Tải bản đầy đủ (.doc) (117 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.48 KB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ ĐÌNH THANH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An, năm 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ ĐÌNH THANH

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
HUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60.14.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đình Huân

Nghệ An, năm 2013



Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành, tác giả xin cảm ơn đến lãnh đạo và cán bộ,
giảng viên trường Đại học Vinh, đã giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập, nghiên cứu và viết luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng tri ân đối với PGS -TS Nguyễn Đình Huân
giáo viên hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tác giả
hoàn thành luận văn.
Nhân dịp này tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến:
Lãnh đạo sở GD & ĐT tỉnh Thanh Hoá, lãnh đạo UBND huyện Đông
Sơn, phòng GD & ĐT huyện Đông Sơn, Trung tâm GDTX Đông Sơn tỉnh
Thanh Hoá, bạn bè, gia đình và đồng nghiệp đã quan tâm, giúp đỡ tạo điều
kiện trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng song luận văn không tránh khỏi những
hạn chế thiếu sót. Kính mong quý thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp chân
tình góp ý, chỉ dẫn để luận văn trở nên hoàn thiện hơn, thiết thực hơn, góp
một phần vào công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
các trung tâm giáo dục thường xuyên.
Tác giả

Lê Đình Thanh


MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang


MỞ ĐẦU

1

1.

Lí do chọn đề tài

1

2.

Mục đích nghiên cứu

4

3.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu

4

4.

Giả thuyết khoa học

4

5.


Nhiệm vụ nghiên cứu

4

6.

Phương pháp nghiên cứu

4

7.

Đóng góp của luận văn

5

8.

Cấu trúc luận văn

5




Chương 1
1.1.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN

Ở CÁC TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

7

1.1.1.

Các nghiên cứu ở nước ngoài

7

1.2.2.

Các nghiên cứu trong nước

9

Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài

11

1.2.1.

Khái niệm về giáo viên, đội ngũ giáo viên

11

1.2.2.


Khái niệm về chất lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên

12

1.2.3.

Khái niệm về giải pháp, giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên
Một số vấn đề lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên ở các trung tâm giáo dục thường xuyên
Những yêu cầu đối với người giáo viên ở trung tâm
giáo dục thường xuyên
Đặc điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của trung tâm giáo dục
thường xuyên
Đặc điểm của trung tâm giáo dục thường xuyên

13

Mục tiêu, nhiệm vụ của trung tâm giáo dục thường
xuyên
Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên ở trung tâm giáo dục thường xuyên

24

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên ở trung tâm giáo dục thường xuyên
Kết luận chương 1

27


1.2.

1.3.
1.3.1.
1.4.
1.4.1.
1.4.2.
1.5.
1.6.

Chương 2

2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.4.
2.4.1.
2.4.2.

CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở
TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG
XUYÊNHUYỆN ĐÔNG SƠN, TỈNH THANH

HOÁ
Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của huyện
Đông Sơn
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Trung
tâm Giáo dục thường xuyên huyện Đông sơn
Quá trình hình thành
Công tác phát triển trường lớp tại Trung tâm Giáo dục
thường xuyên huyện Đông Sơn
Công tác tổ chức, quản lý đào tạo
Về chất lượng đào tạo
Thực trạng về chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trung
tâm Giáo dục thường xuyên huyện Đông Sơn
Cơ câu đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ giáo viên
Đánh giá chung về thực trạng
Những thuận lợi
Những hạn chế

14
14
20
20

25

31

32
34
34

34
35
36
39
39
39
48
48
50


BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT CÓ TRONG LUẬN VĂN
BD
BTVH
BTTHPT

Bồi dưỡng
Bổ túc văn hóa
Bổ túc trung học phổ thông

CL
CNH-HĐH

Chất lượng
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá

CNTT

Công nghệ thông tin


CBQL

Cán bộ quản lý

CSVC

Cơ sở vật chất

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GV
HS

Giáo viên
Học sinh

KN

Kỹ năng

NCKH

Nghiên cứu khoa học

KT-XH

Kinh tế - xã hội


PPDH

Phương pháp dạy học

PTDH

Phương tiện dạy học

QLCL

Quản lý chất lượng

SGK

Sách giáo khoa


TBDH

Thiết bị dạy học

THCS

Trung học cơ sở

XHH

Xã hội hoá



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”[11], là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, là yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trong công tác giáo dục,
đào tạo, đội ngũ giáo viên là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định
đến chất lượng giáo dục, đào tạo. Vì vậy, ngày 11/01/2005, Thủ tướng Chính
phủ đã ra quyết định số 09/QĐ-CP phê duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD giai đoạn 2005 - 2010”, với mục tiêu
tổng quát là: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và CBQLGD theo hướng chuẩn
hoá, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc
biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương
tâm nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao của sự nghiệp giáo dục trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước”. QĐ 09/QĐ-CP đưa ra các nhiệm vụ chủ yếu: “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng để tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
CBQLGD. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn xã
hội về vai trò trách nhiệm của nhà giáo và nhiệm vụ xây dựng đội ngũ nhà
giáo, CBQLGD có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, trong sáng
về đạo đức, tận tụy về nghề nghiệp, làm trụ cột thực hiện các mục tiêu nâng
cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực”.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam từ khi ra đời cho đến
nay rất quan tâm xây dựng đội ngũ nhà giáo. Ngay từ những ngày đầu của nền
giáo dục mới, Đảng và Nhà nước ta đã xem đội ngũ nhà giáo là những chiến
sĩ cách mạng trên mặt trận tư tưởng văn hoá. Đội ngũ này có trách nhiệm
truyền bá cho thế hệ trẻ lý tưởng và đạo đức cách mạng chân chính, hệ thống



2
các giá trị, tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại, bồi dưỡng cho họ
những phẩm chất cao quí và năng lực sáng tạo, phù hợp với sự phát triển và
tiến bộ xã hội. Giáo viên với vai trò của nhà giáo dục được xem là nhân tố
quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội tôn vinh. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những
thế hệ sau này, tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo, là người vẻ
vang nhất”[25, tr.331].
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục; trước đòi hỏi bức thiết của thực tiễn phát triển đất nước trong điều
kiện mới, Nghị quyết về giáo dục của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam số 37/2004/QH11 nêu rõ: “phải tập trung xây dựng đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt
chuẩn về trình độ đào tạo”.
Trong điều kiện phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện
đại hóa, cần phải có một đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đặt ra. Đó là giáo dục
thế hệ trẻ phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và lòng
say mê nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, kiên định đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Một trong những điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục là chất
lượng và động lực dạy học của giáo viên, vì giáo viên là lực lượng có ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục. Do đó muốn có chất lượng giáo dục
tốt trước hết phải xây dựng phát triển và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên vừa đáp
ứng về mặt số lượng vừa phải có chất lượng cao, phải tạo ra được nguồn nhân
lực đáp ứng những yêu cầu của đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Thực trạng công tác quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá hiện nay chưa tốt do rất



3
nhiều nguyên nhân như: Năng lực sư phạm của một bộ phận giáo viên còn hạn
chế, nhất là đối với giáo viên trẻ mới ra trường; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của đội ngũ giáo viên chưa cao, chưa đồng đều; một số giáo viên còn thiếu kiến
thức bổ trợ về ngoại ngữ và tin học; Mặt khác, một bộ phận giáo viên chưa thật
sự có tâm huyết với nghề, chưa có ý thức trong việc trao đổi chuyên môn nghiệp
vụ, tinh thần trách nhiệm chưa cao, ít quan tâm đến cảm nhận của học sinh.
Trong khi đó việc đào tạo bổ túc văn hóa (BTVH) đang gặp rất nhiều khó khăn:
Do số lượng học viên đầu vào ít, tuyển sinh không đủ chỉ tiêu, chất lượng đầu
vào lại rất kém. Số lượng học viên cần xoá mù không nhiều; công tác đào tạo
nghề triển khai không thuận lợi. Điều này do nhiều nguyên nhân, song nguyên
nhân chủ quan, cơ bản nhất vẫn là thiếu đội ngũ giáo viên có chất lượng, đủ sức
“giữ chân “và tạo sức hút đối với học viên.
Trong tình hình đó, việc tăng cường về số lượng và nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ cấp bách đối với các nhà quản lý tại
trung tâm..
Để góp phần giải quyết từng bước những khó khăn trên, đồng thời để
nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo, thì việc đưa ra một
số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trung tâm
GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá, là hết sức cần thiết.
Trong thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở các trung tâm GDTX. Tuy nhiên, mỗi địa
phương có đặc điểm và điều kiện kinh tế xã hội khác nhau, nên việc đưa ra
một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở trung
tâm GDTX cũng có những nét đặc thù và sắc thái riêng.
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Một
số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trung tâm Giáo dục
thường xuyên huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá”



4
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác nâng cao đội ngũ giáo viên ở trung tâm GDTX
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trung tâm
GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hoá sẽ được nâng cao nếu xây dựng được một hệ thống các giải
pháp khoa học, phù hợp với thực tiễn và được thực hiện đồng bộ các giải
pháp đó.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tìm hiểu cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên ở các trung tâm GDTX.
- Nghiên cứu tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng đội
ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
- Nghiên cứu đề xuất xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, nghị quyết về công tác nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên của Đảng và Nhà nước.
- Tìm hiểu các công trình nghiên cứu, các bài viết có liên quan đến đề tài.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn



5
- Nghiên cứu kế hoạch hoạt động, hồ sơ chuyên môn, hồ sơ quản lý của
Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
- Quan sát quá trình dạy - học của giáo viên và học sinh ở Trung tâm
GDTX huyện Đông Sơn..
- Điều tra hoạt động thực tiễn, khảo sát thực tế cơ sở vật chất, đội ngũ
giáo viên và cơ chế làm việc ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, của Ban giám đốc, cán bộ cốt
cán, giáo viên, học sinh trong trung tâm; lập các phiếu điều tra đã được chuẩn
bị trước để thu thập dữ liệu.
6.3. Phương pháp xử lý số liệu
Căn cứ vào số liệu thống kê hàng năm của phòng GD&ĐT huyện Đông
Sơn, Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, so sánh với các trung tâm GDTX
thuộc một số huyện trong tỉnh Thanh Hoá để kiểm chứng, nhận định, đánh giá
kết quả. Áp dụng các công cụ hỗ trợ của tin học, toán học thống kê… để xử lý
số liệu khảo sát.
7. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận của nâng cao chất
lượng đội ngũ giáo viên nhằm vận dụng ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn
và các trung tâm GDTX có điều kiện tương tự.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên ở Trung tâm GDTX huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
các trung tâm giáo dục thường xuyên.


6

Chương 2: Cơ sở thực tiễn của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở Trung
tâm Giáo dục thường xuyên huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá.


7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN Ở TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Khổng Tử (551 - 479 TCN) nhà giáo dục nổi tiếng của Trung Quốc cổ
đại đã đánh giá rất cao vai trò của giáo dục đối với sự phát triển xã hội và phát
triển nhân cách, đồng thời Ông đã để lại nhiều tư tưởng lớn về xây dựng đội
ngũ nhà giáo (Trong “Luận ngữ”, Khổng Tử).
Khổng Tử chủ trương thực thi giáo dục đối với tất cả mọi người: làm cho ai
ai cũng biết cương thường, người người đều hiểu đạo lý; “Hữu giáo vô loại” (Mọi
người đều được giáo dục); muốn vậy phải có những người thầy có tài, có đức để
tiến hành giáo dục, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa phương. Ông nói
rằng: “Từ người đem một gói nem trở lên ta chưa từng không dạy ai” (Thuật nhi).
Bản thân Khổng Tử là một thầy giáo, hơn hai phần ba cuộc đời làm nghề dạy
học. Ông là một người thầy mẫu mực, được nhân dân Trung Quốc qua các
thời đại tôn vinh là “Vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời). Theo
Khổng Tử, đối với người thầy giáo phải coi trọng cả đức dục và trí dục, đồng
thời kết hợp chặt chẽ giữa đức dục và trí dục trong dạy học; đối với người
thầy giáo cần có thái độ khiêm tốn và tinh thần ham học: “Học nhi bất yếm”
(Học không biết chán). “Phát phẫn vong thực” (Phân phát đạo lý đến quên
ăn). “Giáo học tương trưởng” (Người dạy và người học tương tác thúc đẩy
nhau phát triển). Người thầy giáo phải quan tâm đến học trò, am hiểu học trò:

Tận tâm, tận lực, “Hối nhân bất quyện” (Dạy không biết mỏi); Làm gương
cho học trò: “Dĩ thân tác tắc” (Lấy bản thân làm gương). “Thân giáo trọng ư
ngôn giáo” (Dạy bằng cách làm gương hơn dạy bằng lời nói)...


8
Khổng Tử không chỉ là một nhà triết học tiêu biểu mà còn là nhà giáo
dục vĩ đại, xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn giáo dục. Nhiều tư
tưởng của Ông về giáo dục nhất là về người thầy còn có giá trị quý báu đối
với thời đại ngày nay.
Nghiên cứu giáo dục thời kỳ văn hoá cận đại phương Tây (trước cách
mạng tư sản Pháp - 1789), ta thấy có nhà giáo dục tiêu biểu người Cộng hoà
Séc J.A.Kômenxki (1592 - 1670). Kômenxki đề cao vai trò to lớn của giáo
dục, của nhà trường trong việc hình thành, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách
con người mà Ông gọi là “xưởng rèn nhân cách”. “Hạnh phúc thay một dân
tộc có nhiều trường học tốt, sách giáo khoa tốt, nhiều cơ quan giáo dục và
nhiều phương pháp giáo dục tốt của xã hội”. Ông nhấn mạnh giáo dục cho
mỗi người để họ trở thành con người theo đúng nghĩa con người. Nhà trường
là cái xưởng chế tạo ra nhân đạo, ra hạnh phúc, ra con người chân chính.
Kômenxki quý trọng, đề cao và tôn vinh nghề dạy học và chức vị giáo sư
(giáo viên). Ông quan niệm người thầy giáo là “người nặn tượng cao cả” bởi
những cống hiến của họ cho sự nghiệp trồng người. Với vị trí chức năng của
nghề dạy học, Ông yêu cầu người thầy phải mẫu mực, trong sáng về đạo đức
và tác phong cũng như năng lực chuyên môn giỏi để đáp ứng yêu cầu nghề
nghiệp đòi hỏi và cũng là lương tâm, trách nhiệm, uy tín của người thầy giáo.
Sau khi cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô Viết
non trẻ đứng trước muôn vàn thử thách, vừa xây dựng đất nước vừa chống lại
thù trong, giặc ngoài. Lênin đã thấy được vai trò to lớn của giáo dục, vai trò
của nhà trường đối với sự nghiệp đấu tranh cách mạng và xây dựng Chủ nghĩa
xã hội. Lênin viết: “Trong lĩnh vực giáo dục quốc dân, Đảng cộng sản Nga tự

đặt cho mình nhiệm vụ phải hoàn thành sự nghiệp mà Cách mạng Tháng
Mười 1917 đã bắt đầu nhằm biến nhà trường từ một công cụ thống trị của giai


9
cấp tư sản thành công cụ để đập tan nền thống trị đó, cũng như để hoàn toàn
xoá bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp” [21]..
Lênin đánh giá cao vị trí xã hội và vai trò của người thầy trong sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ cũng như trong công cuộc cách mạng văn hoá,
khoa học kỹ thuật. Ông khẳng định: “Giáo viên có nhiệm vụ truyền bá giáo
dục, trước hết phải trở thành đội quân chủ yếu của sự nghiệp giáo dục xã hội
chủ nghĩa, phải giải phóng cuộc sống, tri thức khỏi sự phụ thuộc giai cấp tư
sản, khỏi sự đô hộ của giai cấp bóc lột. Thầy giáo phải hòa mình vào cuộc đấu
tranh của quần chúng. Ngành sư phạm phải có trách nhiệm tổ chức hoạt động
của giáo giới theo yêu cầu của xã hội xã hội chủ nghĩa”. [21].
Lênin rất quan tâm đến công tác quản lý phát triển đội ngũ nhà giáo.
Trong bài phát biểu về “Công tác của Bộ giáo dục dân uỷ” , Lênin yêu cầu
đối với các cấp bộ Đảng phải chăm lo giáo viên, lôi cuốn họ, tổ chức họ, cán
bộ Đảng phải lắng nghe ý kiến của giáo giới, tổng kết kinh nghiệm của họ
trong công tác giáo dục. Người kết luận: “Cán bộ lãnh đạo, đảng viên chỉ
chứng minh được quyền lực lãnh đạo của mình thông qua việc người đó có
tìm thấy được cho mình nhiều, ngày càng nhiều trợ thủ trong hàng ngũ những
nhà sư phạm và thông qua đó biết giúp đỡ các nhà giáo làm việc, biết động
viên, tổ chức họ, tổ chức tổng kết kinh nghiệm của họ hay không”. [22].
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Đất nước ta có một nền văn hiến lâu đời, một truyền thống giáo dục từ lâu
đã ăn sâu bám rễ trong các cộng đồng làng, xã. Lịch sử dân tộc Việt Nam cũng
ghi nhận những đóng góp to lớn của các thế hệ nhà giáo đã cùng toàn thể nhân
dân trong cuộc đấu tranh dựng nước, giữ nước và bảo vệ bản sắc văn hoá dân
tộc. Với truyền thống hiếu học từ ngàn xưa, nhân dân ta luôn dành cho những

người thầy giáo tình cảm quý mến, kính trọng. Người thầy giáo luôn là tấm
gương để mọi người noi theo, được xã hội tôn vinh.


10
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của giáo viên và luôn dành
cho đội ngũ nhà giáo những tình cảm đặc biệt. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục, không có giáo dục, không
có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hoá”. “Dù là tên tuổi không
đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy
giáo tốt là những anh hùng vô danh”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường
dặn dò, động viên đội ngũ nhà giáo: “Các thầy giáo có nhiệm vụ nặng nề và
vẻ vang là đào tạo cán bộ cho dân tộc...Thầy thi đua dạy, trò thi đua học”.
Nhà giáo phải phát huy tinh thần học tập không ngừng. Người vẫn thường
dẫn lại câu nói của Khổng Tử “Học không biết chán, dạy không biết mỏi” và
lời dạy của Lênin “Học, học nữa, học mãi” để nhắc nhở các thầy, cô giáo
“dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt...phải
phấn đấu nâng cao chất lượng văn hoá và chuyên môn...”. Bác Hồ khuyên
cán bộ và giáo viên “chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại, mà dừng
lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng học
tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào
việc cải tạo xã hội”. Đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Chính
phủ, các địa phương, các cấp, các ngành phải chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên. [25], [26].
Phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc, kế tục tư tưởng Hồ Chí
Minh về người giáo viên, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục, đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo.
Ngoài sự quan tâm của Bác, của Đảng về đội ngũ nhà giáo thì ở trong
nước có nhiều công trình nghiên cứu như: Tiến sĩ Vũ Bá Thể đã đưa ra một số
giải pháp phát triển nguồn nhân lực để CNH - HĐH đất nước trong giai đoạn

đến năm 2020. Trong đó có những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển GD phổ
thông “Xây dựng đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu về số lượng, ổn định theo


11
vùng, đồng bộ về cơ cấu”, “Nâng cao chất lượng đội ngũ GV, đổi mới CTQL
và đào tạo CB QLGD phổ thông”.
GS.VS. Phạm Minh Hạc trong “GD Việt Nam trước ngưỡng của thế
kỷ XXI” đã khẳng định: “đội ngũ GV là một yếu tố quyết định sự phát triển
sự nghiệp GD&ĐT và đã đưa ra những chuẩn quy định đào tạo GV” [14].
Hay như trong luận án tiến sĩ: “Các biện pháp phát triển đội ngũ giáo
viên trung học cơ sở trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
của tác giả Lê Khánh Tuấn; luận văn thạc sĩ “Các biện pháp xây dựng phát
triển đội ngũ giáo viên trung học cơ sở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ giai
đoạn 2007-2015” của tác giả Hoàng Minh Chí…
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm về giáo viên, đội ngũ giáo viên
1.2.1.1. Khái niệm giáo viên
Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới đội ngũ giáo viên. Luật giáo
dục đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời năm 1998
có hiệu lực từ ngày 01/6/1999 đã có vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và
trong hệ thống pháp luật quốc gia. Sau 11 năm thực hiện, trước những yêu
cầu và thay đổi to lớn của xã hội cũng như những điểm không còn phù hợp
với thực tiễn. Chính vì vậy Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 ngày 14 tháng 6
năm 2005 đã thông qua luật giáo dục năm 2005 thay thế luật giáo dục năm
1998, trong đó khẳng định tầm quan trọng của giáo dục - đào tạo và coi: “Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”[32] và đã xác định rõ:
Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường,
cơ sở giáo dục khác.
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:

• Phẩm chất, tư tưởng, đạo đức tốt;
• Đạt trình độ chuẩn được đào tạo và chuyên môn, nghiệp vụ;


12
• Đủ sức khoẻ theo yêu cầu nghề nghiệp
• Lý lịch bản thân rõ ràng.
Khoản 2 điều 70 của luật giáo dục năm 2005 quy định: “Nhà giáo giảng
dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp gọi
là giáo viên; ở cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [32].
Theo Từ điển tiếng Việt “Giáo viên là người dạy học ở bậc phổ thông
hoặc các trường dạy nghề và trung cấp chuyên nghiệp”[44] .
Như vậy, nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục
trong nhà trường hoặc các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân
nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục là truyền tải tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ
xảo, xây dựng, hình thành và phát triển nhân cách cho người học đáp ứng với
yêu cầu nhân lực của thị trường lao động và của phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.1.2. Khái niệm đội ngũ giáo viên
Đội ngũ GV là tập thể những người trực tiếp tham gia giảng dạy. Đội ngũ
GV trong một nhà trường là lực lượng chủ yếu để tổ chức quá trình giáo dục trong
nhà trường. Chất lượng đào tạo cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ GV.
Một đội ngũ GV tâm huyết với nghề nghiệp, có đủ phẩm chất và năng lực thì đây
chính là lực lượng quan trọng đóng góp tích cực vào thành tích chung của trường.
Vì vậy người quản lý nhà trường hơn ai hết phải thấy rõ vai trò của đội ngũ GV để
củng cố và xây dựng lực lượng đó ngày càng vững mạnh.
1.2.2. Khái niệm chất lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên.
1.2.2.1. Khái niệm chất lượng
Khái niệm về chất lượng: “ Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
một con người, một sự việc, sự vật”, hoặc là “cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho
sự vật này khác sự vật kia” [30]. Theo TCVN ISO 8402: Chất lượng là tập hợp các

đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đó có khả năng thỏa mãn
những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn.


13
1.2.2.2. Khái niệm chất lượng đội ngũ giáo viên
Chất lượng đội ngũ: Trong lĩnh vực GD chất lượng đội ngũ GV với đặc
trưng sản phẩm là con người có thể hiểu là các phẩm chất, giá trị nhân cách và năng
lực sống và hoà nhập đời sống xã hội, giá trị sức lao động năng lực hành nghề của
người GV tương ứng với mục tiêu đào tạo của từng bậc học ngành học trong hệ
thống giáo dục quốc dân.
Chất lượng đội ngũ GV được thể hiện ở 3 lĩnh vực:
• Trình độ tư tưởng, lí luận, bản lĩnh chính trị.
• Trình độ kiến thức cơ bản, nghiệp vụ sư phạm.
• Trình độ kỹ năng nghề nghiệp.
1.2.3. Khái niệm giải pháp, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên
1.2.3.1. Khái niệm giải pháp
Nghĩa chung nhất của giải pháp là cách giải quyết một vấn đề, một
công việc nào đó nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.3.2. Khái niệm giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên
Giải pháp QLGD là loại giải pháp hành chính nhằm giải quyết một vấn
đề nào đó trong công tác QLGD để chủ thể quản lý tác động đến đối tượng
quản lý theo mục tiêu đào tạo của nhà trường.
Như vậy, giải pháp quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên cũng là giải
pháp QLGD nhưng nó hướng vào một đối tượng, hoạt động cụ thể, đó chính
là công tác quản lý chất lượng cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường. Hoạt
động này cần phải thực hiện nghiêm túc từ khâu lập kế hoạch, triển khai thực
hiện, giám sát thực hiện cho đến công đoạn kiểm tra, đánh giá kết quả thực
hiện.

1.2.3.3. Khái niệm giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở
trung tâm giáo dục thường xuyên


14
Theo từ điển Tiếng Việt giải pháp là: “phương pháp giải quyết một vấn
đề cụ thể nào đó” [44].. Như vậy nói đến giải pháp là nói đến những cách thức
tác động nhằm thay đổi chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng
thái nhất định…, tựu chung lại, nhằm đạt được mục đích hoạt động. Giải pháp
càng thích hợp, càng tối ưu càng giúp con người nhanh chóng giải quyết
những vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, để có được những giải pháp như vậy, cần
phải dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn đáng tin cậy.
Giải pháp nâng cao chất lượng GV là những cách thức tác động hướng
vào việc tạo ra những biến đổi về chất lượng đội ngũ GV.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ GV có ý nghĩa rất quan trọng bởi đội
ngũ GV là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục.
Như vậy, theo tác giả: “Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV ở
trung tâm giáo dục thường xuyên là những cách thức tác động nhằm tạo ra
những biến đổi tích cực về Phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị
1.3. Một số vấn đề lý luận về nâng cao chất lượng đội ngũ đội ngũ giáo
viên ở các trung tâm giáo dục thường xuyên
1.3.1. Những yêu cầu đối với người giáo viên ở các trung tâm giáo dục
thường xuyên
1.3.1.1. Vai trò của người giáo viên ở các trung tâm giáo dục thường xuyên
Mục tiêu và nhiệm vụ của giáo dục nước ta hiện nay là nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Phát triển GD&ĐT sẽ tạo ra động
lực phát triển trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong đó nhân tố con
người (đội ngũ GV) đóng vai trò chủ đạo quyết định chất lượng giáo dục.
Đánh giá vai trò của người thầy trong sự nghiệp giáo dục hiện nay,
Đảng ta khẳng định “GV là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được

xã hội tôn vinh, trong sự nghiệp đổi mới giáo dục vị trí vai trò của GV phải
nâng lên một tầm cao mới”.[1]


15
Với những đặc điểm nổi bật: Sự bùng nổ của tri thức, khoa học và công
nghệ; sự xuất hiện một thế giới phụ thuộc lẫn nhau; sự đối mặt với những vấn
đề lớn có tính toàn cầu, vượt ra ngoài phạm vi mỗi quốc gia, của từng khu vực
như dân số và môi trường…
“Con người là trung tâm của sự phát triển, một xã hội phát triển dựa
vào sức mạnh của tri thức, bắt nguồn khai thác tiềm năng của con người, lấy
việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản của sự phát triển
nhanh chóng và bền vững. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển. Việc đặt con người vào trung tâm của sự phát triển khiến cho giáo
dục phải rà soát lại nhận thức về mục tiêu: Từ chỗ “học để biết” sang nhấn
mạnh “học để làm”, rồi “học để cùng chung sống”, “học để khẳng định
mình”, có nghĩa là khuyến khích sự phát triển đầy đủ nhất tiềm năng sáng tạo
của mỗi con người. “Vì lợi ích của bản thân và vì tương lai của dân tộc, giáo
dục phải là công cụ vừa cho cá nhân, vừa cho tập thể nhằm xây dựng nguồn
lực con người thành động lực cho sự phát triển bền vững”[16].
Xu thế đổi mới giáo dục của thế kỷ 21 đang đặt ra những yêu cầu mới
về phẩm chất, năng lực và làm thay đổi vai trò, chức năng của người GV.
Công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng, tạo ra những phương tiện,
phương pháp giao lưu mới, tạo cơ hội cho mọi người có thể học dưới nhiều
hình thức theo khả năng và điều kiện cho phép. Giáo dục nhà trường không
còn là nguồn thông tin duy nhất đem đến cho HS các tri thức mới mẻ của loài
người mà HS có thể tiếp nhận thông tin khoa học từ các nguồn khác như:
phần mềm dạy học, Internet, truyền hình. Tuy nhiên, giáo dục nhà trường
dưới sự chỉ đạo của GV vẫn là con đường đáng tin cậy và hiệu quả nhất giúp
cho thế hệ trẻ tiếp thu có mục đích, có chọn lọc và có hệ thống những

tinh hoa di sản văn hóa, khoa học, nghệ thuật của loài người và của dân tộc.


16
Ngày nay khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã và đang đem lại nhiều
biến đổi nhanh chóng trong đời sống kinh tế - xã hội thì GV không chỉ đóng
vai trò truyền đạt các tri thức khoa học mà còn phải phát triển những cảm xúc,
thái độ, hành vi và đảm bảo cho người học biết ứng dụng hợp lý những tri
thức đó vào thực tiễn cuộc sống. Giáo dục phải quan tâm đến sự phát triển của
người học ý thức về các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ tạo nên bản sắc tốt
đẹp của loài người, vừa kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống, vừa
sáng tạo những giá trị mới, thích nghi với thời đại mới. Về mặt này, không có
gì có thể thay thế vai trò của người GV.
Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển nhanh và nước ta đang
tiến hành CNH, HĐH, người GV phải được đào tạo ở trình độ học vấn cao,
không chỉ về khoa học tự nhiên, kỹ thuật, công nghệ mà còn phải được đào
tạo cả về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học giáo dục. Người GV phải có
ý thức, nhu cầu và khả năng không ngừng tự hoàn thiện, phát huy tính độc
lập, chủ động, sáng tạo trong hoạt động sư phạm cũng như biết phối hợp nhịp
nhàng với tập thể sư phạm nhà trường trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
Ngày nay phương pháp dạy học đang chuyển từ phương pháp dạy học
lấy người dạy làm trung tâm sang phương pháp dạy học lấy người học làm
trung tâm, từ cách dạy thông báo đồng loạt, học tập thụ động sang cách dạy
phân hóa, học tập tích cực. GV không còn đóng vai trò chính là người truyền
đạt kiến thức mà là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn, trọng tài cho
các hoạt động tìm tòi, tranh luận của HS. Sự thay đổi này đã phát huy vai trò
chủ động, tích cực, sáng tạo của HS, song không phải vì vậy mà vai trò của
GV bị giảm xuống mà ngược lại vẫn được nâng lên. Kinh nghiệm nghề
nghiệp của mỗi người GV cho biết thực hiện một tiết dạy theo kiểu thuyết
trình, độc thoại thì dễ hơn dạy một tiết học theo phương pháp tích cực, trong

đó GV tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc hình thành ở HS nhân


×