hàng sơ sài, thậm chí bỏ qua công tác thẩm định khách hàng, hoặc
chấp nhận những khách hàng có mức độ rủi ro cao để tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Mặc dù ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận, song với đặc thù ngành nghề kinh doanh tiền tệ, sự an toàn luôn là vấn đề
mà các ngân hàng cần quan tâm khi thực hiện cho vay.
Do chất lượng của bộ máy cán bộ trong ngân hàng
Có rất nhiều thành viên trong một ngân hàng tham gia vào quá trình cấp tín
dụng.
Đó là các cán bộ tín dụng, người trực tiếp tiếp xúc khách hàng cũng như tiếp
nhận, đánh giá hồ sơ khách hàng. Công việc này đòi hỏi sự am hiểu về lĩnh vực
kinh doanh, ngành nghề, môi trường mà khách hàng của họ làm việc, cũng như yêu
cầu người cán bộ tín dụng phải có được sự nhìn nhận sâu sắc, kỹ lưỡng về những
yếu tố có thể thay đổi trong tương lai ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của khách hàng. Vì vậy, không thể phủ nhận rằng cán bộ tín dụng trong ngân hàng
thương mại cần phải được đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện về kiến thức trong
các lĩnh vực mà họ phụ trách. Do đó, sự thiếu sót về kinh nghiệm cũng như hiểu
biết của cán bộ tín dụng trong ngân hàng là một yếu tố to lớn làm tăng rủi ro tín
dụng mà ngân hàng gặp phải. Bên cạnh đó, tư cách đạo đức trong hoạt động cho
vay của các cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng các khoản
vay trong ngân hàng. Việc thay đổi hồ sơ tài chính của khách hàng, vi phạm các
nguyên tắc cho vay là một hiện tượng tiêu cực xảy ra trong các ngân hàng, khiến
chất lượng tín dụng ngân hàng giảm sút.
Đó là các cán bộ thực hiện công tác quản lý trong ngân hàng. Do đặc thù vị trí
công tác, số lượng cán bộ làm công tác quản lý ít song có rất nhiều các khoản vay
cần phải kiểm soát. Sự thiếu sót, lơi lỏng trong quá trình kiểm tra, kiểm soát các

khoản vay là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
14

14


Ngoài ra, các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng không được thực hiện
một cách đầy đủ, triệt để cũng sẽ khiến ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tín dụng.
Tóm lại, việc không phân tích, tìm hiểu thông tin khách hàng một cách kỹ
lưỡng, trình độ cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng là một
trong các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại
Nguyên nhân bất khả kháng
Nguyên nhân bất khả kháng là sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài gây ra
những ảnh hưởng không dự đoán được cho các khoản tín dụng của ngân hàng. Các
nguyên nhân khách quan này bao gồm:
Môi trường kinh tế thay đổi
Làm việc trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, hoạt động của ngân hàng thương
mại chịu ảnh hưởng to lớn từ điều kiện kinh tế. Trong một nền kinh tế tăng trưởng
nhanh chóng, cơ hội đầu tư được mở ra tạo điều kiện để các doanh nghiệp kinh
doanh hiệu quả, nâng cao lợi nhuận và tình hình tài chính, tăng khả năng hoàn trả
các khoản vay của doanh nghiệp. Ngược lại, nền kinh tế rơi vào thời kỳ khủng
hoảng sẽ đóng lại các cơ hội đầu tư cho doanh nghiệp, thậm chí đẩy họ đến những
khó khăn về tài chính và có thể phá sản, từ đó dẫn đến hàng loạt các khoản nợ xấu
của ngân hàng thương mại và làm gia tăng rủi ro tín dụng ngân hàng gặp phải.
Yếu tố môi trường kinh tế cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng đặc biệt
trong xu thế hội nhập hiện nay. Sự thay đổi của tình hình kinh tế thế giới gây ra tác
động không nhỏ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, đồng thời tác động
lớn đến hệ thống tài chính trong và ngoài nước, gây ảnh hưởng không nhỏ cho lĩnh
vực tín dụng của ngân hàng. Ngoài ra, sự tham gia cạnh tranh của các ngân hàng
quốc tế với bộ máy, cơ chế và quy trình hiện đại hóa cao khiến các ngân hàng trong

nước đối mặt với không ít thách thức. Vì vậy, sự thay đổi trong kinh tế thế giới và
sự cạnh tranh của ngân hàng quốc tế cũng đang ngày càng trở thành vấn đề mà các
ngân hàng thương mại phải quan tâm khi thực hiện quản trị rủi ro tín dụng.
Môi trường pháp lý thay đổi
Ngân hàng là lĩnh vực nòng cốt trong hệ thống kinh tế của một quốc gia, bởi lẽ
đó mà đây cũng là lĩnh vực được Nhà nước chú trọng đầu tư xây dựng hành lang
pháp lý, tạo điều kiện cho sự hoạt động an toàn, lành mạnh của hệ thống này. Tuy
15

15


nhiên, trong quá trình xây dựng, không thể tránh khỏi sự bất cập, thiếu công bằng ở
một số đạo luật, điều này cũng góp phần gây ra rủi ro cho các doanh nghiệp cũng
như ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Ví dụ như các chính sách liên quan đến
giao dịch đảm bảo và các quy định trong xử lý tài sản đảm bảo của ngân hàng
thường vấp phải những vấn đề khó khăn do quyền sở hữu không rõ ràng hoặc
không đánh giá được giá trị của tài sản đảm bảo. Ngoài ra, chính sách pháp lý thanh
đổi cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các đối tác của ngân hàng, những chính sách
gây bất lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh cũng góp phần khiến các doanh nghiệp
này không kịp ứng phó và gây ra tình trạng thiếu vốn trong thanh toán nợ với ngân
hàng.
Môi trường tự nhiên
Các quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của khí hâu, điều kiện tự nhiên như Việt
Nam luôn phải đối mặt với những yếu tố bất khả kháng do thiên tai, lũ lụt,… gây ra.
Các yếu tố này khiến tình hình kinh doanh của các khách hàng vay vốn tại ngân
hàng bị ảnh hưởng đáng kể, gây tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất của họ.
Điều này khiến khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút, gây ra rủi ro tín dụng đối
với ngân hàng.
1.2. PHÂN TÍCH KHÁCH HÀNG TRONG CHO VAY

1.2.1. Nội dung phân tích khách hàng trong cho vay
Khái niệm
Hoạt động cho vay (hay hoạt động tín dụng) là hoạt dộng chiếm tỷ trọng lớn
và có khả năng sinh lời cao nhất đồng thời tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất trong NHTM.
Từ những nguyên nhân làm xuất hiện nảy sinh rủi ro ở phần trước, để quyết định
chấp nhận cho vay hay không, nhà ngân hàng cần phải nhằm và ước lượng rủi ro
không hoàn trả của khách hàng. Rủi ro này được đánh giá ước lượng bằng một quy
trình phương pháp phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay.
Hiện nay hoạt động cho vay của ngân hàng ngày càng phong phú đa dạng,
được mở rộng cho nhiều đối tượng khách hàng. Bao gồm: doanh nghiệp, các cá
nhân, hộ gia đình sản xuất kinh doanh... Tuy nhiên nguồn khách hàng lớn nhất,
thường xuyên nhất và quan trọng nhất của ngân hàng là các doanh nghiệp. Vì vậy,
16

16


có thể nói công tác phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay cũng là phân tích
khách hàng doanh nghiệp vay vốn tại ngân hàng.
Phân tích khách hàng được diễn ra ngay từ lần đầu doanh nghiệp tiếp xúc với
cán bộ tín dụng, và quá trình phân tich được diễn ra liên tục trong toàn bộ quy trình
cho vay.
Phân tích khách hàng trong cho vay, hay phân tích tín dụng là phân tích khả
năng tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn vay , cũng như hoàn trả vốn vay
ngân hàng. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể
dẫn đến rủi ro trong ngân hàng và tiên lượng khả năng kiểm soát của ngân hàng về
các loại rủi ro đó. cũng như dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế những
thiệt hại có thể xảy ra.
Phân tích khách hàng là quá trình thu thập, xử lý thông tin một cách khoa học
nhằm hiểu rõ thêm về khả năng trả nợ của khách hàng và phương án sản xuất kinh

doanh nhằm phục vụ cho việc ra quyết định cho vay.
Muốn cho ra quyết định cho vay ngân hàng cần phải:
-

Thu thập đầy đủ và chính xác thông tin.

-

Phân tích và xử lý thông tin thu thập được.

-

Rút ra kết luận về khả năng hoàn trả nợ (gốc và lãi) của khách hàng.
Nội dung phân tích khách hàng trong hoạt động cho vay.
Trên thực tế có nhiều cách tiếp cận với nội dung của phân tích khách hàng
trong hoạt động cho vay:
* Dựa theo quy trình tín dụng
Phân tích trước khi cho vay:
Đây là bước quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng,
nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao
gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân
quỹ, quyền sở hữu tải sản và các điều kiện kinh tế khác liên quan đến người vay.
Phân tích trong khi cho vay:
Đây là hoạt động giải ngân và kiểm soát khách hàng. Ngân hàng cũng cần
kiểm soát chặt chẽ tình hình của khách hàng thông qua phân tích và theo dõi thường
17

17



xuyên để nắm bắt tình hình sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng vốn, đề phòng và ngăn
chặn các khoản tín dụng xấu.
Phân tích sau khi cho vay:
Đây là hoạt động thu nợ và đưa ra phán quyết tín dụng mới. Ngân hàng sau
khi cấp tín dụng cũng cần tiếp tục theo dõi và đưa ra phân tích, để có phương án
đảm bảo an toàn cho khoản vay và có phương án mới cho khoản vay.

* Dựa theo các nhóm chỉ số phân tích
Các nội dung phân tích về các mặt khác nhau của khách hàng vay, thường
được tập hợp thành từng nhóm, tùy theo từng ngân hàng mà có các nhóm nội dung
phân tích khác nhau. Trong đó thường được sử dụng nhất là hai nhóm sau:
CAMPARI
CAMPARI: Là quy tắc trong phân tích tín dụng. Quy tắc này áp dụng khi tín
dụng ngân hàng đánh giá, phân tích về khoản vay của khách hàng.
-C: Character (Tư cách) ở đây phân tích tư cách khách hàng
Tư cách của người đi vay muốn nói tới thiện chí trả nợ của người vay. Để
ngân hàng chấp nhận cho vay, người đi vay cần phải được xác định là lương thiện
và về mặt tư cách có thể tin tưởng được. Điều này không phải dễ thực hiện nhất là
với khách hàng vay mới tiếp xúc với khách hàng lần đầu.
Tư cách của người đi vay có thể được xác minh, phán đoán qua quá trình thu
thập thông tin, và xử lý thông tin dựa trên kỹ năng và kinh nghiệm của nhân viên
phân tích tín dụng.
-A: Ability (Năng lực người đi vay)
Đối với khách hàng cá nhân thì tiêu thức tư cách và tiêu thức năng lực là
tương đồng vì khi khách hàng có tư cách tốt thì cũng sẽ có khả năng quản lý tốt
hoạt động tài chính của mình.
Đối với khách hàng doanh nghiệp cần phải xem xét kỹ lưỡng kỹ năng điều
hành của chủ doanh nghiệp, các nhà quản trị, các giám đốc. Trong số họ cần tìm
hiểu liệu có ai không đủ kỹ năng và kinh nghiệm trong lĩnh vực của họ hay không?
-M: Margin (lãi suất)

18

18


Lãi suất cho vay có thể là lãi suất cố định hoặc thả nổi. Khách hàng có rủi ro
cao thì lãi suất sẽ cao hơn khách hàng có độ rủi ro thấp hơn.
-P: Purpose (Mục đích vay)
Đây là nguyên tắc cơ bản trong cho vay. Phân tích và xem xét kỹ mục đích
vay vốn giúp ngân hàng đảm bảo an toàn cho khoản vay, và phòng ngừa được rủi ro
có thể xảy ra.

-A: Amount (số tiền vay)
Số tiền cho vay cần được xác định rõ ràng chính xác, phù hợp với khả năng và
mục đích vay vốn của khách hàng.
-R: Repayment (sự hoàn trả hay phân tích về khả năng thanh toán khoản vay)
Khoản vay phải được hoàn trả phải là yêu cầu cơ bản của hoạt động cho vay.
Ngân hàng không thể cấp tín dụng cho khách hàng không có khả năng hoàn trả tiền
vay, ngay cả khi khoản vay có đảm bảo.
Xác định thời gian trả nợ chính xác là vấn đề quan trọng, góp phần làm cho
khách hàng trả nợ đúng như cam kết trong hợp đồng tín dụng.
- I: Insurance (bảo đảm tín dụng)
Bảo đảm tín dụng là phương tiện dự phòng trong trường hợp khách hàng không
trả được nợ. Ngân hàng không được phép cho vay chỉ dựa trên đảm bảo tín dụng.
5C
5C- một trong những nhóm chỉ số quan trọng khi tiến hành thẩm định tín dụng
một hợp đồng vay vốn.
- Cash flow (Năng lực-Luồng tiền dự tính trả nợ)
Yếu tố được coi là quan trọng nhất trong số năm yếu tố. Năng lực đề cập đến
khả năng điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh và hoàn trả khoản vay thành

công của khách hàng.
Ngân hàng muốn biết chính xác khách hàng sẽ trả nợ bằng cách nào.
Đánh giá năng lực được dựa trên việc đánh giá các yếu tố: kinh nghiệm điều
hành, báo cáo tài chính quá khứ, sản phẩm, tình hình hoạt động trên thị trường và
khả năng cạnh tranh.
19

19


Từ đó, ngân hàng dự tính được luồng tiền sẽ được sử dụng để trả nợ, thời gian
trả nợ và xác suất trả nợ thành công của khách hàng.
Việc đánh giá lịch sử các khoản vay và thanh toán các khoản vay, dù là của cá
nhân hay các khoản vay thương mại cũng được coi là chỉ báo cho khả năng chi trả
trong tương lai.
- Capital (Cấu trúc vốn)
Là số vốn khách hàng đầu tư vào doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ yên tâm hơn
nếu khách hàng có vốn chủ sở hữu đủ lớn. Vốn chủ sử hữu có thể được huy động
trong quá trình hoạt động, giúp đảm bảo cho trạng thái khoản vay của ngân hàng.
Ngân hàng cũng nhìn nhận vốn chủ sở hữu như là chỉ báo của mức độ cam kết
cũng như mức rủi ro của khách hàng đối với kinh doanh của mình và sẽ cảm thấy
thoải mái hơn nếu biết khách hàng sẽ mất rất nhiều nếu công việc kinh doanh của
họ không thành công. Sẽ tốt hơn nếu nguồn vốn này được lấy từ chính tài sản của
cổ đông.
- Collateral (Tài sản thế chấp)
Ngân hàng có thể xử lý tài sản thế chấp của khách hàng khi khách hàng bị phá
sản hoặc mất khả năng chi trả nợ. Ngân hàng được đảm bảo quyền ưu tiên xử lý tài
sản thế chấp của khách hàng trước các chủ nợ khác.
Ngân hàng cũng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng các tài sản cá nhân khác
ngoài công ty làm tài sản thế chấp.

Đối với ngân hàng, đây là sự đảm bảo và là nguồn trả nợ thay thế ngoài dòng
tiền trả nợ dự tính. Một số ngân hàng có thể yêu cầu có bảo lãnh cùng với tài sản
đảm bảo. Bảo lãnh là hình thức bên thứ ba ký bảo lãnh cam kết thanh toán nếu
người vay không trả được nợ.
- Character (Thái độ, sự thể hiện của khách hàng)
Là ấn tượng chung khách hàng để lại đối với ngân hàng. Ấn tượng này có thể
là khá chủ quan. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đối với nhiều ngân hàng, thái
độ của khách hàng quyết định liệu một khoản vay nhỏ có được phê duyệt hay
không.
Các vấn đề chủ yếu liên quan đến thái độ đáng ngờ bao gồm: sự kém hợp tác
với ngân hàng, lừa dối, các vụ kiện tụng và thua lỗ. Thời gian, chi phí kiện tụng và
20

20


chi phí cơ hội có thể phát sinh do khoản vay gặp vấn đề có thể lớn hơn nhiều so với
thu nhập dự tính:
Vấn đề này, tuy nhiên, trở nên kém quan trọng hơn đối với các khoản vay cho
công ty lớn được điều hành bởi một nhóm cá nhân.
Ngoài ra, một số yếu tố định tính khác như trình độ học vấn, kinh nghiệm điều
hành kinh doanh, phẩm chất cá nhân của khách hàng cũng được xem xét.
- Conditions (Các điều kiện khác)
Liệu khoản vay sẽ được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động, mua sắm
máy móc hay dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho?
Ngân hàng sẽ đánh giá tình hình kinh tế trong và ngoài nước, phân tích ngành
kinh doanh doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các ngành hoạt động liên quan
có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Chữ C thứ 6: Đôi khi chúng ta có thể xét thêm một chữ C thứ 6 như sau:
- Coverage (Bảo hiểm)

Có thể là khoản bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh hay bảo hiểm cho
những lãnh đạo chủ chốt nếu quyền điều hành được tập trung trong tay một số ít cá
nhân. Trong trường hợp một lãnh đạo chủ chốt chết hay mất năng lực hành vi, bảo
hiểm sẽ đảm bảo ngân hàng sẽ được thanh toán nếu doanh nghiệp không hoàn thành
được nghĩa vụ trả nợ.
Thông thường trong các NHTM nhóm chỉ số CAMPARI thường được sử dụng
trong phân tích đánh giá khách hàng cá nhân, và nhóm chỉ số 5C được áp dụng
trong phân tích khách hàng doanh nghiệp.
* Dựa theo lĩnh vực phân tích
Phân tích tín dụng được chia làm hai lĩnh vực đối với khách hàng: Phân tích
phi tài chính và phân tích tài chính.
Phân tích phi tài chính
Là phân tích các yếu tố ít hoặc không liên quan đến vấn đề tài chính của khách
hàng một cách trực tiếp.
* Năng lực quản trị của doanh nghiệp.
Về doanh nghiệp:
21

21


- Đánh giá về quy mô, cơ cấu tổ chức hoạt động; các ngành nghề kinh doanh
chủ yếu;
- Đánh giá về số lượng, cơ cấu và trình độ chuyên môn, tay nghề của đội ngũ
lao động. Trình độ kỹ năng kinh nghiệm điều hành của đội ngũ quản lý.
- Nhận xét quá trình hình thành phát triển, việc tuân thủ chính sách thuế, lao
động...
- Các sản phẩm chủ yếu trên thị trường, khách hàng truyền thống, kim ngạch
và giá trị xuất khẩu (nếu có) trong thời gian qua.
- Kinh nghiệm điều hành, quản lý dự án; khả năng đàm phán mua máy móc

thiết bị; Khả năng kiểm soát được nguồn cung, giá cả đối với các nhà cung cấp
nguyên liệu chính cho dự án; khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm; khả
năng tuyển dụng và đào tạo lao động....
Về người đại diện doanh nghiệp vay vốn
- Khả năng, kinh nghiệm của người điều hành với lĩnh vực đầu tư.
- Nhận xét trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức, uy tín đối với nhân viên
và khách hàng; kinh nghiệm và năng lực quản lý của người đứng đầu doanh nghiệp
thông qua các lĩnh vực hoạt động mà họ đã trải qua.
* Năng lực quản trị tài chính
Sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất
nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của doanh nghiệp đặc
biệt là trình độ quản trị tài chính. Vì vậy có thể nói quản trị tài chính là chức năng
có tầm quan trọng số một trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết
định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp:
Quản trị tài chính doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
- Tham gia đánh giá, lựa chọn, các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh.
Việc xây dựng và lựa chọn các dự án đầu tư do nhiều bộ phận trong doanh
nghiệp cùng hợp tác thực hiện. Trên góc độ tài chính, điều chủ yếu cần phải xem
xét là hiệu quả chủ yếu của tài chính tức là xem xét, cân nhắc giữa chi phí bỏ ra,
những rủi ro có thể gặp phải và khả năng có thể thu lợi nhuận, khả năng thực hiện
22
22


dự án. Trong việc phân tích lựa chọn, đánh giá các dự án tối ưu, các dự án có mức
sinh lời cao, người quản trị tài chính là người xem xét việc sử dụng vốn đầu tư như
thế nào; trên cơ sở tham gia đánh giá, lựa chọn dự án đầu tư, cần tìm ra định hướng
phát triển doanh nghiệp, khi xem xét việc bỏ vốn thực hiện dự án đầu tư, cần chú ý
tới việc tăng cường tính khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để đảm bảo đạt được

hiệu quả kinh tế trước mắt cũng như lâu dài.
- Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động các nguồn vốn để đáp ứng cho hoạt
động của doanh nghiệp.
Mọi hoạt động của doanh nghiệp đòi hỏi phải có vốn. Bước vào hoạt động
kinh doanh, quản trị tài chính doanh nghiệp cần phải xác định các nhu cầu vốn cấp
thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp ở trong kỳ. Vốn hoạt động gồm có vốn
dài hạn và vốn ngắn hạn, và điều quan trọng là phải tổ chức huy động nguồn vốn
đảm bảo đầy đủ cho các nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp. Việc tổ chức huy
động các nguồn vốn ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động của một doanh
nghiệp. Để đi đến việc quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn
thích hợp doanh nghiệp cần xem xét, cân nhắc trên nhiều mặt như: kết cấu vốn, chi
phí cho việc sử dụng các nguồn vốn, những điểm lợi và bất lợi của các hình thức
huy động vốn.
- Tổ chức sử dụng tốt các số vố hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi,
đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính doanh nghiệp phải tìm ra các biện pháp góp phần huy động
tối đa các số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh, giải phóng các nguồn vốn bị ứ
đọng. Theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thu hồi bán hàng và các khoản thu
khác, quản lý chặt chẽ các khoản chi tiêu phát sinh trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Tìm các biện pháp lập lại sự cân bằng giữa thu và chi bằng tiền để
đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán. Mặt khác, cũng cần xác
định rõ các khoản chi phí trong kinh doanh của doanh nghiệp, các khoản thuế mà
doanh nghiệp phải nộp, xác định các khoản chi phí nào là chi phí cho hoạt động
kinh doanh và những chi phí thuộc về các hoạt động khác. Những chi phí vượt quá

23

23



định mức quy định hay những chi phí thuộc về các ngành kinh phí khác tài trợ,
không được tính là chi phí hoạt động kinh doanh.
- Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của
doanh nghiệp.
Thực hiện việc phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử
dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển
doanh nghiệp và cải thiện đời sống của công nhân viên chức. Lợi nhuận là mục tiêu
của hoạt động kinh doanh là một chỉ tiêu mà doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm
vì nó liên quan đến sự tồn tại, phát triển mở rộng của doanh nghiệp. Không thể nói
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tốt hiệu quả cao trong khi lợi nhuận hoạt động lại
giảm. doanh nghiệp cần có phương pháp tối ưu trong việc phân chia lợi tức doanh
nghiệp. Trong việc xác định tỷ lệ và hình thức các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ đầu
tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi.
- Đảm bảo kiểm tra,kiểm soát thường xuyên đối với tình hình hoạt động của
doanh nghiệp và thực hiện tốt việc phân tích tài chính.
Thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng ngày, tình hình thực hiện các chỉ tiêu
tài chính cho phép thường xuyên kiểm tra, kiểm soát tình hình hoạt động của doanh
nghiệp. Mặt khác, định kỳ cần phải tiến hành phân tích tình hình tài chính doanh
nghiệp. Phân tích tài chính nhằm đánh giá điểm mạnh và những điểm yếu về tình
hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, qua đó có thể giúp cho
lãnh.đạo doanh nghiệp trong việc đánh giá tổng quát tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, những mặt mạnh và những điểm còn hạn chế trong hoạt động kinh doanh
như khả năng thanh toán, tình hình luân chuyển vật tư, tiền vốn, hiệu quả hoạt động
kinh doanh, từ đó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn về sản xuất và tài chính,
xây dựng được một kế hoạch tài chính khoa học, đảm bảo mọi tài sản tiền vốn và
mọi nguồn tài chính của doanh nghiệp được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
- Thực hiện tốt việc kế hoạch hoá tài chính.
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua
việc lập kế hoạch tài chính. Thực hiện tốt việc lập kế hoạch tài chính là công cụ cần
thiết giúp cho doanh nghiệp có thể chủ động đưa ra các giải pháp kịp thời khi có sự

24

24


biến động của thị trường. Quá trình thực hiện kế hoạch tài chính cũng là quá trình ra
quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp.
1.2.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quản trị tài chính doanh nghiệp:
Quản trị tài chính ở những doanh nghiệp khác nhau đều có những điểm khác
nhau. sự khác nhau đó ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: Sự khác biệt về hình thức
pháp lý tổ chức doanh nghiệp, đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và môi trường
kinh doanh của doanh nghiệp.
a. Hình thức pháp lý của tổ chức doanh nghiệp.
Theo tổ chức pháp lý của doanh nghiệp hiện hành, ở nước ta hiện có các loại
hình thức doanh nghiệp chủ yếu sau:
- Doanh nghiệp nhà nước
- Công ty cổ phần.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những đặc điểm riêng về hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp giữa các
doanh nghiệp trên có ảnh hưởng đến quản trị tài chính doanh nghiệp như việc tổ
chức, huy động vốn, sản xuất kinh doanh, việc phân phối lợi nhuận.
b. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành kinh doanh.
Đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của ngành kinh doanh có ảnh hưởng không nhỏ
tới quản trị tài chính doanh nghiệp. Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm về
mặt kinh tế và kỹ thuật khác nhau. Những ảnh hưởng đó thể hiện:
- Ảnh hưởng của tính chất ngành kinh doanh:
Ảnh hưởng này thể hiện trong thành phần và cơ cấu vốn kinh doanh của doanh
nghiệp, ảnh hưởng tới quy mô của vốn sản xuất kinh doanh, cũng như tỷ lệ thích

ứng để hình thành và sử dụng chúng, do đó ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn
(vốn cố định và vốn lưu động) ảnh hưởng tới phương pháp đầu tư, thể thức thanh
toán chi trả.
-Ảnh hưởng của tính thời vụ và chu kỳ sản xuất kinh doanh:
Tính thời vụ và chu kỳ sản xuất có ảnh hưởng trước hết đến nhu cầu vốn sử
dụng và doanh thu tiêu thụ sản phẩm. Những doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ ngắn
25

25


×