Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học cơ sở thành phố Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.32 KB, 95 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay nước ta đã và đang trong quá trình đổi mới từ cơ cấu kinh tế
bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hướng tới hội
nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Để góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh
của nền kinh tế đất nước, việc đào tạo nghề nghiệp phải tuân thủ các quy luật
khách quan của thị trường, đặc biệt là thị trường lao động, phải đáp ứng
và phát triển được nguồn nhân lực có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có
phẩm chất tốt gắn liền với một nền khoa học, công nghệ sản xuất hiện đại.
Vấn đề phân luồng HS sau THCS v à THPT hiện nay đang được
ngành giáo dục quan tâm. Số lượng HS tốt nghiệp THCS hàng năm đã gây
sức ép lên các trường THPT; đồng thời trong số HS này, một số không được
học tiếp bậc THPT, cũng đã và đang tạo áp lực cho nền kinh tế xã hội về lao
động, việc làm và tiềm năng phát triển thị trường lao động.
Hoạt động GDHN cho HS có ý nghĩa rất to lớn. Về mặt giáo dục, đó
là việc điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp của HS theo hướng phân công
lao động xã hội, góp phần vào việc cụ thể hóa các mục tiêu đào tạo của nhà
trường phổ thông. Về mặt kinh tế, hoạt động GDHN giúp khai thác và sử
dụng hợp lý tiềm năng lao động của lực lượng lao động trẻ, từ đó giúp nâng
cao năng suất lao động xã hội. Về mặt xã hội, hoạt động GDHN có chức
năng thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII tiếp tục nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục kỹ thuật tổng hợp và năng
lực thực hành ở bậc học phổ thông”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 xác định: “Củng cố
vững chắc kết quả xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ
cập trung học cơ sở trong cả nước; phần lớn thanh, thiếu niên trong độ
tuổi ở thành thị và vùng nông thôn đồng bằng được học hết trung học phổ
thông, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề”.


Điều 27 Luật giáo dục (2005) xác định mục tiêu của giáo dục phổ


2

thông là “giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng
động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” [25].
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã ghi rõ:
“Coi trọng công tác GDHN và phân luồng học sinh trung học, chuẩn bị
cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”[14].
Gần đây, thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH10 ngày 09/12/2000 của
Quốc hội khoá X về đổi mới chương trình GDPT, vấn đề dạy học công
nghệ, giáo dục lao động và HN đã được chú trọng đổi mới cho phù hợp với
bối cảnh Việt Nam đang chủ động tích cực hội nhập vào nền kinh tế khu vực
và thế giới. Đồng thời, công tác QL GDHN có vai trò ngày càng quan trọng
góp phần vào việc cơ cấu lại và phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu
của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
Nước ta đang bước vào giai đoạn CNH-HĐH với mục tiêu đến năm
2020 từ một nước nông nghiệp về cơ bản trở thành nước công nghiệp, hội
nhập với cộng đồng quốc tế. Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi
các mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đó là nguồn lực con người
phải được phát triển đủ về số lượng, chất lượng và cơ cấu trên cơ sở mặt bằng
dân trí được nâng cao. Vì vậy, vai trò của giáo dục - đào tạo nói chung và của
giáo dục trung học ở các trường phổ thông nói riêng đối với nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện

nhiệm vụ nói trên.
Về phía ngành giáo dục và đào tạo trong thời gian qua, đã đáp ứng một
phần nào nhu cầu nguồn nhân lực của nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cuả
cả nước nói chung và của địa phương, các vùng nói riêng. Tuy nhiên, việc đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu phát


3

triển trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Chất lượng giáo dục (trong đó có
GDHN) nói chung còn thấp, chưa hợp lý về cơ cấu nghề nghiệp, sự phù hợp
với các đối tượng HS và các địa phương khác nhau còn chưa cao.
Trong thời gian vừa qua, mặc dù đã có được một số kết quả, nhưng
công tác GDHN hiện nay ở các trường THCS của tỉnh Đồng Tháp nói chung
và ở thành phố Cao Lãnh nói riêng chưa được quan tâm đúng mức. Đối với
thành phố Cao Lãnh công tác GDHN đang gặp phải những khó khăn rất lớn
về khách quan và chủ quan. Một mặt, do cơ sở vật chất, điều kiện thực hành
ở các trường THCS còn thiếu; vì những hoạt động đó đòi hỏi phải đầu tư
nhiều thời gian, trí lực nên giáo viên chưa thực sự nhiệt tình với các hoạt
động hướng nghiệp thông qua hoạt động chuyên môn. Mặt khác, lãnh đạo các
trường THCS thường tập trung vào công tác QL dạy học, các hoạt động giáo
dục đạo đức HS, còn việc QL hoạt động hướng nghiệp có phần bị xem nhẹ.
Bên cạnh đó, công tác QL hoạt động GDHN còn nhiều bất cập, ảnh hưởng
đến hiệu quả công tác GDHN tại địa phương.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THCS thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN cho HS THCS thành phố Cao Lãnh,

tỉnh Đồng Tháp.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề QL hoạt động GDHN cho học sinh THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các giải pháp nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN cho HS THCS
thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.


4

4. Giả thuyết khoa học
Có thể nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN cho HS THCS thành
phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở khoa
học và có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề QL hoạt động GDHN cho HS
THCS.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề nâng cao hiệu quả QL hoạt
động GDHN cho HS THCS thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
5.3. Đề xuất một số giải pháp pháp nâng cao hiệu quả QL hoạt động
GDHN cho HS THCS thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp lý luận
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu;
- Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm phương pháp nghiên cứu thực
tiễn có các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động;
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia;
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu điều tra bằng phương pháp
thống kê toán học.


5

7. Đóng góp của luận văn
7.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về GDHN và QL hoạt động GDHN
ở các trường THCS.
7.2. Về mặt thực tiễn
Khảo sát thực trạng QL hoạt động GDHN ở các trường THCS thành phố
Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, từ đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
QL hoạt động GDHN cho HS THCS thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn có 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề QL hoạt động GDHN cho HS
THCS.
- Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề nâng cao hiệu quả QL hoạt
động GDHN cho HS THCS thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
- Chương 3: Một số giải pháp pháp nâng cao hiệu quả QL hoạt động

GDHN cho HS THCS thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH TRUNH HỌC CƠ SỞ
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu tại một số nước trên thế giới
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, việc thay đổi quy
trình công nghệ, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến vào quá
trình sản xuất diễn ra nhanh chóng khiến người lao động không có khả năng
thích ứng kịp thời. Trong khi đó, HS khi rời ghế nhà trường lại không được
trang bị những kỹ năng cần thiết để hội nhập vào đời sống xã hội. Vì thế,
các nhà giáo dục học tiến bộ trên thế giới đã đề ra hình thức gắn giáo dục
với lao động nghề nghiệp và cuộc sống, trang bị cho HS những kiến thức,
kỹ năng lao động cần thiết để các em có thể thích ứng nhanh với cuộc
sống lao động – xã hội sau khi tốt nghiệp. Nhiều công trình nghiên cứu về
hướng nghiệp (HN) và GDHN ở các nước như Pháp, Đức, Úc, Nhật Bản và
các nước ASEAN ... đã được thực hiện và cho kết quả khả quan.
Vào giữa thế kỷ 19, tại Pháp xuất bản cuốn sách “Hướng nghiệp và
chọn nghề” đề cập đến vấn đề phát triển đa dạng của nghề nghiệp do sự phát
triển công nghiệp, khẳng định việc phải giúp đỡ thanh niên trong sự lựa chọn
nghề nghiệp nhằm sử dụng có hiệu quả năng lực lao động của thế hệ trẻ. Các
nhà sáng lập ra ngành tâm lý học Pháp là những người sáng lập ra trào lưu
định hướng và Viện Quốc gia Định hướng nghề INOP thành lập năm 1928 do
ba nhà khoa học kế tiếp nhau lãnh đạo: J.Fontegne, H Labbé và H Périon.
Năm 1939 Viện này đổi tên là Viện Quốc gia nghiên cứu về Lao động và
Hướng nghiệp INETOP. Các bài dạy của Viện do các giáo sư tầm cỡ trong

ngành đảm nhiệm, trong đó GS.JMLahy giảng dạy về hướng nghiệp, chọn
nghề, GS HLuc giảng dạy về triết lý hướng nghiệp. Hướng nghiệp được Chính
phủ Pháp thể chế hoá bằng sắc lệnh năm 1938 liên quan tới HS rời ghế nhà
trường lúc 14 tuổi.


7

Ở Thuỵ Sĩ, Claparede đã phát triển công tác hướng nghiệp và chủ trì hội
nghị quốc tế đầu tiên về hướng nghiệp tại Genevé năm 1920. Hai giáo sư
J.M.Lahy và J.Fontege, đại diện nước Pháp, tham dự hội nghị này. Năm 1922
GS. Claparede công bố bài nghiên cứu nhan đề “Hướng nghiệp – vấn đề và
các phương pháp” theo đơn đặt hàng của Tổ chức Lao động Quốc tế.
Tại Đức: những nhà giáo dục học và những nhà nghiên cứu về lao
động, kỹ thuật và kinh tế đã nghiên cứu về nội dung, phương pháp, hình
thức tổ chức dạy học lao động nghề nghiệp. Qua đó, tổ chức cho HS thực
tập tại các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh doanh, dịch vụ. Nhờ vậy, HS
được làm quen với môi trường lao động và được giáo dục một số kỹ năng
lao động cần thiết, giúp các em phát triển thành những con người trưởng
thành trong cuộc sống xã hội.
Tại Úc: vấn đề GDHN được quan tâm và thực hiện trong tất cả
HS. Trường học không chỉ giúp HS biết chọn nghề nghiệp tương lai phù
hợp cho mình mà còn cung cấp những kỹ năng lao động và tri thức cần thiết
giúp HS có thể lập nghiệp ngay trong thời gian còn đi học, tham gia hiệu
quả vào đời sống xã hội.
Tại Nhật Bản đã sớm quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa
học vấn văn hoá phổ thông với kiến thức và kỹ năng lao động – nghề nghiệp
ở tất cả các bậc học. Có khoảng 27,9% số trường THPT vừa học văn hoá phổ
thông vừa học các môn học kỹ thuật thuộc các lĩnh vực cơ khí, ngư nghiệp,
công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ,…Sau khi tốt nghiệp cấp II có đến 94%

HS vào cấp III, trong đó 70% theo học loại hình trường phổ thông cơ bản và
30% HS theo hướng học nghề.
Tại Hàn Quốc, trong các loại hình trường phổ thông, nội dung
giảng dạy kỹ thuật- lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong
chương trình giáo dục. Khi hết cấp II, HS sẽ đi theo hai luồng chính: phổ
thông và chuyên nghiệp. Các trường kỹ thuật nghề nghiệp tuyển sinh trước
rồi mới chọn HS theo luồng phổ thông.
Tại Thái Lan: ngay từ cấp tiểu học, HS được trang bị một số kiến


8

thức cơ bản và kỹ năng phù hợp lứa tuổi như công việc nội trợ, nông
nghiệp, nghề thủ công. Ở lứa tuổi HS cấp 2, hoạt động GDHN được đẩy
mạnh có tính đến khả năng, sở thích và nhu cầu của mỗi HS. Đến cấp 3,
hoạt động GDHN gắn với HN nhằm cung cấp cho HS những kỹ năng nghề
nghiệp nhất định.
Tại Philippin: ngay ở cấp 2 đã thực hiện giáo dục nghề nghiệp và HS
phải đạt được những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp tối thiểu để chọn nghề.
Mục tiêu GDPT là giúp HS đạt được những kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp tối thiểu để có thể lựa chọn nghề và đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ tay nghề cần thiết.
1.1.2. Các nghiên cứu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, vấn đề đào tạo người lao động được Đảng ta rất coi
trọng. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã ghi rõ:
“Coi trọng công tác GDHN và phân luồng HS trung học, chuẩn bị cho
thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và từng địa phương”. [14]
Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X, Đảng ta tiếp tục xác
định đổi mới toàn diện giáo dục – đào tạo trên cơ sở làm tốt công tác hướng

nghiệp và phân luồng từ cấp THCS. [15]
Quyết định 126/CP ngày 19-3-1981 của Chính phủ về Công tác
hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh
THCS, THPT tốt nghiệp ra trường [32] đã nêu rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ
công tác hướng nghiệp, phân công cụ thể chính quyền các cấp, các ngành
kinh tế, văn hóa từ Trung ương đến địa phương tham gia vào hoạt động HN.
Tất cả các cấp, các ngành có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ
các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lý và tiếp tục bồi
dưỡng HS phổ thông sau khi ra trường. Thông tư 31/TT của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện quyết định 126/CP của Chính phủ
cũng nêu rõ mục đích, nhiệm vụ và hình thức hướng nghiệp cho HS phổ
thông; đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên đang


9

công tác tại trường THPT.
Công tác GDHN cho HS THPT ở Việt Nam từ lâu đã được các nhà
khoa học, các nhà QL giáo dục quan tâm nghiên cứu như:
- Nguyễn Thị Bình (1982) về trách nhiệm của ngành ta đối với công
tác hướng nghiệp và sử dụng HS ra trường; Trần Xuân Nhĩ (1982) về nắm
vững những quan điểm đúng đắn, ra sức đẩy mạnh công tác hướng
nghiệp; Võ Nguyên Giáp (1984) về công tác hướng nghiệp trong các nhà
trường phổ thông; Phạm Huy Thụ (1996) về hoạt động lao động-hướng
nghiệp của học sinh phổ thông Việt Nam
- GS.TS Phạm Tất Dong với đề tài “Đổi mới công tác hướng
nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. [9]
- TS Hồ Văn Thống nghiên cứu về “Quản lý giáo dục hướng nghiệp
trung học phổ thông theo định hướng tạo nguồn nhân lực cho các tỉnh Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 2020”. [ 3 5 ]

Bên cạnh đó, các tác giả Nguyễn Văn Lê, Phan Văn Kha, Hà Thế
Truyền cũng có những công trình nghiên cứu, bài viết về GDHN. Các công
công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đã cho chúng ta những khái
niệm, số liệu, kinh nghiệm giáo dục kỹ thuật - dạy nghề cho HS phổ thông
và đề cập đến các vấn đề như: Tổ chức lao động sản xuất cho HS phổ
thông, tư vấn nghề nghiệp cho HS, các phương thức giáo dục kỹ thuật và
HN trong trường phổ thông.
Đặc biệt, GS-TSKH Nguyễn Văn Hộ đã nghiên cứu vấn đề “Thiết lập
và phát triển hệ thống hướng nghiệp cho học sinh Việt Nam” [19]. Trong đó,
tác giả đã xây dựng luận chứng cho hệ thống hướng nghiệp và dạy nghề phổ
thông trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đề xuất những
hình thức phối hợp giữa nhà trường, các cơ sở đào tạo nghề, cơ sở sản xuất
trong hướng nghiệp – dạy nghề cho HS phổ thông. Các công trình nghiên
cứu trên đã được phổ biến và áp dụng vào thực tiễn HN trong thời gian qua
một cách có hiệu quả.


10

1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Hướng nghiệp, giáo dục hướng nghiệp và hoạt động giáo dục
hướng nghiệp
1.2.1.1. Hướng nghiệp
Trên bình diện hoạt động xã hội, “HN có thể hiểu như là một hệ thống
tác động của xã hội về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học.v.v...nhằm
giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện
vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực
sản xuất trong nền kinh tế quốc dân” [4, 5].
Có thể nói rằng hướng nghiệp là công việc mà toàn xã hội có trách nhiệm
tham gia. Trong những điều kiện lý tưởng, trẻ em cần được hướng nghiệp liên

tục và thường xuyên bằng nhiều hình thức, bằng nhiều con đường.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, lao động nghề nghiệp là quyền lợi của mỗi
con người trong xã hội. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, bất kỳ người nào cũng
đều phải lao động, lao động có nghề nghiệp. Do đó, mỗi em nhỏ phải được
HN. Với cách hiểu như vậy, HN cũng là quyền lợi đối với trẻ em.
Hướng nghiệp là quá trình dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp,
giúp họ phát huy được hết năng lực lao động trong thế giới đó, có được cuộc
sống thoả mãn với lao động nghề nghiệp.
Trên bình diện hoạt động ở trường phổ thông, “HN là một hình thức hoạt
động dạy của thầy và hoạt động học của trò.”[36]. Với tư cách là hoạt động
dạy của thầy, HN được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư
phạm, có mục đích giáo dục HS trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết
định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng
thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành nghề sản xuất trong xã
hội.
Như vậy HN trong trường phổ thông được thể hiện như một hệ thống tác
động sư phạm nhằm làm cho các em HS chọn được nghề một cách hợp lý.


11

HN là một trong những hình thức hoạt động học tập của HS. Thông qua
hoạt động này, mỗi HS phải lĩnh hội được những thông tin về nghề nghiệp
trong xã hội, đặc biệt là nghề nghiệp ở địa phương, phải nắm được hệ thống
yêu cầu của từng nghề cụ thể mà mình muốn chọn, phải có kỹ năng tự đối
chiếu những phẩm chất, những đặc điểm tâm - sinh lý của mình với hệ thống
yêu cầu của nghề đang đặt ra cho người lao động.
1.2.1.2. Giáo dục hướng nghiệp
Con người có thể sáng tạo trong lao động, lao động có năng suất cao, khi
lao động là niềm vui, niềm hạnh phúc đối với họ. Điều này chỉ xảy ra khi

người ta lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở trường và hứng thú
của chính mình. Nhưng đứng trước thế giới nghề nghiệp rộng lớn, việc lựa
chọn lấy một nghề thích hợp cho mình không phải là dễ dàng. Việc giúp HS
lựa chọn nghề nghiệp đúng đắn là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã
hội, thông qua con đường hướng nghiệp.
Trong trường phổ thông, HN vừa là hoạt động dạy của GV, vừa là hoạt
động học của HS. Nói như vậy có nghĩa là trong công tác HN, GV là người tổ
chức, hướng dẫn còn HS là người chủ động tham gia vào hoạt động để tiếp
cận với hệ thống nghề nghiệp. Kết quả cuối cùng của quá trình HN là sự tự
quyết định của HS trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
GDHN là quá trình hướng dẫn chọn nghề, quá trình chuẩn bị cho thế hệ
trẻ đi vào lao động sản xuất xã hội. GDHN là quá trình tác động của gia đình,
nhà trường và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng
dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề tại
những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với hứng thú,
năng lực cá nhân.
GDHN là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình,
xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ tư tưởng, tâm lí, tri thức, kĩ năng … để
học có thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao động sản xuất, vào cuộc sống.
GDHN góp phần phát huy năng lực, sở trường của từng người, đồng thời
cũng góp phần điều chỉnh nguyện vọng của cá nhân sao cho phù hợp với nhu


12

cầu phân công lao động trong xã hội. Có thể nói ngắn gọn rằng GDHN là
hướng dẫn cho HS ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sớm có ý thức về
một nghề lao động mà sau này họ sẽ chọn.
1.2.1.3. Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Thực hiện nguyên lý giáo dục của Đảng “giáo dục kết hợp với lao động

sản xuất, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với xã hội”, GDHN được
xác định là một bộ phận quan trọng trong nội dung giáo dục toàn diện cho HS
phổ thông đã được khẳng định trong Luật Giáo dục.
Trong nhà trường phổ thông hoạt động GDHN là công việc của tập thể
sư phạm giáo dục HS lựa chọn một cách tốt nhất, nghĩa là trong sự lựa chọn
đó có sự phù hợp giữa nguyện vọng nghề nghiệp của cá nhân với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội và có sự phù hợp giữa năng lực của cá nhân với đòi hỏi
của nghề.
Hoạt động GDHN đạt được sự thành công cần phải thực hiện tốt ba
nhiệm vụ sau: Định hướng nghề - Tư vấn nghề - Tuyển chọn nghề.
a. Định hướng nghề nghiệp:
Trong trường phổ thông công việc chủ yếu của định hướng nghề
nghiệp là thông tin về sự phát triển của các nghề trong xã hội. Đặc biệt là
những nghề đang có nhu cầu nhân lực một cách cấp thiết, những yêu cầu
tâm lý và sinh lý của các nghề đang đặt ra, tình hình phân công lao động xã
hội và hệ thống trường dạy nghề…Đối tượng của sự định hướng đó chủ yếu
là HS, nhưng đôi khi, nhà trường cũng phải cung cấp những thông tin nói
trên cho cha mẹ HS nhằm mục đích phối hợp hướng nghiệp cho các em một
cách thống nhất.
b. Tư vấn nghề:
Tư vấn nghề là một hoạt động dựa vào những lời khuyên tâm lý, giáo
dục và y học nhằm đánh giá toàn diện năng lực thể chất và trí tuệ của thanh
thiếu niên. Trên cơ sở đối chiếu với những yêu cầu của nghề nghiệp đặt ra đối
với người lao động có tính đến nhu cầu của địa phương và xã hội, giúp các


13

em chọn nghề phù hợp, góp phần cho sự thành đạt sau này.
Đây là hình thức tác động hướng nghiệp thông qua sự góp ý và lời

khuyên của những nhà chuyên môn đối với việc lựa chọn nghề. Thông
thường hiện nay đa số các trường đều thành lập những Ban tư vấn nghề
nghiệp trong trường học hoặc Trung tâm tư vấn nghề nghiệp ngoài trường.
Ở các trung tâm này, người ta nghiên cứu, theo dõi sự phát triển và những
đặc điểm tâm - sinh lý của HS, đối chiếu những đặc điểm đó với yêu cầu
của các nghề, sau đó giới thiệu một số nghề HS nên chọn. Trong nhiều
trường hợp, người làm công tác tư vấn còn đặt mối liên hệ mật thiết với gia
đình để cùng phối hợp tác động đến HS, làm cho những lời khuyên chọn
nghề có “trọng lượng” hơn.
c. Tuyển chọn nghề:
Tuyển chọn nghề nghiệp là căn cứ vào nhu cầu nhân lực của một
nghề cụ thể mà đi tìm những người, có đặc điểm nhân cách phù hợp tay
nghề, trình độ … Trong trường phổ thông, việc tư vấn và định hướng nghề
nghiệp đều phải dựa trên các số liệu, dữ liệu cần để tạo những điều kiện
thuận lợi cho việc tuyển chọn nghề nghiệp (như số liệu tuyển sinh hàng
năm, số liệu HS tốt nghiệp THCS hàng năm, số liệu HS vào các trường
THPT, vào các trường nghề, số HS không học tiếp phổ thông, số liệu về
những đợt tập huấn, tham quan ngoại khóa về công tác hướng nghiệp
v..v…)
Bên cạnh các nhiệm vụ trên cần thực hiện phối hợp các biện pháp
như: tổ chức họp mặt cha mẹ HS để tuyên truyền, tư vấn nghề, thực hiện
các phiếu điều tra tham khảo trong HS và cha mẹ HS, tổ chức tham quan
các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp,
các khu chế xuất ở các địa phương, gặp mặt trao đổi, báo cáo của các đơn vị
trên về qui mô hoạt động của từng đơn vị và nhu cầu sử dụng lao động hàng
năm.
Qua thực tiễn vấn đề tuyển chọn nghề và lựa chọn nghề của thanh
thiếu niên không những ảnh hưởng quyết định đến tương lai, hạnh phúc



14

cuộc đời của các em, mà còn gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, liên quan đến vấn đề “quốc kế dân sinh”.
1.2.2. Quản lý và quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.2.2.1. Quản lý
C. Mac đã chỉ ra, tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên qui mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến
một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ thể khác với sự vận động
của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển
lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần có nhạc trưởng.
Trên mỗi góc độ tiếp cận và hoạt động, người ta có thể đưa ra một quan
niệm QL khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, các quan niệm đều cho rằng, khái
niệm QL bao gồm những dấu hiệu đặc trưng sau:
- QL là hoạt động lao động, hoạt động lao động đặc biệt; hoạt động này
để điều khiển lao động.
- Trong QL, bao giờ cũng có chủ thể QL và khách thể QL (đối tượng
QL) quan hệ với nhau bằng những tác động QL. Những tác động QL chính là
những quyết định QL, là những nội dung mà chủ thể QL yêu cầu đối với
khách thể QL, khách thể QL thực hiện các yêu cầu của chủ thể QL.
- QL phải có cấu trúc và vận động trong một môi trường xác định. Hoạt
động QL bao giờ cũng gắn với hoạt động có ý thức của con người và toàn xã
hội dưới tác động của hoàn cảnh nhằm định hướng sự vận động và phát triển
của đối tượng cần QL theo một mục đích nhất định.
- QL là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội.
Lao động QL là điều kiện quan trọng để xã hội tồn tại, vận hành và phát triển.
Như vậy, theo chúng tôi quan niệm của Nguyễn Đức Trí về “quản lý”
sau đây là đầy đủ hơn cả:
“Quản lý là một quá trình tác động có định hướng (có chủ định), có tổ

chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa trên các thông tin về


15

tình trạng và môi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn
định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định” [37].
Cho đến nay đa số các nhà QL cho rằng QL có bốn chức năng cơ bản là:
Kế hoạch hoá; Tổ chức; Chỉ đạo; Kiểm tra. Bốn chức năng đó quan hệ mật
thiết với nhau tạo thành một chu trình QL.
1) Chức năng kế hoạch hoá.
Chức năng kế hoạch hoá là quá trình xác định mục tiêu và những giải
pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó. Như vậy, thực chất của kế hoạch hoá
là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch hoá với mục đích, giải
pháp rõ ràng, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các điều kiện cung ứng
cho việc thực hiện mục tiêu.
Đây là chức năng khởi đầu, là bản thiết kế, là tiền đề, là điều kiện của
mọi quá trình QL được tổ chức một cách hợp lý.
2) Chức năng tổ chức.
Đây là giai đoạn thực hiện những ý tưởng đã được kế hoạch hoá để đưa
đơn vị từng bước đi lên. Việc tổ chức thực hiện là sự sắp đặt những con
người, những công việc một cách hợp lý để mỗi người đều thấy hài lòng và
hào hứng, công việc diễn ra trôi chảy.
Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc tối ưu của hệ thống
QL và phối hợp tốt nhất giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo (chấp
hành).
Như vậy chức năng tổ chức là quá trình sắp xếp và phân phối các nguồn
lực để thực hiện hoá các mục tiêu đã đặt ra. Thực hiện tốt chức năng này sẽ có
khả năng tạo ra sức mạnh mới cho tổ chức.
3) Chức năng chỉ đạo.

Chức năng chỉ đạo, xét cho cùng là sự tác động lên con người, khơi dậy
động lực của nhân tố con người trong hệ thống QL, thể hiện mối quan hệ giữa
con người với con người và quá trình giải quyết những mối quan hệ đó do họ
tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu.


16

Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể QL đến hành vi và
thái độ của đối tượng QL nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Chỉ đạo thể hiện
quá trình ảnh hưởng qua lại giữa chủ thể QL và mọi thành viên trong tổ chức.
4) Chức năng kiểm tra.
Kiểm tra là chức năng của người QL nhằm đánh giá, phát hiện và điều
chỉnh kịp thời giúp cho hệ thống QL vận hành tối ưu, đạt mục đích đề ra.
Kiểm tra là nhằm xác định kết quả thực hiện kế hoạch trên thực tế, phát hiện
những sai lệch, đề ra những biện pháp uốn nắn điều chỉnh kịp thời. Kiểm tra
không hẳn là giai đoạn cuối của chu trình QL, bởi kiểm tra diễn ra trong suốt
quá trình từ đầu đến cuối, từ lúc chuẩn bị xây dựng kế hoạch.
Kiểm tra có hiệu quả cao là kiểm tra mang tính lường trước, cho phép
phát hiện sai sót từ khâu lập kế hoạch hay quá trình đang diễn ra. Như vậy,
kiểm tra thực chất là quá trình thiết lập mối quan hệ ngược trong QL, nó giúp
người lãnh đạo điều khiển một cách tối ưu hoạt động QL. Do đó ta có thể nói
“không có kiểm tra là không có QL”.
Qua phân tích các chức năng QL, chúng ta thấy rằng các chức năng này
có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, chi phối lẫn nhau.
Kế hoạch
hóa
Tổ chức

Quản lý


Chỉ đạo

Kiểm tra
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ của các chức năng QL.

1.2.2.2. Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp


17

Quản lý hoạt động GDHN là một bộ phận của QL giáo dục, hay có thể
hiểu QL hoạt động GDHN thực chất là những tác động của chủ thể QL vào
quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể giáo viên và HS, với sự hỗ trợ
đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm tuyên truyền định hướng và tư vấn
cho HS trước ngưỡng cửa lựa chọn nghề nghiệp sao cho phù hợp với xu thế
đổi mới về sự phát triển chung về kinh tế, đáp ứng được nhu cầu phát triển về
nghề nghiệp tại địa phương.
QL hoạt động GDHN cho HS cấp THCS là một trong những nhiệm
vụ, mục tiêu đào tạo HS, nhằm hình thành ý tưởng ban đầu về lựa chọn nghề
nghiệp và thực hiện phân luồng HS sau THCS, tạo điều kiện để HS tiếp tục
học lên bậc THPT hoặc lựa chọn vào các trường trung cấp nghề phù hợp với
năng lực và sở thích của các em, đồng thời phù hợp với yêu cầu phát triển
của xã hội.
1.2.3. Hiệu quả và hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp
1.2.3.1. Hiệu quả
Theo từ điển bách khoa toàn thư: hiệu quả là kết quả mong muốn, cái
sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới. Nó có nội dung tương ứng
ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, là
năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao động

nói chung hiệu quả lao động là năng suất lao động, được đánh giá bằng số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc là bằng số
lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
1.2.3.2. Hiệu quả quản lý hoạt động GDHN
Hiệu quả QL hoạt động GDHN là tạo ra kết quả của việc thực hiện
GDHN cho HS trong nhà trường theo những kết quả mong muốn hoặc có chủ
định.
1.2.4. Giải pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN
1.2.4.1. Giải pháp
Theo Từ điển tiếng Việt (do Văn Tân chủ biên, 1994), định nghĩa giải
pháp: “giải là cởi ra, pháp là phép”. Giải pháp là cách thức giải quyết một vấn
đề khó khăn nào đó. Từ điển Bách khoa toàn thư (2000) cũng có định nghĩa


18

khái niệm giải pháp “Giải pháp là toàn bộ những điều quyết định cần thực
hiện để thanh toán những khó khăn có thể dẫn đến tình trạng bế tắc”.
1.2.4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN
Giải pháp nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN là loại giải pháp
hành chính nhằm giải quyết một vấn đề nào đó trong công tác QL giáo dục,
để chủ thể QL tác động đến đối tượng QL theo mục tiêu đào tạo của nhà
trường để đạt được kết quả tốt nhất.
1.3. Hoạt động GDHN cho HS ở trường THCS
1.3.1. Vị trí, vai trò của hoạt động GDHN cho học sinh THCS
1.3.1.1. Thực hiện GDHN ở trường THCS là xu thế tất yếu của thời đại
Ở nước ta, hoạt động GDHN trong nhà trường phổ thông cấp THCS có vị
trí đặc biệt quan trọng nhằm đảm bảo những yêu cầu sau:
- Về mặt kiến thức: Giúp cho HS có được những hiểu biết cần thiết về
thế giới nghề nghiệp, các lĩnh vực sản xuất chủ yếu trong xã hội như công

nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trong mỗi lĩnh vực, tuỳ trình độ học vấn và
khả năng của HS ở từng cấp mà giúp cho các em tiếp cận và có được những
kiến thức cần thiết về khoa học - công nghệ hiện đại.
- Về mặt kỹ năng: Hoạt động GDHN giúp cho HS có được những kỹ
năng, kỹ thuật tổng hợp để phát triển khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng
vào việc xử lý các tình huống trong thực tế và tham gia có hiệu quả vào cuộc
sống lao động hoặc học tiếp lên bậc học cao hơn.
- Về mặt năng lực: Từng bước hình thành cho HS những kiến thức cần
thiết của người lao động, có đủ kiến thức, kỹ năng để sử dụng một số máy
móc, thiết bị kỹ thuật hiện đại, biết ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất, biết tự đánh giá bản thân để có sự lựa chọn hướng đi sau
tốt nghiệp THCS.
- Về phẩm chất đạo đức: Vấn đề hình thành phẩm chất của người lao
động mới ngay từ khi HS đang còn ngồi trên ghế nhà trường là rất cần thiết.
Vì vậy, với chức năng nhiệm vụ được giao, hoạt động GDHN góp phần đắc
lực vào việc giáo dục cho HS những phẩm chất cần thiết của người lao động
mới như: có ý thức vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật, yêu quý lao động,


19

năng động sáng tạo trong lao động, có ý thức trách nhiệm và tận tâm với
công việc, có tinh thần hợp tác xây dựng và phát triển đất nước.
Xuất phát từ những nội dung trên, việc GDHN cho HS là một xu thế
tất yếu phù hợp với tình hình đất nước đang trong thời kỳ đổi mới.
1.3.1.2. GDHN góp phần tạo ra sự phù hợp nghề cho từng HS trong
tương lai
Hiện nay ở nước ta, phần đông HS cuối cấp THCS và THPT đều chưa có
phương hướng học tập và nghề nghiệp một cách rõ ràng. Các em thường
không biết chọn nghề gì cho tương lai, hoặc các em đi theo một nghề nào đó

là do ý muốn của cha mẹ, người thân hoặc bạn bè mà không hiểu nghề đó có
phù hợp với mình hay không. Vì vậy, người làm công tác hướng nghiệp có
nhiệm vụ tư vấn và tuyên truyền định hướng cho các em, giúp các em gắn bó
với nghề mình yêu thích. Từ đó, các em sẽ phấn đấu để đạt được nguyện
vọng làm đúng với nghề mình đã chọn. Sự phù hợp nghề của một con người
bao giờ cũng được bộc lộ bởi 2 yếu tố: năng lực và phẩm chất trong lao động
nghề nghiệp theo yêu cầu của nghề đó đặt ra. Chúng luôn thống nhất với
nhau, chuyển hóa lẫn nhau, thiếu một trong hai yếu tố trên thì không thể coi
là phù hợp nghề.
1.3.2. Mục tiêu của hoạt động GDHN cho học sinh THCS
Luật giáo dục năm 2005 đã chỉ rõ: “Mục tiêu của giáo dục phổ thông là
giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục
học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”[25]. Để thực hiện mục tiêu đó, chương trình giáo dục ở trường phổ
thông được xây dựng bao gồm hệ thống các môn học bắt buộc và tự chọn,
các hoạt động trong và ngoài giờ lên lớp, các hoạt động khác của đoàn thể và
cộng đồng xã hội. Hệ thống các hoạt động giáo dục đồng bộ, phong phú diễn
ra ở trong và ngoài nhà trường, thực hiện phương châm học đi đôi với hành,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội; coi trọng
công tác hướng nghiệp và phân luồng HS trung học, chuẩn bị cho thanh niên,


20

thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong cả nước và từng địa phương.
Mục tiêu công tác GDHN HS THCS cũng là một bộ phận trong mục
tiêu giáo dục phổ thông, phải bảo đảm tính phổ thông, cơ bản, toàn diện,

hướng nghiệp và hệ thống, gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm sinh
lý lứa tuổi HS.
Hoạt động GDHN ở trường phổ thông có vai trò quan trọng trong việc
tổ chức, hình thành các kỹ năng kỹ thuật tổng hợp, các kỹ năng sống cho thế
hệ trẻ như: kỹ năng thu thập và xử lý thông tin, kỹ năng lập kế hoạch và triển
khai công việc, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức
cuộc sống khoa học v.v…Đồng thời, thông qua các hoạt động HN giúp cho
HS hiểu biết về thế giới nghề nghiệp phong phú mà xã hội yêu cầu, hiểu
được năng lực và xu hướng nghề nghiệp của bản thân, nắm được điều kiện và
cơ sở học tập nghề nghiệp để từ đó lựa chọn đúng hướng đi và nghề nghiệp
tương lai. Đây cũng là xu thế toàn cầu hóa với sự đổi mới và phát triển kinh
tế xã hội Việt Nam, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước.
1.3.3. Nội dung, nhiệm vụ của hoạt động GDHN cho HS THCS
1.3.3.1. Nội dung của hoạt động GDHN HS THCS
Ở cấp THCS, nội dung chương trình hoạt động GDHN được thực hiện
với thời lượng 3 tiết/tháng theo quy định của Bộ GD&ĐT. Nội dung bao
gồm:
Tháng

Tên chủ đề

9

Ý nghĩa, tầm quan trọng
của việc chọn nghề có cơ
sở khoa học

10


Tìm hiểu năng lực bản
thân và truyền thống nghề
nghiệp của gia đình

11

Thế giới nghề nghiệp
quanh ta

Nội dung
- Ý nghĩa của việc chọn nghề.
- Cơ sở khoa học của việc chọn nghề.
- Những nguyên tắc chọn nghề.
- Một số khái niệm: năng lực, phù hợp nghề.
-Tự đánh giá năng lực bản thân theo yêu cầu nghề nghiệp.
- Phát triển và bồi dưỡng năng lực.
- Tính đa dạng và phong phú của thế giới nghề nghiệp.
- Phân loại nghề theo đối tượng lao động.
- Bản mô tả nghề.


21

12

Tìm hiểu thông tin một số
nghề phổ biến ở địa
phương

1


Tìm hiểu hệ thống giáo
dục phổ thông và giáo dục
nghề nghiệp của Trung
ương và địa phương (tuyển
sinh trình độ THCS)

2

Các hướng đi sau khi tốt
nghiệp THCS

3

Tư vấn hướng nghiệp

4

Định hướng phát triển
kinh tế - xã hội của đất
nước và địa phương

5

Tìm hiểu thông tin về
thị trường lao động

- Phương pháp tìm hiểu thông tin nghề.
- Tìm hiểu thông tin một số nghề phổ biến ở địa phương.
- Thông tin cơ bản về các trường THPT ở địa phương.

-Thông tin cơ bản về các trường Trung học chuyên
nghiệp
của Trung ương và địa phương (tuyển sinh trình độ
THCS).
-Thông tin cơ bản về các trường Dạy nghề của Trung
ương và địa phương.
- Thực trạng phân luồng HS sau khi tốt nghiệp THCS.
- Các hướng đi sau khi tốt nghiệp THCS.
- Lựa chọn hướng học tập và nghề sau khi tốt nghiệp
THCS:
khósự
khăn
cách
khắc
-thuận
Kháilợi,
niệm,
cầnvà
thiết
phải
tư phục.
vấn định hướng học tập
và chọn nghề nghiệp phù hợp với hứng thú, năng lực bản
thân và nhu cầu xã hội.
- Những sai lầm thường mắc phải khi chọn nghề.
- Quy trình tư vấn cho HS.
- Một số đặc điểm của quá trình phát triển kinh tế - xã
hội ở nước ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong

giai đoạn tới.
- Nhu cầu việc làm hiện tại của địa phương.
- Một số khái niệm về việc làm, nghề, thị trường lao động.
- Đặc điểm và yêu cầu của thị trường lao động ở nông
thôn và thành phố trong giai đoạn hiện nay.
- Một số thông tin về thị trường lao động.

Nội dung chương trình GDHN trên đã được thực hiện ổn định từ
nhiều năm học. Trong quá trình dạy học, nhà trường định hướng và hướng
dẫn HS lựa chọn phù hợp con đường học lên THPT, đại học, cao đẳng, trung
cấp, học nghề, hoặc lao động phù hợp với năng lực, điều kiện cụ thể của cá
nhân và nhu cầu xã hội; góp phần điều tiết cơ cấu ngành nghề của lực
lượng lao động phù hợp với nhu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, thực hiện Nghị định 75/2006/NĐ-CP ban hành ngày
02/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ, bắt đầu từ năm học 2008-2009, Bộ
GD&ĐT đã ra văn bản hướng dẫn việc thực hiện nội dung chương trình
hoạt động GDHN ở cấp THCS. Theo đó, ở lớp 9 chương trình hoạt động
GDHN chỉ còn 9 tiết/năm học, một số nội dung GDHN được tích hợp sang
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và môn Công nghệ. Nội dung điều
chỉnh như sau:


22

Tháng

Tên chủ đề

Số tiết


8

Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc chọn nghề có cơ sở khoa học.

1

9

Định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa
phương.

1

10

Thế giới nghề nghiệp quanh ta.

1

11

Tìm hiểu thông tin về một số nghề ở địa phương.

1

12

Thông tin về thị trường lao động.

1


1

Tìm hiểu năng lực bản thân và truyền thống nghề nghiệp của gia
đình.

1

2

Hệ thống giáo dục trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề của
trung ương và địa phương (tuyển sinh trình độ THCS trở lên).

1

3

Các hướng đi sau khi tốt nghiệp THCS.

1

4

Tư vấn hướng nghiệp.

1

1.3.3.2. Nhiệm vụ của hoạt động GDHN HS THCS

Nhiệm vụ của hoạt động GDHN HS phổ thông được ghi rõ trong quyết

định 126/CP ngày 19-3-1981 của Chính phủ. Công tác GDHN ở các trường
phổ thông gồm các nhiệm vụ:
- Giáo dục thái độ lao động cho HS.
- Tổ chức cho HS thực tập làm quen với một số nghề.
- Tìm hiểu năng khiếu, khuynh hướng nghề nghiệp của từng HS để
khuyến khích, hướng dẫn, bồi dưỡng khả năng nghề nghiệp thích hợp nhất.
Về lâu dài trên bình diện xã hội, để làm tốt nhiệm vụ GDHN cho HS
cấp THCS cần thực hiện cả ba nội dung: tuyên truyền định hướng về nghề
nghiệp, tư vấn nghề nghiệp và tuyển chọn nghề nghiệp. Các nhiệm vụ đó
được thể hiện qua “Tam giác hướng nghiệp" ở Sơ đồ 1.2 dưới đây.

Sơ đồ 1.2: Các nhiệm vụ GDHN định hướng nghề


23

Định hướng nghề

Đặc điểm yêu cầu
ngành nghề xã hội cần
phát triển

Tư vấn nghề

Phẩm chất , năng lực
Hoàn cảnh cá nhân

Thị trường lao động

Tuyển chọn nghề


Ba nội dung trên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đối với HS THCS, các
nhà QL GDHN cần thiết kế, tổ chức các hoạt động GDHN chủ yếu là định
hướng nghề và một phần tư vấn nghề thông qua các hoạt động dạy học nghề
phổ thông, tham quan học tập theo chương trình GDHN, góp phần vào việc
đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội.
1.3.4. Các nguyên tắc, hình thức và giai đoạn GDHN cho HS THCS
1.3.4.1. Các nguyên tắc hướng nghiệp
a. Nguyên tắc hình thành giáo dục: Sự định hướng nghề dẫn đến chọn
nghề được hình thành dần dần trong các hoạt động giáo dục và hướng
nghiệp. Do đó, vấn đề đặt ra là phải giáo dục, đào tạo để HS có khả năng
định hướng và đi đến quyết định chọn nghề.
b. Nguyên tắc tôn trọng như nhau đối với các loại lao động: Nguyên
tắc này yêu cầu chống việc tuyên truyền cho một ngành nghề này lại coi
thường hạ thấp giá trị một ngành nghề khác.
c. Nguyên tắc kết hợp công tác hướng nghiệp của nhà trường, gia đình,
xã hội, các cơ quan đoàn thể, công tác giáo dục theo nhóm với công tác cá
nhân nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng hướng nghiệp.
d. Nguyên tắc bảo đảm quyền độc lập tự chủ, tự giác tích cực lựa chọn
nghề của mỗi HS, gắn liền với việc đánh giá thực tế điều kiện cụ thể của cuộc
sống xã hội.
đ. Nguyên tắc giáo dục toàn diện của công tác GDHN cho HS.
1.3.4.2. Các con đường GDHN cơ bản cho HS THCS


24

a. Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học các môn văn hóa khoa học cơ
bản.
b. Hướng nghiệp qua việc dạy học các môn kỹ thuật, nghề phổ thông,

lao động sản xuất.
c. Hướng nghiệp qua các buổi sinh hoạt hướng nghiệp.
d. Hướng nghiệp qua các hoạt động tham quan, ngoại khóa, các phương
tiện thông tin đại chúng, gia đình và các tổ chức xã hội.
1.3.4.3. Các giai đoạn của công tác GDHN
Công tác GDHN trong nhà trường phổ thông đối với từng HS được
tiến hành qua các giai đoạn sau:
+ Tìm hiểu về thế giới nghề nghiệp: HS được tìm hiểu, làm quen với
các ngành, nghề, các dạng lao động phổ biến trong các lĩnh vực sản xuất,
kinh tế, xã hội, nhất là các ngành nghề đang có nhu cầu lao động ở địa
phương nhằm tạo cơ sở để quyết định về hướng phát triển sự nghiệp của
mình.
+ Tập dượt, thử sức mình qua học tập các bộ môn văn hóa, kỹ thuật,
nghề phổ thông, qua thực hành, lao động sản xuất; học về cách đánh giá bản
thân trong mối liên quan đến công việc; tự đánh giá những khả năng, điều
kiện của bản thân mình trong việc đáp ứng những yêu cầu của nghề (kể cả
điều kiện về kinh tế cho chi phí đào tạo)
+ Học cách làm kế hoạch và quyết định lựa chọn con đường học một
nghề, một lĩnh vực lao động phù hợp nhất. Đây là nhiệm vụ cơ bản nhất của
công tác GDHN, chứng tỏ HS được chuẩn bị cả về mặt tư tưởng, tâm lý, tri
thức, kỹ năng…hay không, khi quyết định chọn nghề. Các em sẽ thoải mái tự
quyết định lựa chọn nghề nghiệp tương lai khi đã am hiểu, tập dượt thử sức
mình. Lúc đó mới có thể nói là việc chọn nghề đã dựa trên các cơ sở khoa
học cần thiết.
+ HS tự thực hiện những quyết định của mình.
1.4. Một số vấn đề về nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN cho HS
trường THCS


25


1.4.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN cho
HS trường THCS
Hoạt động GDHN là con đường quan trọng, có ưu thế hơn so với con
đường khác trong GDHN cho HS phổ thông. Thông qua quá trình tổ chức
hướng dẫn GV, HS tích cực tham gia các hoạt động học tập nghiên cứu
nhằm lĩnh hội một cách hệ thống các thông tin về phát triển các lĩnh vực
ngành nghề trong xã hội, những ngành nghề chủ yếu của nền kinh tế quốc
dân cũng như những ngành nghề đang có nhu cầu phát triển của địa phương
hiện nay; nắm được hướng phát triển của kinh tế - xã hội và yêu cầu cơ bản
của nghề đối với lao động. Trên cơ sở nhận thức, HS hình thành hứng thú
đối với lĩnh vực nghề nghiệp xác định, có cơ sở khoa học để lựa chọn nghề
tương lai đảm bảo phù hợp giữa nhu cầu, sở thích, năng lực các nhân với
nhu cầu của xã hội, địa phương. Hoạt động GDHN giúp HS, đặc biệt các
em ở lớp cuối cấp phổ thông giải được bài toán hết sức khó khăn trong
cuộc đời con người “Mình sẽ làm nghề gì trong tương lai?” làm sao cho có
sự phù hợp giữa các yếu tố; nghề các em thích, khả năng em có thể làm và
nghề xã hội đang cần phát triển. Chính vì vậy, nhà trường cần tổ chức tốt
công tác QL hoạt động GDHN nhằm phát huy mạnh mẽ tác dụng của nó
trong việc bồi dưỡng, HN cho HS chọn nghề đảm bảo cho sự phù hợp.
Đồng thời cần thực hiện phối hợp hàng loạt các biện pháp như trắc nghiệm,
cân, đo, cho lời khuyên, thử sức, tham quan nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh, trao đổi, tổ chức gặp mặt các nhà sản xuất giỏi, các công
nhân lành nghề …
GDHN là phát hiện và bồi dưỡng phẩm chất nhân cách nghề nghiệp
cho HS, giúp các em biết được khả năng của mình, hiểu được yêu cầu của
nghề. Thông qua hoạt động GDHN giúp HS điều chỉnh động cơ chọn nghề.
Trên cơ sở đó các em định hướng đi vào lĩnh vực sản xuất một các tự
nguyện bằng những tân huyết của mình góp phần quan tạo ra chất lượng
nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại

hóa. Mặt khác nó có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo


×