Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận môn học Kinh tế đầu tư: Chống khép kín trong đầu tư. Mối quan hệ giữa nguốn vốn trong nước và ngoài nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.6 KB, 23 trang )

Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: KINH TẾ ĐẦU TƯ

Câu 1: Chống khép kín trong đầu tư: Bản chất, thực trạng và một số giải
pháp.
Đầu tư có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, nhất
là đối với các nước đang phát triển như nước ta. Trong bối cảnh nền kinh tế đang trong
quá trình hồi phục sau thời kỳ suy giảm, sức cạnh tranh và quy mô nền kinh tế còn
thấp thì nhiều hoạt động động đầu tư lại được thực hiện một cách kém hiệu quả, gây
thất thoát lãng phí lớn các nguồn lực xã hội. Một trong những nguyên nhân gây ra tình
trạng trên là sự buông lỏng trong công tác quản lý, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập
dẫn đến tình trạng “khép kín” trong hoạt động đầu tư.
Vì vậy, việc làm rõ bản chất, đánh giá sát tình hình, từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hạn chế và đẩy lùi tình trạng khép kín trong đầu tư là một nhiệm vụ hết sức qua
trọng trong công tác quản lý Nhà nước hiện nay. Những vấn đề nêu trên sẽ được làm
rõ qua các nội dung cụ thể như sau:
1. Bản chất “khép kín” trong đầu tư
Để hiểu bản chất về vấn đề khép kín trong đầu tư, ta cần tìm hiểu về khái niệm
về đầu tư: Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động
nhằm thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trong đó, các nguồn lực sử dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự gia tăng về tài sản vật chất, tài sản
tài chính hoặc tài sản trí tuệ và nguồn lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất
cao hơn cho nền kinh tế và cho toàn bộ xã hội.
Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
điều kiện hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những
tài sản vật chất như nhà xưởng, thiết bị… và tài sản trí tuệ như tri thức, kỹ năng… gia
tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.


Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tạo mới hoặc bổ sung, nâng
cấp đối với các tài sản cố định; Đầu tư xây dựng cơ bản là một bộ phận chủ yếu của
đầu tư phát triển trong nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Hiện tượng khép kín trong đầu tư thường xảy ra trong lĩnh vực đầu tư xây dựng
cơ bản và đối với nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước. Sở dĩ có hiện tượng nêu trên
là do trong hoạt động này có liên quan trực tiếp đến các đối tượng tham gia, bao gồm:
người ra quyết định đầu tư, chủ đầu tư, tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, tư vấn
giám sát. Trong thực tế, đã từng xảy ra hiện tượng người ra quyết định đồng thời là
chủ đầu tư và tổ chức tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, các tư vấn giám sát thuộc
cùng một Bộ, tỉnh, thành phố. Như vậy, các bên mà ta tưởng như cần phải tách bạch
Trang 1


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

thì lại cùng chung một nguồn gốc và sẽ rất dễ dàng dẫn đến sự liên kết, móc nối, bao
che cho nhau giữa các bên, do đó rất khó phát hiện sai phạm ở chỗ nào, các cơ quan
chủ quản cũng không dễ dàng trong việc xử lý sai phạm và nếu có xử lý thì cũng
nương nhẹ vì đó là một bộ phận của mình.
Tình trạng khép kín trong đầu tư từ nguồn vốn nhà nước là một trong những rào
cản lớn trong lĩnh vực đầu tư hiện nay. Tình trạng này sẽ tạo rào cản đối với các thành
phần kinh tế khác nhau tham gia vào đầu tư, hạn chế tính minh bạch và công khai
trong hoạt động đầu tư. Từ đó nảy sinh tiêu cực và là nguồn gốc phát sinh thất thoát,
lãng phí trong đầu tư từ nguồn vốn nhà nước.
Tính khép kín trong đầu tư hiện nay thể hiện từ khâu quy hoạch cho đến công
tác chuẩn bị, thẩm định dự án, ban hành các định mức đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thi
công, giám sát thi công.
Vấn đề này không chỉ là rào cản đối với quá trình đầu tư mà còn ảnh hưởng đến

tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng. Bởi vì, sự khép kín trong đầu tư chính là nguồn
gốc của tiêu cực và hậu quả là sự thất thoát, lãng phí vốn đầu tư. Vậy trên thực tế ở
nước ta tình trạng này xảy ra như thế nào?
2. Thực trạng
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình đầu tư đó là các văn
bản quản lý đầu tư xây dựng. Một thực tế ở nước ta đó là hệ thống các văn bản quản lý
đầu tư xây dựng còn nhiều thiếu xót, chưa hoàn thiện. Chính vì vậy, thực tế này cũng
là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng khép kín trong đầu tư do các quy định chưa rõ
ràng. Thực trạng vấn đề khép kín trong đầu tư gắn liền với các quy định trong các văn
bản quản lý xây dựng.
Tình trạng khép kín đầu tư là một vấn đề đã được đưa ra tranh luận khá nhiều.
Năm 2005 là thời điểm mà vấn đề này được đưa ra tranh luận sôi nổi nhất. Có thể thấy
hiện tượng khép kín trong đầu tư ở nước ta trong những năm qua thông qua một số
hiện tượng như:
- Sự khép kín trong hoạt động của các chủ thể thuộc cùng một cơ quan chủ quản:
Có thể thấy hiện tượng này thông qua ví dụ cụ thể như: Dự án xây dựng Sân vận động
Mỹ Đình, đây là một kinh nghiệm sai phạm nghiêm trọng mà sai phạm đó là do tư vấn
thiết kế, tư vấn giám sát và các đơn vị thi công gần như cùng một gốc. Hay nhiều công
trình của Bộ Giao thông vận tải hiện tại gần như khép kín hoàn toàn từ khâu khảo sát,
thiết kế cho đến đấu thầu, thi công, giám sát. Chủ đầu tư cũng là Bộ GTVT; Kể cả
chuyện đấu thầu, tuy nói là đấu thầu rộng rãi nhưng có nhà thầu nào “chen” vào được,
tập trung chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT. Nguyên nhân dẫn đến xảy
ra thực trạng này là do hiện tại lực lượng xây dựng giao thông thuộc Bộ Giao thông
vận tải là mạnh nhất, nếu như lực lượng này không làm thì các nhà đầu tư nước ngoài
sẽ “chen” chân vào. Đây cũng là một đặc điểm chung của doanh nghiệp Việt Nam và

Trang 2


Bài tiểu luận


Môn học: Kinh tế Đầu tư

việc thay đổi nó theo hướng mở rộng, chấm dứt “khép kín” không phải là chuyện đơn
giản, ngày một ngày hai làm được.
- Sự khép kín trong công tác đấu thầu xây dựng: Đấu thầu là hình thức lựa
chọn nhà thầu để ký kết hợp đồng giao thầu xây dựng cho phù hợp cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh. Thế nhưng, trong
thực tế thời gian qua đấu thầu xây dựng còn bộc lộ không ít những tiêu cực. Hiện
tượng cục bộ của quá trình đầu tư cũng xảy ra trong phổ biến trong khâu đấu thầu.
Hiện tượng chia nhỏ các gói thầu để tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu, tạo
điều kiện cho các nhà thầu liên kết, móc ngoặc dưới dạng “quân xanh, quân đỏ”. Theo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ trọng các hình thức đấu thầu theo kiểu tổ chức đấu thầu hạn
chế hoặc chỉ định thầu về số lượng gói thầu có khi lên tới 70%, mặc dù các gói thầu
này thường có giá trị nhỏ. Nhiều công trình dùng chỉ định thầu, hoặc đấu thầu một
cách hình thức. Điều này đã vi phạm các quy định hiện hành. Hạ giá thành không có
căn cứ để trúng thầu hoặc trúng thầu với giá rất thấp nhưng vẫn làm được. Hiện tượng
thông đồng, cấu kết với nhau, phổ biến việc thông đồng giữa nhà thầu với chủ đầu tư,
thông đồng giữa các nhà thầu với nhau. Nguyên nhân, lý do ở đây là quy chế đấu thầu
thiếu chặt chẽ, không công khai minh bạch đã dẫn đến việc một nhà thầu trúng thầu
nhưng sau đó chia phần cho các nhà thầu còn lại. Hay giành giật gói thầu bằng giá cực
kỳ thấp, bằng 28,9% giá gói thầu (gói 2B hầm đèo Hải Vân), hoặc chênh lệch lên tới
400 tỷ đồng (gói thầu xây dựng cảng Cái Lân... Dự án thủy điện Sê San 4 (giap ranh 2
tỉnh Gia Lai, Kon Tum) là một ví dụ. Ngày 26/10/2004 ông Nguyễn Mạnh Long –
Trưởng ban QLDA thủy điện 4 (BQLDA TĐ 4) thuộc Tổng công ty Điện lực Việt
Nam (EVN) ra Quyết định 1364 phê duyệt các hạng mục chuẩn bị đầu tư, trong đó có
tỉnh lộ 664 theo hình thức chỉ định thầu. Ngay sau khi có được hợp đồng chính thức từ
Ban quản lý dự án trọng điểm 4 nhà thầu chính là Chi nhánh Tây Nguyên – Tổng công
ty xây dựng công trình giao thông 1 đã ký hợp đồng “bán” lại toàn bộ công trình cho 8
đơn vị khác như Công ty cổ phần xây dựng công trình giao thông Gia Lai, Công ty

quản lý và sửa chữa cầu đường Giai Lai, Công ty TNHH Trung Kiên… để hưởng
chênh lệch 5% từ tổng dự toán công trình. Chỉ tính riêng phần chênh lệch 5% này, Chi
nhánh Tây Nguyên của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 thông qua vài
chữ ký đã “bỏ túi” gần 2,5 tỷ đồng.
- Sự khép kín thể hiện trong hoạt động giám sát đầu tư như: Giám sát hoạt động
sau đấu thầu, giám sát thi công, đây là các công việc hết sức quan trọng bởi chất lượng
công trình phụ thuộc rất nhiều vào quá trình giám sát thi công. Công việc này thường
do tư vấn độc lập, có kinh nghiệm năng lực và uy tín đảm nhiệm. Nhưng trên thực tế,
các nhà thầu tư vấn thực hiện công tác giám sát thi công chưa đáp ứng được các yêu
cầu, thậm trí thông đồng với nhà thầu để “rút ruột” công trình hoặc thay đổi chất lượng
vật tư sử dụng… làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng công trình. Ngoài ra, còn
có tình trạng các nhà thầu trúng thầu rồi nhượng lại cho nhà thầu khác để hưởng chênh
lệch dưới dạng bán thầu.
Trang 3


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

Xuất phát từ thực tế những năm qua, trong hoạt động đầu tư nói chung và đầu
tư xây dựng cơ bản nói riêng, tình trạng khép kín là nguyên nhân phát sinh nhiều tiêu
cực. “Khép kín” trước hết là quan hệ giữa chủ đầu tư, tư vấn, thẩm định, xây dựng và
nghiệm thu. Do đó, cần có quy định chặt chẽ để tiến tới xóa bỏ tình trạng này. Tuy
nhiên, đây là vấn đề tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành nằm trong chương trình tổng
thể cải cách hành chính của Chính phủ gắn liền với quá trình cải cách hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước nên việc thực hiện cần có thời gian quá độ. Lộ trình xóa bỏ tình
trạng khép kín trong đầu tư được bắt đầu trong năm 2005, tiến hành đợt tổng rà soát
các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, dự án nào nằm ngoài quy hoạch, không có trong kế
hoạch vốn và thấy rõ không hiệu quả, kiên quyết đình chỉ. Trong quý I năm 2005, Bộ

Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ quy chế quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước.
Sự ra đời của Nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý đầu tư xây dựng công trình, Luật
Đầu tư và Luật Đấu thầu năm 2005 là một bước đột phá tạo ra cơ chế pháp lý để chống
“khép kín” trong đầu tư, quá trình đầu tư xây dựng cơ bản trở nên minh bạch, rõ ràng
hơn.
3. Một số giải pháp
Những năm vừa qua, tình trạng khép kín trong hoạt động đầu tư phát triển nói
chung, đầu tư xây dựng cơ bản nói riêng chính là nguyên nhân của nhiều việc tiêu cực.
Quy trình đầu tư được khép kín từ chủ đầu tư, đơn vị tư vấn, thẩm định, xây dựng rồi
nghiệm thu. Để giải quyết triệt để vấn đề, cần phải tách bạch chức năng quản lý nhà
nước của các Bộ, ngành, địa phương và chức năng tổ chức hoạt động, sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp, nhà thầu.
Xác lập một lộ trình cho việc loại bỏ tình trạng khép kín trong đầu tư. Đầu tiên
sẽ là tổng rà soát các dự án đầu tư xây dựng cơ bản xem dự án nào sai, xử lý như thế
nào. Tiếp đến sẽ là quy định các tổ chức tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát trong dự án
không được ở cùng một Bộ chủ quản với đơn vị thi công. Phạm vi tập trung sẽ là các
lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, xây dựng, điện lực. Đến lúc nào các Bộ quản lý nhà
nước hoàn toàn không còn tham gia quản lý kinh doanh, không còn tình trạng “vừa đá
bóng, vừa thổi còi” thì lúc đó mới có thể xoá bỏ hoàn toàn tình trạng khép kín.

vậy, để khắc phục tình trạng khép kín trong đầu tư cấn tập trung thực hiện tốt một số
giải pháp trọng tâm như sau:
Trước hết, cần tổ chức nghiên cứu, bổ sung các cơ chế, chính sách theo hướng
loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh
doanh trong xây dựng ở từng Bộ, từng tỉnh, thành phố ở tất cả các khâu. Đây được coi
là giải pháp đột phá trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, theo đó cần thực hiện theo
hướng sau:
- Người quyết định đầu tư không kiêm nhiệm chủ đầu tư: Điểm đáng nhấn mạnh
nhất là tính khép kín từ khâu quy hoạch chuẩn bị dự án, thẩm định dự án, ban hành các
định mức trong đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thi công, đấu thầu, tư vấn, giám sát thi công

Trang 4


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

trong nội bộ một bộ, một ngành, gây nên hậu quả xấu trong đầu tư, dễ dẫn đến các vụ
việc tiêu cực. Để thực hiện giải pháp đột phá này, cần thực hiện tốt Luật đấu thầu.
Trong đó, cần đẩy mạnh các hoạt động như: đấu thầu chọn tư vấn quản lý dự án; xây
dựng và ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án kèm theo
chức năng và trách nhiệm cụ thể cho từng chức danh công việc; tăng cường sử dụng
các tổ chức tư vấn giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án, đặc biệt đối với
các dự án lớn.
- Các tổ chức tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, các tư vấn giám sát không
thuộc cùng một bộ, tỉnh, thành phố. Từng bước hình thành tổ chức tư vấn độc lập. Xây
dựng lộ trình xoá bỏ tình trạng khép kín hiện nay.
Thứ hai, bên canh việc phân cấp trong quản lý đầu tư và xây dựng, tiếp tục bổ
sung các chế tài về quản lý nhà nước đủ mạnh để tăng cường trách nhiệm của các chủ
thể tham gia hoạt động đầu tư xây dựng, cụ thể một số vấn đề quan tâm sau:
- Đối với người ra quyết định đầu tư: Song song với việc đẩy mạnh phân cấp,
giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị, Bộ, ngành, địa phương, trong
cơ chế quản lý đầu tư cần bổ sung các chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của
người ra quyết định đầu tư. Người quyết định đầu tư sẽ phải bị phạt hành chính, cách
chức hoặc miễn nhiệm khi quyết định những dự án đầu tư sai, gây lãng phí tiền bạc
của Nhà nước, không để tình trạng người quyết định đầu tư sai nhưng vẫn đứng ngoài
cuộc.
- Đối với chủ đầu tư: Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả,
chất lượng và tiến độ xây dựng của dự án. Giám đốc điều hành dự án cần lựa chọn là
người có đủ điều kiện năng lực, phù hợp với từng loại và cấp công trình theo quy định.

Nếu chủ đầu tư không đủ điều kiện năng lực, thì phải thuê các tổ chức tư vấn quản lý
dự án theo quy định của Luật Xây dựng.
Thứ ba, cần thực hiện nghiêm túc các quy định hành nghề và bổ sung các tiêu
chí đối với các tổ chức, các nhân khi tham gia thực hiện hoạt động đầu tư, cụ thể:
- Đối với nhà thầu: Bổ sung cơ chế quản lý chặt chẽ và quy định về năng lực
hành nghề của nhà thầu, quy định các loại hình và quy mô công trình các nhà thầu
được phép tham gia phù hợp với trình độ và năng lực của nhà thầu. Cần chấm dứt
ngay tình trạng nhà thầu nhận thầu bằng mọi giá và giao thầu lại cho các nhà thầu
không đủ điều kiện năng lực thi công, xây dựng công trình.
Trường hợp phát hiện có hiện tượng thông đồng, móc ngoặc giữa chủ đầu tư
với tổ chức tư vấn hoặc nhà thầu xây dựng, tùy theo mức độ sai phạm có cơ chế đủ
mạnh như phạt tiền, thi hành kỷ luật hành chính, phạt không cho tham gia hoạt động
xây dựng.
- Đối với tổ chức tư vấn thiết kế và tư vấn giám sát thi công: Tổ chức tư vấn
thiết kế kỹ thuật phải có đủ năng lực chuyên môn và có đủ tư cách pháp nhân, chịu
Trang 5


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

trách nhiệm trước chủ đầu tư và trước pháp luật về thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán
công trình, dự án phù hợp với các quy định hiện hành.
Thứ tư, nâng cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân thực hiện việc giám sát
thi công theo đúng thiết kế kỹ thuật, đúng quy trình, quy phạm và tiêu chuẩn kỹ thuật,
chủng loại và chất lượng vật tư...
Từng bước chuyển dần các tổ chức này sang hoạt động độc lập, các công trình,
dự án do các đơn vị trong Bộ, địa phương làm chủ đầu tư và tổ chức thực hiện thi công
(nhà thầu) thì không sử dụng các tổ chức tư vấn trong Bộ và địa phương.

Ban hành chỉ tiêu năng lực đối với các tổ chức tư vấn thiết kế kỹ thuật và tổ
chức tư vấn giám sát thi công.
Thứ năm, thường xuyên và công khai báo cáo về quá trình thực hiện đầu tư:
Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước cho rằng, lãng phí ở khâu quy hoạch, quyết
định đầu tư chiếm 60-70% tổng số lãng phí, thất thoát. Do đó, cần lập và quản lý quy
hoạch tốt để làm căn cứ cho việc nâng cao chất lượng công tác xây dựng và quản lý
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch vùng lãnh thổ địa phương, quy hoạch
ngành, lĩnh vực và quy hoạch các sản phẩm, dịch vụ quan trọng.
Để khắc phục các sai sót chủ quan dẫn đến lãng phí, thất thoát vốn đầu tư cần
nhanh chóng hình thành quy trình chặt chẽ và công khai về xây dựng, phê duyệt và
quản lý các quy hoạch, dự án đầu tư, phân bổ kế hoạch đầu tư, quản lý nguồn vốn
trong các ngành, các cấp từ trung ương đến các bộ ngành, các địa phương, các ban
quản lý dự án; tăng cường tính công khai dân chủ với sự giám sát của cộng đồng.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên và công khai báo cáo về quá trình thực hiện đầu
tư trong tất cả các giai đoạn, ở tất cả các ngành, các cấp để nhân dân, cơ quan dân cử,
các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội có điều kiện giám sát, kiểm tra chéo, để
xử lý kịp thời và đúng mức các sai phạm và biểu dương thành tích các gương tốt trong
việc thực hiện nhiệm vụ đầu tư ở các ngành, các cấp.
Thứ sáu, tăng cường hoạt động quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư, cụ thể:
- Chính phủ xây dựng chương trình đầu tư dài hạn (5 năm) dựa vào cân đối tổng
hợp về nguồn vốn huy động trong kỳ kế hoạch. Chương trình đầu tư đó được cụ thể
hoá từng năm; đặc biệt là nguồn vốn nhà nước, để xác định mục tiêu đầu tư; tránh tình
trạng mục tiêu thì nhiều trong khi khả năng nguồn vốn hạn chế, làm mất cân đối ngay
từ đầu khâu quy hoạch. Các Bộ, ngành và chủ tịch tỉnh phải chịu trách nhiệm về quy
hoạch, về chủ trương đầu tư; phân cấp cho các cơ sở trong bộ, trong ngành, trong tỉnh
thành phố quản lý, sử dụng vốn đầu tư.
- Cải cách thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư xây dựng: Đi đôi với việc
phân cấp, dần dần từng bước tách chức năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản
lý nhà nước của Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,


Trang 6


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

nhằm xoá bỏ tình trạng khép kín trong các khâu từ lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức
đấu thầu, thi công… trong cùng một Bộ, ngành và địa phương.
Để thống nhất quản lý nhà nước về lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng cần
sửa đổi, bổ sung những tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng đã lạc hậu không còn phù
hợp; sớm nghiên cứu ban hành hệ thống chỉ tiêu, quy chuẩn phù hợp với tiến bộ khoa
học, kỹ thuật và thông lệ quốc tế.
Hoàn thiện, bổ sung hệ thống chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, hệ thống tiêu chuẩn, quy
phạm và các chỉ tiêu định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất vốn đầu tư…
phục vụ công tác quản lý đầu tư xây dựng phù hợp thực tế và thông lệ quốc tế.
- Vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển phải được các cơ quan
dân cử bàn, quyết định, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội và thực hiện các chương trình mục tiêu, đặc biệt là các chương trình hỗ trợ cho
sự phát triển các vùng có nhiều khó khăn.
Các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh rà soát, xây dựng chương trình đầu tư
sử dụng vốn Nhà nước.
- Ban hành quy chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án đầu tư bằng vốn nhà
nước. Quy chế đảm bảo cho các cơ quan dân cử và nhân dân giám sát các công trình
đầu tư của nhà nước một cách thiết thực, có hiệu quả đối với các dự án đầu tư bằng
vốn nhà nước.
- Tăng cường năng lực các cơ quan làm nhiệm vụ thanh tra, điều tra và xử lý
nghiêm minh những trường hợp sai phạm.

Trang 7



Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

Câu 2: Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn: Trong nước và nước ngoài.
1. Khái niệm về nguồn vốn đầu tư và phân loại nguồn vốn:
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn
cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
Xét về bản chất , nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích
lũy của nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội .
Nguồn vốn đầu tư có thể được phân chia theo nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó
nếu xem xét khái niệm này ở góc độ vĩ mô thì nguồn vốn đầu tư gồm có vốn đầu tư
trong nước và vốn đâu tư từ nước ngoài, cụ thể như sau:
1.1. Nguồn vốn trong nước :
Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn hình thành từ phần tích lũy nội bộ của nền
kinh tế. Bao gồm nguồn vốn nhà nước , nguồn vốn của khu vực tư nhân, và thị trường
vốn .
1.1.1 Nguồn vốn nhà nước :
Nguồn vốn nhà nước là nguồn vốn thuộc sở hữu của khu vực nhà nước, cụ thể là
các nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng đầu tư phát triển ,và vốn đầu
tư từ các doanh nghiệp nhà nước.
• Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước:
+ Khái niệm:
Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư, giữ vai trò quan
trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.Nó thường dược sử
dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các dự
án của đầu tư vào lĩnh vực cần tham gia của nhà nước.
+ Đặc điểm:

Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, quy mô tổng thu ngân sách nhà nước
không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế ,
phí , bán tài nguyên , bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước…).Cùng với đó
thì mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng tăng lên đáng kể.Tuy
nhiên, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đang có xu hướng tăng dần về giá trị tuyệt
đối nhưng giảm dần về tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội .
• Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước:
+ khái niệm:
Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể bao cấp vốn trực
tiếp của nhà nước.Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ

Trang 8


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

chuyển từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các
dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó nguồn vốn này còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tê vĩ
mô. Thông qua nguồn vốn này nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế
xã hội của ngành , vùng , lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình .góp phần làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hóa.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước:
Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại
tại doanh nghiệp nhà nước.Theo bộ kế hoạch đầu tư, thông thường nguồn vốn của
doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm 14 – 15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Chủ yếu
là đầu tư chièu sâu , mở rộng sản xuất , đổi mới thiệt bị , hiện đại hoá dây chuyền công
nghệ của doanh nghiệp.

1.1.2. Nguồn vốn của dân cư và tư nhân:
Khái niệm:
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư , phần tích
lũy của các doanh nghiệp dân doanh , các hợp tác xã .
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
- Vốn sở hữu và tiền tiết kiệm là các khoản thu nhập của doanh nghiệp sau khi trả
thuế và cổ tức.
- Vốn đi vay
- Tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Điều này làm giảm sự
kiểm soát của các cổ đông khác và giảm bớt thu nhập cổ phiếu của họ. Bản chất của
hình thức này là bán một phần doanh nghiệp.
Nguồn vốn đầu tư từ các hộ gia đình:
- Vốn đầu tư của hộ gia đình chính là phần thu nhập của hộ gia đình không bị
tiêu dùng và được tiết kiệm cho đầu tư.
- Tiền tích lũy từ hoạt động kinh doanh mà không phải công ty.
- Chính sách dộng viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các
khoản đóng góp của xã hội .
1.1.3. Thị trường vốn:
+Khái niệm
Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm để thu
gom mọi nguồn vốn tiết kiệm từ hộ dân , thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi từ doanh
nghiệp, các tổ chức tài chính hoặc chính phủ để tạo thành nguồn vốn khổng lồ cho nền
kinh tế.
Trang 9


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư


Đây được coi là một lợi thế mà không phương thức huy động vốn nào có thể làm
được.Thị trường vốn thu hút vốn để bổ xung nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ
đầu tư.
- Đặc điểm:
+ là van điều tiết hữu hiệu các nguồn vốn , phương thức huy động vốn phong
phú,rộng rãi, hình thức huy động linh hoạt, đa dạng.
+ đáp ứng nhanh chóng nhu cầu vốn, đảm bảo hiệu quả và thời gian lựa chọn.
+ là một công cụ thị trường của chính phủ, góp phần kiềm chế lạm phát trong
nền kinh tế, và là thị trường trao đổi của cổ phần các công ty nhà nước, giúp đẩy
nhanh tiến trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước.
+ Đối với việc huy động vốn cho các doanh nghiệp cụ thể thì kênh huy động vốn
qua thị trường chứng khoán (TTCK)” rẻ “ hơn so với việc phải vay ngân hàng. Ưu
điểm là thủ tục đơn giản hơn đi vay, các doanh nghiệp lại không cần có tài sản thế
chấp, không phải trả lãi vay thay…Và việc phát hành CP đã trở thành nguồn vốn góp
lâu dài, DN có thể tái đầu tư phát triển. Điều này không chỉ có lợi cho mục tiêu đầu tư
của DN mà còn có lợi cho cá nhân,cổ đông.
1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài:
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cá nhân, các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá
trình đầu tư phát triển của nước sở tại .
1.2.1 Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA):
• Khái niệm: ODA là nguồn vốn từ các quốc gia , hoặc tổ chức phi chính phủ ,
hoặc từ các định chế tài chính quốc tế hỗ trợ cho các nước chậm và đang phát triển
nhằm giúp các nước này phát triển kinh tế xã hội của nước mình. Trong đó tính chất
ưu đãi và không hoàn lại phỉa chiếm ít nhất 25% tổng nguồn vốn hỗ trợ. Các khoản
viện trợ quân sự không nằm trong ODA , nhưng các hỗ trợ về kỹ thuật là thuộc về
ODA.
• Vai trò:
- Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải
quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã họi của nước nhận đầu tư.

- Các khoản vay ưu đãi có thời gian sử dụng dài, lãi suất thấp , khối lượng vốn
lớn nên thường được sử dụng đầu tư vào các công trình có nhiều vốn, thời gian dài
như các công trình thuộc về phúc lợi công cộng .
- Nước nhận đầu tư được chủ động bố trí cơ cấu đầu tư và sử dụng vốn góp phần
quan trọng hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
• Đặc điểm:
Trang 10


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

- Nhà đầu tư không trực tiếp kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Thường đi kèm với các điều kiện ưu đãi gắn với chính trị (vốn nhà nước).
- ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất kỳ nguồn vốn nào khác
yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác định dựa vào yếu tố lãi suất,
thời hạn cho vay , thời gian ân hạn, só làn tài trả nợ trong năm và tỷ suất
r a
1 (1 + d ) aG − 1 (1 + d ) aM
GE=100% [1 – d ][1 ]
d (aM − aG )

Trong đó:
r :tỷ lệ lãi suất hàng năm
a: số lần trả nợ trong năm
d: tỷ lệ chiết khấu
G: thời gian ân hạn
M: thời hạn cho vay
Khi xem xét góc độ nguồn vốn đầu tư , ODA là một trong nghững nguồn vốn

nước ngoài .Tuy nhiên , trong quản lý và sử dụng nguồn vốn này một phần vốn ODA
có thể đưa vào ngân sách đáp ứng mục tiêu chi đầu tư phát triển của nhà nước, một
phần có thể đưa vào các chương trình tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước và một
phần có thể vận hành theo dự án độc lập.
1.2.2. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại:
• Khái niệm:
Vốn tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để
đảm bảo các khoản chi của ngân sách nhà nước.
• Vai trò:
- Vốn tín dụng góp phần đáng kể trong việc giảm sự bao cấp vốn trực tiếp của
nhà nước.
- Đảm bảo cho các khoản chi của ngân sách nhà nước.
• Đặc điểm:
- Không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội.
- Thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe , thời gian trả
nợ nghiêm ngặt, lãi suất cao.
1.2.3. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI):
• Khái niệm:
Trang 11


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư bỏ vốn để
xây dựng, hoặc mua phần lớn , thậm chí toàn bộ cơ sở kinh doanh ở nước ngoài để trở
thành chủ sở hữu toàn bộ hay từng phần cở đó và trực tiếp quản lý , điều hành và chịu
trách nhiệm về hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư
Thực chất, đầu tư trực tiếp là một loại hình di chuyển tư bản giữa các quốc gia,

trong đó người chủ sở hữu đồng thời là ngươig trực tiếp quản lý và điều hành hoạt
động sản xuất – kinh doanh. Đây là loại hình đầu tư được thực hiện chủ yếy bởi các
chủ tư nhân.
• Vai trò:
- Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông Á cho thấy rằng đầu tư
trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của các quốc gia
này.
- Giúp cho các nước nhận đầu tư có được nguồn vốn từ bên ngoài để
năng tổ chức sản xuất kinh doanh.

tăng khả

- Tạo điều kiện khia thác tốt lợi thế quốc gia.
- Tạo điều kiện để tiếp nhận kỹ thuật và công nghệ tiên tiến , hiện đại và kinh
nghiệm quản lý kinh doanh của các công ty nước ngoài.
- Giúp bổ sung nguồn thu cho ngân sách quốc gia thông qua nghĩa vụ thuế của
các đơn vị đầu tư nước ngoài.
- Góp phần nâng cao năng lực canh tranh quốc gia.
• Đặc điểm:
- Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định đạt mức tối thiểu
theo luật đầu tư của từng quốc gia quy định. Chẳng hạn việt nam quy định chủ đầu tư
nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án .
- Các chủ đầu tư trực tiếp quản lý , điều hành và chịu trách nhiệm về các hoạt
động của dự án phù hợp với số vốn mà họ đã bỏ ra.Việc phân chia kết quả kinh doanh
cho các bên tham gia dựa trên tỷ lệ góp vốn.
- Đầu tư trực tiếp thường được thực hiện thông qua các phương thức: xây dựng
mới , mua lại toàn bộ hay từng phần của một cơ sở đang hoạt động , mua cổ phiếu của
các công ty cổ phần để thao túng hay sát nhập.
- Nếu trước đây các nhà đầu tư nướ ngoài hướng vào lĩnh vực truyền thống như
khai thác tài nguyên thiên nhiên , phát triển nông nghiệp , một số ngành chế biến nông

sản…Nghĩa là, chủ yếu hướng vào các ngành sử dụng nhiều lao động nhằm khia thác
nhiều lao động rẻ và nguồn nguyên liệu , thì ngày nay họ hướng vào lĩnh vực dịch vụ
như thương mại , tài chính…, vào các ngành có hàm lượng vốn kỹ thuật cao như điện
tử , tin học , chế tạo ô tô , viễn thông …, Khi đầu tư vào các nước chậm phát triển , các
chủ đầu tư thường hướng vào các dự án vừa và nhỏ trong các lĩnh vực nhanh thu hồi
Trang 12


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

vốn, ít rủi ro , các lĩnh vực và địa bàn mà nước tiếp nhận dành nhiều ưu đãi, các lĩnh
vực có thị trường tiêu thụ lớn, các lĩnh vực sử dụng nhiều lao động và khai thác tài
nguyên chiến lược như than, sắt , dầu mỏ…; Đông Á và Đông Nam Á trở thành khu
vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài vì đây là vùng có nên kinh tế phát triển năng động nhất
thế giới trong những năm gần đây.
1.2.4 Thị trường vốn quốc tế:
Trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ hiện nay của nền kinh tế toàn cầu, khoảng
cách giữa thị trường các nước dường như đã được thu hẹp. Thị trường vốn quốc tế đã
trở nên gần gũi hơn cho các nhà đầu tư các nước.
Trong các năm qua, hầu hết nguồn vốn huy động được đều có sự gia tăng về
khối lượng nhưng tập trung và gia tăng nhiều nhất vẫn là ở các thị trường chứng khoán
các nước. Tuy nhiên việc huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ hay
trái phiếu công ty của Việt nam trên thị trường này còn phải được xem xét kỹ lưỡng ,
bởi hình thức này còn rất mới mẻ và phức tạp đối với chúng ta.
Cụ thể, hình thức huy động vốn này có những ưu và nhược điểm như sau:
Ưu điểm :
+có thể huy động nguồn vốn lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn
mà không bị rằng buộc về các điều kiện tín dụng.

+ là cơ hội cho Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế.
+ hình thức vay có thể cải biến linh hoạt bằng các phép chuyển đổi trái phiếu
thành cổ phiếu hoặ các ưu đãi mua trong các lần phát hành sau, tạo ra yếu tố khuyến
khích với người cho vay.
Hạn chế :
+ Uy tín của Việt Nam còn thấp, nên huy động theo hình thức này chúng ta sẽ
phải chịu mức lãi suất cao.
+ kinh nghiệm hoạt động trong thị trường này còn rất mới mẻ với Việt Nam.
2. Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài nước
2.1 Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài.
Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập diễn ra mạnh mẽ
trên khắp thế giới, các nhân tố bên ngoài có tác động rất lớn tới sự phát triển theo định
hướng của nền kinh tế nước ta. Đứng trước bối cảnh đó, để có thể thực hiện thắng lợi
sự nghiệp CNH- HDH đất nước, chúng ta phải xác định chính xác vai trò của từng
nguồn lực cụ thể, những mặt mạnh và mặt yếu của chúng để có thể khai thác và vận
dụng hiệu quả nhất. Tiếp cận con đường phát triển nền kinh tế qua đóng góp của các
nguồn vốn đầu tư phát triển, là cấu thành quan trọng cho bộ phận tư bản của nền kinh

Trang 13


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

tế, chúng ta phải khẳng định “ vai trò quyết định của nguồn vốn trong nước và tính
quan trọng không thể thiếu của nguồn vốn nước ngoài ‘’. Lý do là tại sao? ‘’
- Trước hết, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định : Sự
phát triển của bất cứ sự vật nào đểu bắt nguồn từ sự chuyển biến, giải quyết các mối
quan hệ diễn ra ngay trong bản thân sự vật đó. Điều này giữ vai trò quyết định tới tồn

tại và phát triển của sự vật.” Quan điểm này đồng nghĩa với tư duy “ tự thân vận động
“. Chúng ta muốn phát triển nền kinh tế thì ta phải tự mình phát triển bằng cách khai
thác các nguồn lực nội tại bằng chính công cụ do chúng ta làm chủ. Nghĩa rằng, vai
trò quyết định cho quá trình phát triển đất nước phải đặt lên các nhân tố từ trong nước.
Hơn nữa, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường dưới chế độ nhà nước xã hội chủ
nghĩa – là một chế độ mà rất ít các quốc gia trên thế giới hiện nay xây dựng trong sự
phát triển của các nước theo chế độ tư bản- Do đó, để có thể phát triển theo đúng định
hướng, cách an toàn và hữu hiệu đầu tiên là phải sử dụng phát huy nguồn vốn trong
nước trước. Nghĩa là, nguồn vốn trong nước phải giữ vai trò quyết định.
- Thế nhưng, đứng trước bối cảnh của thời đại, là một nước đi sau còn yếu kém
về rất nhiều lĩnh vực, chúng ta cũng phải biết tranh thủ thời cơ, những thuận lợi mà
các nước đi trước đã mang lại như kinh nghiệm xây dựng, học hỏi bước đường phát
triển, tận dụng thành quả lao động công nghệ thế giới để rút ngắn thời gian theo kịp
các quốc gia khác . Bởi đất nước ta cũng là một phần của thế giới, vì thế đứng trên
quan điểm toàn diện, chúng ta phải coi trọng những tác động từ thế giới bên ngoài.
Tức là , sự đóng góp của nguồn vốn ngoài nước phải được xác định vai trò quan trọng
không thể thiếu cho quá trình phát triển hiện nay của đất nước ta.
Để có thể nhìn nhận cụ thể hơn tính quyết định của nguồn vốn trong nước và vai
trò quan trọng của nguồn vốn nước ngoài, chúng ta có thể phân tích qua những ưu và
nhược điểm của từng nguồn vốn cụ thể như sau.
* Nguồn vốn trong nước – vai trò quyết định
- Ưu điểm :
* Mang tính độc lập, tự chủ trong khi tiến hành đầu tư vào nền kinh tế.
Với các nguồn vốn thuộc sở hữu của Nhà nước, các doanh nghiệp và cả các cá
nhân Việt nam, chúng ta hoàn toàn tự do đinh đoạt việc sử dụng ,đầu tư chúng vào
đâu, như thế nào,đầu tư ra sao… để có thể đạt được sự tăng trưởng nền kinh tế đất
nước theo định hướng phát triển đã đề ra, không như các nguồn vốn từ ngoài nước có
thể sẽ tiềm ẩn những âm mưu thao túng về kinh tế và chính trị.
* Hạn chế những rủi ro tín dụng có thể xảy ra trong khi huy động các nguồn vốn
ngoài nước ,đặc biệt là các khoản vay tín dụng, và không làm suy giảm khả năng vay

nợ của nền kinh tế với bên ngoài.
Với các khoản vốn viện trợ hoặc cho vay từ nước ngoài, thường là những số tiền
không phải là nhỏ; và dù đã ưu đãi như nguồn vốn viện trợ ODA, hoặc vẫn chấp nhận
Trang 14


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

giá khoản vay cao(lãi suất cao để đảm bảo tính an toàn trong nghiệp vụ ngân hàng), thì
khi các nguồn vốn này được khai thác không đạt, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng
trả nợ, là nguyên nhân gia tăng các khoản nợ quốc gia. Điều này không chỉ ảnh hưởng
đến các khoản thu trong tương lai, tạo ra một chi phí phải trả nợ hàng năm không thể
tránh khỏi; từ đó làm mất uy tín quốc gia, suy giảm khả năng vay nợ của đất nước, ảnh
hưởng đến tình hình tiếp tục đầu tư và thu hút vốn ngoài nước vào Việt nam.
- Nhược điểm :
* Bị hạn chế về quy mô đầu tư , do nền kinh tế đang phát triển, luôn trong tình
trạng thiếu vốn đầu tư.
Chúng ta mới bắt tay vào xây dựng nền kinh tế đất nước hơn 30 năm, mặc dù đã
đạt được những thành tựu rất đáng tự hào, tuy nhiên so với các nước phát triển hay
các nước NICS thì chúng ta còn phải mất thời gian tính bằng nhiều chục năm mới có
thể bằng họ được.Đặc biệt khả năng tích lũy của nền kinh tế còn ở mức thấp. Trong
khi nhu cầu phát triển lại vô cùng cấp bách và phải bắt tay vào thực hiện ngay.Chính
vì vậy mà nguồn vốn trong nước chưa bao giờ là đủ và luôn bị hạn chế cả về quy mô,
số lượng.
* Việc sử dụng còn thiếu trình độ quản lý ,kinh nghiệm, trách nhiệm, do vậy tính
hiệu quả còn chưa tương xứng với tổng vốn đã chi.
Mục tiêu sử dụng các nguồn vốn trong nước là phục vụ cho quá trình phát triển
nền kinh tế. Chính vì vậy,các nguồn vốn trong nước đều đã được xem xét để phân bổ

hợp lý cho từng ngành trong từng lĩnh vực. Số vốn bỏ ra chưa bao giờ là quá nhỏ,thế
nhưng những thành quả mà nó mang lại cho nền kinh tế dường như chưa tương
xứng.Trong các nguyên nhân cho vấn đề này,phải kể đến trình độ quản lý các nguồn
vốn của cán bộ còn kém. Phần lớn là bị ảnh hưởng bởi tàn dư của chế độ xã hội cũ, sự
lạc hậu trong tư duy, và thiếu kinh nghiệm quản lý trong sản xuất. Đội ngũ hành chính
trong nền kinh tế còn vẫn rất cồng kềnh và hoạt động chưa có hiệu suất cao(trình độ
chuyên môn thấp, tiến độ thi công chậm,nguồn vốn sử dụng nhiều khi không đúng
mục đích. Tư duy quản lý ở nhiều địa phương còn rất lạc hậu, thiếu tinh thần trách
nhiệm với các dự án đầu tư của nhà nước về địa phương. Sử dụng vốn ngân sách đầu
tư dàn trải, không hiệu quả, kèm theo đó là tình trạng ‘’ của công giải quyết việc
riêng’’, tham ô ,tham nhũng làm thất thoát lãngphí hàng năm hàng tỷ đồng của nhà
nước. Chính vì vậy, bài toán với các nguồn vốn trong nước không chỉ dừng lại ở việc
gia tăng về số lượng, mà khó khăn thực sự lại nằm trong khâu là phải làm sao cho nó
phát huy được tính hiệu quả của mình.
* Nguồn vốn nước ngoài - vai trò quan trọng.
Song song với nguồn vốn trong nước, nguồn vốn nước ngoài cũng có những ưu
và nhược điểm,khằng định vai trò quan trọng của mình trong quá trình phát triển nền
kinh tế đất nước.

Trang 15


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

- Uu điểm :
* Khối lượng vốn dồi dào, phong phú, thời gian huy động vốn nhanh chóng, đáp
ứng kịp thời nhu cầu vốn tại nhiều thời điểm.
Quá trình hội nhập thế giới đang diễn ra sôi nổi. Phát triển trở thành mục tiêu

chúng của các quốc gia.Từ nước giàu tới nước đang phát triển và các nước nghèo, thì
cánh cửa của các nhà ĐTNN(gián tiếp và trực tiếp) dần dần mở rộng.Các kênh vốn từ
nước ngoài ngày càng trở nên phong phú,đa dạng. Việc tiếp cận với các nguồn vốn
nước ngoài trở nên dễ dàng hơn. Dồi dào nhất vẫn là các nguồn vốn từ các nước phát
triển như Mỹ, Tây Âu , Nhật Bản , các nước NICS, từ các tổ chức tín dụng lớn như
IMF(Quỹ tiền tệ quốc tế ), WB (Ngân hàng thế giới), ADB(Ngân hàng Châu Á
…..Tuy nhiên, các khoản vay cũng luôn đòi hỏi những điều kiện chặt chẽ, nghiêm ngặt
và cũng đồng thời mang theo những rủi ro tiềm ẩn với bên đi vay.
* Được sử dụng với hiệu suất cao hơn so với vốn trong nước nói chung, có tính
cạnh tranh mạnh mẽ với vốn trong nước (chủ yếu với nguồn vốn FDI, FPI... ).
Một trong những thế mạnh của các nhà đầu tư nước ngoài khi vào nước ta là
vốn lớn, trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, hiện đại. Quá trình quản
lý và sử dụng từng đồng vốn nước ngoài tại Việt Nam trong đầu tư cũng luôn được
cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng và đôi khi còn đòi hỏi cả sự cam kết rất lớn từ phía Việt
Nam. Bên cạnh đó, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài luôn cao hơn so với quá trình sử dụng các nguồn vốn trong nước nhờ quy mô,
công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tài chính, kinh doanh, hợp tác, uy tín cao …
- Nhược điểm :
* Tiềm ẩn những nguy cơ phụ thuộc về kinh tế, thiết lập các mục tiêu chính trị
của các nước bên ngoài , hàm chứa những bất ổn cho nền kinh tế.
Các khoản vốn đầu tư nước ngoài có những tiềm ẩn không tốt tới nền kinh tế của
các nước tiếp nhận đầu tư nếu nó không được sử dụng và quản lý một cách hợp lý và
chặt chẽ.
Đơn cử với nguồn vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp thông qua thị trường chứng
khoán Việt Nam. Nguồn vốn này là rất linh hoạt theo các quyết định của nhà đầu tư
dưới những biến động của thị trường. Các nhà đầu tư có thể bỏ rất nhiều vốn ra để
mua các mã cổ phiếu có giá hoặc đang rớt giá nhằm thao túng thị trường, Thế
nhưng,khi họ nhận thấy hay gặp phải những trở ngại hay biến động về tài chính, họ có
thể rút vốn về bất cứ lúc naò. Nghĩa rằng số vốn đầu tư gián tiếp chỉ luôn là những con
số cộng mang tính chất tạm thời, mà không hề có một sự ràng buộc nào trong cả quá

trình đầu tư. Và nếu số lượng vốn rút ra khỏi thị trường vốn đầu tư là một vài nhà đầu
tư tấm cỡ,thì rất có thể báo trước một xu thế ồ ạt rút vốn về do tâm lý lo ngại những rủi
ro lớn. Việc làm này đã từng xảy ra trong khủng hoảng tài chính 1997, đến nay vẫn là
một bài học rủi ro quý giá cho thị trường tài chính các nước.
Trang 16


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

Với các khoản vốn viện trợ phát triển ODA cũng vậy. Mục tiêu chính trị của các
nguồn vốn này luôn cần phải được cân nhắc.Thời gian cho vay dài, thời hạn gia ân
cũng dài, lãi suất rất nhỏ, đôi khi là không đáng kể là những thuận lợi mà nguồn vốn
ODA đem lại. Thê nhưng, các nước tiếp nhận cũng phải đổi lại cho chính phủ hay tổ
chức viện trợ những ưu đãi nhất định hay một số đặc quyền trong các lĩnh vực khác.
Như với các dự án sử dụng vốn ODA của Nhật Bản, luôn đi kèm theo những yêu cầu
như phải sử dung máy móc , sản phẩm của Nhật, hay đảm bảo sự có mặt của các nhà
thầu Nhật trong dự án…
• Các nguồn vốn ngoài nước (đặc biệt ODA và FDI ) đặt ra nhiều thách thức
cho các nhà quản lý trong việc điều hành chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, tỷ giá…
• Các nguồn vốn ngoài nước vào Việt Nam , một mặt làm gia tăng nguồn dự
trự ngoại tệ quốc gia, đồng thời mang theo đó là những ảnh hưởng không nhỏ tới đồng
Việt Nam, đến cán cân thương mại , từ đó ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ, chính sách
tỷ giá hối đoái trong từng trường hợp cụ thể…Đặc biệt, các nguồn vốn này có mức
biến động cao, và có mức độ tự do lưu thông trên thị trường lớn(đặc biệt khi Việt Nam
gia nhập WTO ) sẽ thực sự đặt ra những khó khăn cho sự quản lý giám sát của nhà
nước với nguồn ngoại tệ trên thị trường.
• Tăng mức vay nợ của nền kinh tế.
Một điểm nữa, các khoản viện trợ cũng như cho vay tín dụng luôn là con dao hai

lưỡi.
Nếu sử dụng không hiệu quả, nguồn vốn mất đi một cách lãng phí, lâm vào tình
trạng không trả được nợ, sẽ làm thâm hụt thêm ngân sách nhà nước, chồng chất thêm
gánh nặng nợ nần cho nguồn vốn trong nước và cho cả thế hệ đầu tư trong tương lai.
Nói tóm lại, vai trò của hai nguồn vốn trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội là cần
thiết và không thể thiếu cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Từ
những ưu nhược điểm mà từng nguồn vốn mang lại, chúng ta phải có sự cân nhắc hợp
lý trong khi huy động và đặc biệt trong khi sử dụng.
2.2 Vai trò tác động qua lại giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài
2.2.1 Vai trò của nguồn vốn nước ngoài tới nguồn vốn trong nước.
1.Vốn nước ngoài đóng vai trò bổ sung cho sự thiếu hụt của tổng nguồn vốn đấu
tư phát triển đất nước qua các dự án trong một số ngành, lĩnh vực giàu triển vọng, qua
các kênh vốn gián tiếp như thị trường chứng khoán…
Quá trình CNH-HDH đất nước luôn đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn.Nguồn vốn
trong nước chưa bao giờ là đủ với nhu cầu này.Chính vì vậy,sự đóng góp của nguồn
vốn ngoài nước là một phép cộng cần thiết và quan trọng cho bài toán vốn cho đầu tư
phát triển trong quá trình hội nhập thế giới hiện nay.

Trang 17


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

2.Vốn nước ngoài là nguồn vốn thay thế cho vốn trong nước trong một số dự án
đầu tư phát triển, đặc biệt là các dự án mang tính xã hội cao.(san sẻ gánh nặng xã hội
cho các nguồn vốn trong nước).
Các nguồn vốn huy động thường được sử dụng trước hết cho mục tiêu lợi nhuận
kinh tế. thế nhưng, vai trò xã hội của nguồn vốn trong nước cũng luôn phải được đảm

bảo thì các nguồn vốn mới đạt được hiệu quả lâu dài. Tỷ trọng các khoản chi cho sự
nghiệp phát triển xã hội là không hề nhỏ trong tổng chi của ngân sách nhà nước. Do
vậy, khoản vốn trong nước cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế sẽ bị thu hẹp lại.Với
sự đóng góp của các nguồn vốn ngoài nước (như ODA, FDI..) thì chính phủ có thể
phân bổ và sử dụng các nguồn vốn một cách hợp lý hơn.
Chẳng hạn từ các ưu đãi mà nguồn vốn ODA,chúng được sử dụng để bổ sung
cho khoản vốn tín dụng cho các doanh nghiệp vay của nhà nước, và một phần dòng
vốn này được sử dụng cho các dự án mang tính chất xã hội cao ở các lĩnh vực như giáo
dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, các dự án cung cấp nước sạch, xây dựng các công trình
đường giao thông ….Chính nhờ có nguồn vốn này mà trách nhiệm xã hội của các
nguồn vốn trong nước được san sẻ. Tính một cách hợp lý, chúng ta sẽ có phần lớn hơn
các khoản vốn từ trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế.
3.Nguồn vốn nước ngoài là cầu nối ngắn nhất, có tính hiệu quả cao trong việc
đổi mới công nghệ sản xuất trong nước ,giúp nâng cao năng lực sản xuất của vốn trong
nước nói chung và hiệu quả sử dụng vốn trong nước nói riêng.
Quá trình CNH- HDH đất nước là quá trình nâng cao năng lực sản xuất của nền
kinh tế thêm quy mô hơn, hiện đại hơn. Công nghệ chính là yếu tố quyết định đến
năng lực sản xuất của đất nước.
Thực trạng trình độ sản xuất công nghiệp ở nước ta hiện nay còn lạc hậu rất
nhiều so với thế giới và khu vực.So với các nước tiên tiến mức lạc hậu là 50- 100 năm.
Vi vậy, nhu cầu đổi mới công nghệ là vô cùng cấp thiết. Đổi mới là quan trọng. hiện
nay phần lớn các hợp đồng chuyển giao công nghệ thực hiện dưới hình thức FDI (tính
tới năm 2005, số hợp đồng loại này là 90%). Công nghệ được chuyển giao dưới hình
thức này là phương thức chuyển giao rẻ nhất, nhanh nhất, và thích hợp với trình độ
phát triển của nền kinh tế.Các hình thức khác như hợp đồng mua bán liencises , hay
hợp tác nghiên cứu R&D thường chi phi rất lớn và thời gian thực hiện dài.
Từ các công nghệ tiên tiến được chuyển giao thường cớ sự đồng bộ, có trình độ
cơ khí hóa trung bình hoặc cao hơn các công nghệ tiên tiến đã có trong nước và thuộc
loại phổ cập ở các nước trong khu vực. Nhờ các công nghệ này, sản phẩm tạo ra
thường có chất lượng tốt(đạt tiêu chuẩn ISO), mẫu mã đẹp đáp ứng nhu cầu của thị

trường trong nước và xuất khẩu ( ở các sản phẩm dệt may, giày dép, ngọc trai, thủy
sản …), nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước với các sản phẩm ngoại
nhập.

Trang 18


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

Như vậy, nhờ có các nguồn vốn ngoài nước giúp chuyển giao công nghệ sản
xuất tiên tiến đã giúp nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế nói chung và hiệu
quả sử dụng các nguồn vốn trong nước nói riêng.
4.Dòng vốn nước ngoài chảy vào Việt Nam giúp tạo dựng một môi trường cạnh
tranh đối với các doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy các doanh nghiệp này muốn tồn
tại phải cải tiến kỹ thuật,nhân công ...phục vụ cho sản xuất, kiếm tìm lợi nhuận, gián
tiếp gia tăng nguồn vốn trong nước.
Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển. Minh chứng rõ nét cho vai trò của cạnh
tranh trong nền kinh tế có thể thấy trong chế độ bao cấp kinh tế giai đoạn trước của
nước ta. Khi các nhân tố cạnh tranh bị thủ tiêu thì nền kinh tế không còn khả năng phát
triển nữa, kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
Chuyển sang giai đoạn mới, khi chính phủ đã thừa nhận sự tồn tại của các loại
hình sở hữu khác nhau trong nền kinh tế- (chúng ta định hướng xây dựng một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa) thì sự cạnh tranh trong nền kinh tế bắt
đầu phát huy.Biểu hiện là sự lớn mạnh không ngừng của các doanh nghiệp kinh doanh
cá thể.Và cùng với đó là sự giảm sút nghiêm trọng với khu vực doanh nghiệp quốc
doanh hoạt động kém hiệu quả, chưa thoát khỏi cơ chế cũ.
Mặt khác, yếu tố cạnh tranh trong nước không bao giờ là đủ trong bối cảnh hội
nhập thế giới như hiện nay và điểm xuất phát của kinh tế nước ta là thấp và muộn hơn

thế giới tới gần thế kỷ. Do vậy, cạnh tranh bên ngoài từ các nguồn vốn ngoài nước sẽ
là động lực thúc đẩy cho cả một nền kinh tế còn non trẻ như Việt Nam.
So với các nhà đầu tư trong nước, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài luôn lợi
thế hơn do có nguồn vốn lớn, công nghê, kinh nghiệm quản lý hiện đại, và nhiều ưu
đãi, khuyến khích mà chính phủ Việt Nam dành cho họ. Vì vậy, sức cạnh tranh của các
doanh nghiệp nước ngoài là rất cao. Để có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài
trên sân nhà , buộc các doanh nghiệp Việt phải tự mình đổi mới mình, mở rộng quy
mô hoạt động, gia tăng sô lượng và chất lượng các nguồn vốn đầu tư (đi vay, liên kết
hợp tác giữa các doanh nghiệp..), đồng thời cải tiến công nghệ, học hỏi các kỹ năng và
kinh nghiệm trong quản lý sản xuất.Như vậy ,xét theo một khía cạnh khác của tác
động cạnh tranh này,chính là vốn ngoài nước tạo ra động lực cạnh tranh làm cho
nguồn vốn trong nước phải được sử dụng hiệu quả hơn, hợp lý hơn.
5.Nguồn vốn nước ngoài còn giúp đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn cao, có năng lực quản lý người Việt Nam., nâng cấp cho nguồn vốn trong nước.
Nối tiếp hiệu ứng cạnh tranh và chuyển giao công nghệ mà các dòng vốn ngoài
nước mang lại, nguồn vốn ngoài nước còn tác động gián tiếp tới nguồn vốn trong nước
thông qua kênh lao động .Cụ thể ,các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, phần lớn ở các
ngành nhằm tận dụng nguồn lao động giá rẻ tại Việt Nam, thì một trong những nhân tố
cạnh tranh của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vẫn là đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn và quản lý tốt. Các doanh nghiệp đã phải mất chi phí và thời gian đáng kể
Trang 19


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

cho việc xây dựng và đào tạo lực lượng này. Thế nhưng, dòng chuyển dịch lao động
trình độ từ khu vực này sang khu vực sử dụng vốn trong nước là không nhỏ. Điều đó
chứng tỏ rằng, nguồn vốn trong nước đang có được những bước hiệu quả hóa gián

tiếp.
6.Nguồn vốn nước ngoài là nguồn ngoại tế lớn, góp phần ổn định giá cả trong
nền kinh tế, giúp cải thiện cán cân thanh toán xuất nhập khẩu, mở rộng cửa cho vốn
trong nước hướng ra thế giới.
Nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam là nguồn cung ngoại tệ đáng kể, đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ của đất nước để phục vụ cho mục tiêu nhập khẩu hàng hóa, máy móc,
đáp ứng nhu cầu đầu tư nước ngoài và trả nợ. Bên cạnh đó, nguồn vốn này cũng có tác
động tới các khoản tiết kiệm ngoại tệ quốc gia,có mặt trong chính sách quản lý tỷ giá
hối đoái trên thị trường tiền tệ , ổn định tỷ giá trong nước khi cần thiết ;từ đó giúp ổn
đinh vĩ mô nền kinh tế. Nền kinh tế có ồn định mới đảm bảo môi trường đầu tư an toàn
và hoạt động có hiệu quả của các nguồn vốn trong và ngoài nước.
Các nguồn vốn ngoài nước vào Việt Nam , một mặt làm gia tăng gián tiếp lượng
ngoại tệ tại các ngân hàng trong nền kinh tế, cụ thể như các nguồn viện trợ bằng ngoại
tệ,chuyển trục tiếp vào ngân sách chính phủ, các nhà đầu tư trực tiếp hay gián tiếp mua
bán chứng khoán cũng phải thực hiện đầu tư qua thao tác chuyển đổi ngoại tệ qua Việt
Nam đồng.
7.Nguồn vốn nước ngoài với các dự án đầu tư phát triển vào Việt Nam giúp gia
tăng tổng sản phẩm xã hội, đồng thời có những đóng góp đáng kể cho nguồn vốn trong
nước từ các khoản thu ngân sách nhà nước, các khoản đầu tư của các doanh nghiệp,
các khoản tiết kiệm tư nhân ...
Những lợi ích kinh tế mà các nguồn vốn ngoài nước đem lại cho nền kinh tế Việt
Nam là không nhỏ và vô cùng đa dạng. Các khoản thuế thu được từ lợi nhuận của các
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang ngày càng gia tăng, giúp mở rộng các nguồn
thu cho ngân sách nhà nước, gián tiếp làm gia tăng các khoản vốn trong nước cho đầu
tư phát triển.
Ngoài ra, mức lương trong doanh nghiệp nước ngoài trả cho lao động luôn cao
hơn so với mức lương chung ở nhiều doanh nghiệp trong nước. Thứ nhất , là do quy
định mức lương tối thiểu của chính phủ trong các doanh nghiệp này,thứ hai là do hiệu
quả thu được và tính chất ngành nghề sản xuất ở phần lớn khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài thường hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu . Mặt khác, vấn đề lao động ở các

doanh nghiệp này cũng được quản lý chặt chẽ hơn.Do vậy ,thu nhập của một bộ phận
lao động trong nền kinh tế được cải thiện.Tỷ lệ tích lũy được gia tăng và gián tiếp gia
tăng nguồn vốn trong nước từ các khoản tiết kiệm cá nhân.
Nhìn từ một khía cạnh khác, các nguồn vốn nước ngoài khi vào Việt nam, là kèm
theo cả một số lượng các nhà đầu tư nước ngoài đi kèm. Họ có thể tới Việt Nam với
nhiều mục đích khác nhau, như hợp tác ,thăm dò thị trường đầu tư, giám sát quá trình
Trang 20


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

đầu tư, du lịch, …Điều này tạo ra nhu cầu tiêu dùng lớn về các ngành như dịch vụ , du
lịch, nhà ở, giải trí,..tạo ra thị trường cho nhiều doanh nghiệp cũng như các hộ gia đình
khai thác, gia tăng nguồn thu nhập trong nền kinh tế,gián tiếp gia tăng nguồn vốn
trong dân.
2.2.2 Vai trò của nguồn vốn trong nước tới nguồn vốn nước ngoài.
1. Nguồn vốn trong nước là căn cứ để xác định cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư
nước ngoài, định hướng cho dòng chảy các nguồn vốn quốc tế.
Vẫn biết nhu cầu vốn cho phát triển là rất lớn. Do vậy việc thu hút, kêu gọi các
nguồn vốn khác là vô cùng quan trọng và cần thiết.Nhưng yếu tố nào đảm bảo tính hấp
dẫn nhất định với các nguồn vốn ngoài nước? Với nước ta hiện nay,nền kinh tế đất
nước đang trong giai đoạn tăng trưởng, tiềm năng phát triển rất lớn vì các nguồn lực
trong xã hội còn chưa được khai thác hết. Và trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ,đó
chính là điểm hấp dẫn đầu tiên với các nhà đầu tư. Mà đóng góp trước hết và chủ yếu
cho sự phát triển của đất nước chính là các dòng vốn đầu tư trong nước. Có nghĩa
rằng,hiệu quả sử dụng các nguồn vốn trong nước chính là dấu hiệu, là căn cứ để các
nhà đầu tư nước ngoài xác định điểm đến,hợp tác và đầu tư trên các lĩnh vữc kinh tếchính tri- xã hội. Tùy theo mục đích và chiến lược khác của từng nguồn vốn mà chúng
sẽ được các nhà đầu tư phân rải thành các hình thức đa dạng riêng như FDI, ODA, tín

dụng thương mại.. Hay có thể hiểu rằng ,các nhà đầu tư nước ngoài hiện nay là nhà
cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế, vì vậy họ cần nhận được thông điệp rõ ràng của VN
sẽ cam kết ưu tiên đảm bảo an toàn cho nền kinh tế trước mắt, đồng thời đặt mục tiêu
phát triển kinh tế trung và dài hạn thay vì phát triển ngắn hạn, tạm thời để đạt mục tiêu
tăng trưởng cao.
2. Nguồn vốn trong nước là cầu nối, tạo dựng những điều kiện cơ sở ban đầu,
đảm bảo cho một sự phát triển có tính bền vững, thu hút nguồn vốn ngoài nước và có
thể sử dụng và khai thác nhanh chóng và hiệu quả.
- Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất lớn tới
khả năng thu hút nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của quá trình sử
dụng vốn đầu tư. Mục tiêu của phát triển kinh tế là phải xây dựng được các cơ sở kiến
trúc hạ tầng kinh tế ở một trình độ nhất định: điện , nước, đường xá giao thông đi lại,
các công trình văn phòng hiện đại ,các khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung …để
đảm bảo sao cho có thể khai thác tốt nhất các nguồn nguyên nhiên liệu, nguồn lao
động, công nghệ…cần thiết. Nhiệm vụ này phần lớn được tập trung cho các nguồn
vốn trong nước được huy động từ phía ngân sách nhà nước, ngân sách từ các địa
phương, một phần vốn hỗ trợ từ nguồn ODA.
- Một nhu cầu nữa để phát huy các nguồn lực cho phát triển chính là nguồn lao
động. Chi phi cho lao động là chi phi chiếm tỷ trọng không nhỏ đối với các dự án sử
dụng vốn đầu tư sản xuất, đặc biệt với nguồn lao động có trình độ cao. Hàng năm các
doanh nghiệp ở khu vực sử dụng vốn trong nước và có vốn đầu tư nước ngoài đều phải
Trang 21


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

mất một khoản chi phí đáng kể cho việc đào tạo lao động trình có đô chuyên môn và
quản lý. Có thể khẳng định, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho phát triển, một sự

phát triển bền vững ở tương lai, nó là lý do tại sao mà chúng tôi lại đề cập tới vai trò
của vốn trong nước tới vốn nước ngoài một các gián tiếp thông qua các khoản đầu tư
cho giáo dục và đào tạo nguồn nhân lưc cho đất nước. Đội ngũ cán bộ quản lý và lao
động chính là nhân tố giúp cụ thể hóa vai trò của các nguồn vốn nói chung thành hiện
thực phát triển của đất nước.
- Những năm gần đây, thị trường vốn trong nước ,cơ sở là thị trường chứng
khoán Việt Nam, bùng nổ mạnh mẽ cùng theo đà phát triển của nền kinh tế. Thị
trường chứng khoán được coi là van điều tiết vốn khổng lồ trong xã hội. Các khoản
tiết kiệm của các hộ gia đình,doanh nghiệp,các quỹ,các tổ chức,…đều được thu hút,
tập trung tại đây.Cơ hội thu lợi từ đầu tư thương mại trên thị trường giàu có và đầy rủi
ro này là rất cao. Sân chơi này do nguồn vốn trong nước tạo dựng đã trở thành một
miếng phomat lớn mà các nhà đầu tư tài chính đang tìm kiếm. Đi theo các quyết định
của họ chính là các dòng lưu chuyển vốn ngoài nước một các gián tiếp vào ViệtNam.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và ngoài nước, chúng tôi nhìn
nhận đây là một tác động tích cực của nguồn vốn trong nước với nguồn vốn ngoài
nước, đó là tạo môi trường lưu chuyển và sinh lời cho các nguồn vốn nước ngoài, cùng
theo đó là sự đóng góp chung cho nguồn vốn huy động cho các chủ thể trên thị trường
và tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội.
3. Nguồn vốn trong nước có vai trò định hướng đầu tư cho các nguồn vốn nước
ngoài nhằm hạn chế những mặt tiêu cực của nguồn vốn này tới nền kinh tế, đồng thởi
tạo dựng một khung xương vững chắc cho nền kinh tế, chống lại những cơn sóng gió
từ thị trường kinh tế quốc tế.
Chúng ta là một trong số ít các nước còn lại trên thế giới xây dựng nền kinh tế
thị trường dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Sau một thời gian dài gánh chịu hậu quả của
chiến tranh và những bước đầu chưa có kinh nghiệm trong phát triển nền kinh tế,chúng
ta còn gặp phải rất nhiều rủi ro và những sai lầm đáng tiếc. Khi bắt đầu đổi mới tư duy
phát triển (1986), thừa nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, để giữ vững mục
tiêu phát triển nhanh và độc lập,các nguồn vốn và nguồn lực trong nước phải đảm bảo
được sử dụng thật hiệu quả, nắm vững vị trí then chốt như định hướng. Cụ thể,các
nguồn vốn trong nước, mà quan trọng là nguồn chi từ ngân sách nhà nước, các khoản

tín dụng,và các khoản đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước luôn phát huy
thế mạnh về cơ cấu, quyền kiểm soát trong đầu tư vào các lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế trên cơ sở các nguyên tắc thị trường: tài chính, viễn thông, dầu khí… Với quan
điểm mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài song chính sách vẫn quy định những
ngành nghề,lĩnh vực mà nguồn vốn từ ngoài nước có thể tự do tiếp cận.Nguyên tắc đó
là ,cẩn trọng và phải kiểm soát tốt việc tiếp nhận, sử dụng các nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài. Vì nguồn vốn này ngoài những lợi ích dễ thấy mà nó mang lại, vẫn còn có
rất nhiều những mặt trái từ phía sau: như các mục đích thâu tóm chính trị, làm cho phụ
Trang 22


Bài tiểu luận

Môn học: Kinh tế Đầu tư

thuộc về kinh tế (bài học từ các nước Châu mỹ La tinh đã gặp phải, trở thành sân sau
của các cường quốc như Mỹ..)
Trên đây là một số khía cạnh mà nguồn vốn trong nước tác động tới nguồn vốn
ngoài nước. Ngoài ra còn có một số những nghiên cứu, khai thác vấn đề này theo các
hướng khác như theo nghiên cứu của tác giả Lê Văn Châu trong cuốn sách “ Vốn
nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam.’’ Xuất bản năm 1995 , có đưa
ra một khái niệm có liên quan - khái niệm “vốn đối ứng’- như sau:’’ Thông thường để
vốn nước ngoài phát huy hiệu quả cần có một tỷ lệ vốn trong nước thích hợp như là
vật đối ứng .Tỷ lệ này khác nhau ở một tùy theo ngành nghề và mức độ kỹ thuật mà
vốn nước ngoài rót vào.Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, trong giai
đoạn đầu, nhu cầu về vốn tăng nghiêng về đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng và phát
triển nông nghiệp,tỷ lệ này thường là thấp(1 đồng vốn nước ngoài cần 1- 1,5 đồng vốn
trong nước). Nhưng ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư nghiêng về các ngành
công nghiệp chế biến, các ngành có hàm lượng vốn lớn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này lại
nâng lên (1/1,5-2).Đây là tỷ lệ bắt buộc về mặt kỹ thuật ,nếu không đáp ứng được thì

hiệu quả của các nguồn vốn nước ngoài sẽ không được phát huy.’’
Nhận định này đồng nghĩa với việc khẳng định ,vai trò quyết định của vốn trong
nước với vốn nước ngoài.Nó là cơ sở để vốn nước ngoài có thể phát huy vai trò quan
trọng của minh trong việc đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế nói chung.
Tuy nhiên, khái niệm vốn đối ứng hiện nay thường được nhắc tới đối với các dự
án sử dụng nguồn vốn ODA.Cụ thể, vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia
trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước
ngoài trên cơ sở hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm
quyền.Theo đó, nguồn vốn đối ứng hiện nay chủ yếu là trích từ ngân sách nhà
nước,một phần từ ngân sách địa phương và do người dân tự đóng góp.Một dự án từ
vốn ODA có tiến độ thực hiện cũng phụ thuộc vào nguồn đối ứng này từ trong nước.
Những điều trên cho thấy, nguồn vốn nước ngoài khi vào bất cứ nước
nào,cũng đòi hỏi một lượng vốn nhất định.Nghĩa là, ở mức độ nào đó nguồn vốn trong
nước sẽ phải là điều kiện đủ để bất cứ nguồn vốn nước ngoài nào cũng cần có muốn
phát huy hiệu quả trong nền kinh tế ở nước tiếp nhận đầu tư hay hiểu cách khác,
nguồn vốn trong nước chính là cầu nối cho nguồn vốn nước ngoài gia nhập nền kinh tế
nội địa.

Trang 23



×