Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Tiếng Anh tại trường Cao đẳng sư phạm Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.53 KB, 102 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH THỊ LỆ TRANG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH
TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NINH
THUẬN, TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Nghệ An – 2013


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

HUỲNH THỊ LỆ TRANG

MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC MÔN TIẾNG ANH
TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NINH
THUẬN, TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC


MÃ SỐ: 60.14.05
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGÔ SỸ TÙNG
NGHỆ AN


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang thế kỷ XXI, hòa cùng xu thế phát triển chung của thế giới,
nước ta đã và đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, với yêu cầu
ngày càng cao về chất lượng và quản lý chất lượng trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội. Thực hiện chủ trương đổi mới giáo dục và đào
tạo theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định "Đổi
mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế
quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt” và “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam”. Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội 2011-2020 đã định hướng: “Phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến
lược”. Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 nhằm quán triệt và cụ thể
hóa các chủ trương, định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo, góp phần thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 của đất nước.
Đảng và nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục vừa là mục
tiêu vừa là động lực để phát triển kinh tế-xã hội. Cùng với sự phát triển chung
nền giáo dục của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về

giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu. Sự phát triển của đất nước sẽ tạo ra nhiều
cơ hội và thuận lợi to lớn, đồng thời cũng phát sinh nhiều thách thức đối với
sự nghiệp phát triển giáo dục. Vậy, làm thế nào để tiếp nhận và phát triển giáo
dục trong làn sóng toàn cầu hóa? Đây chính là câu hỏi mà nhiều người đang
đặt ra đối với các nhà lãnh đạo và các cán bộ quản lý giáo dục hiện nay. Để


4

thực hiện chiến lược này thì công tác quản lý giáo dục và đào tạo mà cụ thể là
quản lý việc dạy học là một trong những vấn đề quan trọng được quan tâm. Vì
quản lý giáo dục và đào tạo chính là quản lý việc thực hiện các chủ trương
chính sách giáo dục quốc gia, nâng cao hiệu quả đầu tư cho giáo dục, chú ý
thực hiện các mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt quản
lý giáo dục và đào tạo được coi là khâu then chốt nhằm bảo đảm thắng lợi của
mọi hoạt động giáo dục. Ngày nay quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cho giáo
dục nước ta những thách thức lớn, trong đó việc dạy và học ngoại ngữ giữ vị
trí và vai trò quan trọng. Ngoại ngữ là một công cụ giao tiếp, là phương tiện
để thực hiện đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Việc dạy và học ngoại ngữ được Đảng
và Nhà nước ta quan tâm và đầu tư từ nhiều năm nay. Ở các trường phổ
thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học, ngoại ngữ trở thành một
trong những môn không thể thiếu trong chương trình. Tại các trường cao
đẳng, đại học, bên cạnh các ngành chuyên ngữ, ngoại ngữ không chuyên được
đưa vào giảng dạy cho các ngành khoa học khác. Ngoại ngữ được các giáo
viên và sinh viên sử dụng như phương tiện học tập và nghiên cứu trong lĩnh
vực chuyên môn của mình, là phương tiện giao tiếp để mở rộng sự hiểu biết
và hội nhập quốc tế.
Trong nhiều năm qua, Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận đã đào
tạo hàng ngàn sinh viên có trình độ cử nhân đáp ứng phần nào nhu cầu nguồn
nhân lực cho tỉnh nhà, môn ngoại ngữ mà Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh

Thuận sử dụng để giảng dạy và học tập là môn tiếng Anh, đây là môn học có
tầm đặc biệt quan trọng vì nó là ngôn ngữ mà phần lớn mọi người trên thế
giới sử dụng và nó trở thành ngôn ngữ quốc tế. Tuy nhiên, sinh viên chuyên
ngữ sau khi ra trường vẫn còn một số chưa đáp ứng được nhu cầu giảng dạy,
những sinh viên không chuyên ngữ thì phần lớn chưa sử dụng được tiếng
Anh. Cộng vào đó, Ninh Thuận hiện nay đang trên đà phát triển, để chuẩn bị
cho việc sắp xây dựng công trình quốc gia đó là hai nhà máy điện hạt nhân và


5

Tỉnh cũng đang chú trọng, đầu tư cho phát triển du lịch. Hiện tại có nhiều du
khách trong và ngoài nước đến tham quan Ninh Thuận và càng ngày càng
nhiều hơn, chính vì thế nhà trường đang có định hướng mở các lớp tiếng Anh
du lịch, tiếng Anh thương mại, tiếng Anh khách sạn - nhà hàng….
Tuy nhiên, hiện nay chúng tôi nhận thấy có quá ít công trình chuyên
sâu nghiên cứu về công tác đào tạo tiếng Anh nói chung và đặc biệt chưa có
công trình nào nghiên cứu về công tác quản lý giảng dạy tiếng Anh trên địa
bàn tỉnh Ninh Thuận, mà muốn nâng cao chất lượng hoạt động dạy và học
môn tiếng Anh thì công tác quản lý giảng dạy tiếng Anh là một khâu cực kỳ
quan trọng. Đặc biệt tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận là đơn vị tôi
đang công tác tôi mong muốn chất lượng dạy và học môn tiếng Anh của nhà
trường ngày càng cao và công tác quản lý giảng dạy tiếng Anh ngày càng
tốt.... Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp quản lý hoạt động
dạy học môn tiếng Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, tỉnh
Ninh Thuận.” làm luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động
dạy học môn tiếng Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh của Trường Cao
đẳng Sư phạm Ninh Thuận.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại Trường Cao
đẳng Sư phạm Ninh Thuận.
4. Giả thuyết khoa học


6

Nếu đề xuất và thực hiện được các biện pháp quản lý có tính khoa học
và khả thi thì sẽ nâng cao chất lượng hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý họat động dạy học nói chung và
quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở Trường Cao đẳng nói riêng.
- Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.
- Đề xuất và thăm dò tính cần thiết và khả thi của một số biện pháp
quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm
Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu công tác quản lý hoạt động dạy học môn
tiếng Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận năm học 2011-2012 và
2012-2013. Các biện pháp được đề xuất áp dụng cho giai đoạn 2013-2016 và
kế tiếp.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận

Phương pháp phân tích-tổng hợp tài liệu; phân loại hệ thống hóa và cụ
thể hóa các tài liệu lý luận có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề
tài.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra; phương pháp tổng kết kinh nghiệm quản lý;
phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động; phương pháp lấy ý kiến
chuyên gia nhằm xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài.
6.3. Phương pháp thống kê toán học.


7

Sử dụng xác suất thống kê trong việc xử lí số liệu và trong việc tính
phần trăm tỷ lệ các thông số.
7. Những đóng góp của đề tài
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận của quản
lý, quản lý hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh ở
các trường Cao đẳng.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động
dạy học môn tiếng Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, giúp cho
công tác quản lý dạy học môn tiếng Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh
Thuận, tỉnh Ninh Thuận đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời kỳ hội nhập.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh
tại Trường Cao đẳng.
- Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh tại
Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.
- Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng

Anh tại Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận, tỉnh Ninh Thuận.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC


8

MÔN TIẾNG ANH Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Ở phương Tây cổ đại cũng có nhiều nhà triết học quan tâm đến vấn đề
quản lý (QL). Tiêu biểu trong số đó có Socrate (thế kỷ IV-III tr.CN), Platon
(427-347 tr.CN). Ông cho rằng, muốn cai trị nước phải biết đoàn kết dân lại
và phải vì dân. Tiêu chuẩn của người đứng đầu phải là người ham hiểu biết,
trung thực, tự chủ, điều độ, ít tham vọng về vật chất và phải được đào tạo kỹ
lưỡng;
Thời kỳ cận đại chứng kiến sự bùng nổ của các nhà nghiên cứu khoa
học quản lý và làm cho nó ngày càng hoàn thiện mà tiêu biểu có Chales
H.Fayol (1841-1925), Elton Mayor (1850-1947). Được mệnh danh “Ông tổ
của nền sư phạm cận đại ”, J.A. Cômenski, người đã đặt nền móng cho lý
luận dạy học tiên tiến, đã trở thành nhà thiên tài lỗi lạc về giáo dục của mọi
thời đại. Những quan điểm, tư tưởng về xã hội, về giáo dục, về tự do, bình
đẳng, nhân văn và hòa bình….của ông vẫn còn nguyên giá trị và tính thuyết
phục rất cao cho chúng ta hôm nay;
Những công trình ở ngoài nước về lĩnh vực này có thể kể đến: V.A
Xukhomlinxki trong “Một số kinh nghiệm lãnh đạo của hiệu trưởng trường
phổ thông”; Jaxapob trong “Tổ chức lao động của người hiệu trưởng”;
P.V.Zimin, M.I.Kôndakốp, N.I.Saxerđôlốp trong “Những vấn đề quản lý
trường học”.…Các nhà nghiên cứu giáo dục Nga khẳng định: Kết quả toàn

bộ hoạt động QL của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức
đúng đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ GV;
Tác giả P.V.Zimin, M.I.Kôndakốp, N.I.Saxerđôlốp đi sâu nghiên cứu
lãnh đạo công tác giảng dạy, giáo dục nhà trường và xem đây là khâu then
chốt trong hoạt động QL;


9

Tác giả V.A.Xukhomlinxki, V.P.Xtrezicondin, Jaxapob đã nghiên cứu
và đề ra một số vấn đề quản lý của hiệu trưởng trường phổ thông như phân
công giữa hiệu trưởng và phó hiệu trưởng. Các tác giả thống nhất khẳng
định nguời hiệu trưởng là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm
trong công tác quản lý nhà trường. Điều đó sẽ tránh được sự giẫm đạp lên
công việc của nhau đồng thời tránh được tình trạng buông lơi một số công
việc trong hoạt động của nhà trường. V.A.Xukhomlinxki đặc biệt coi trọng sự
trao đổi giữa hiệu trưởng và phó hiệu trưởng để tìm ra biện pháp quản lý tốt
nhất. Tác giả cho rằng: “Trong những cuộc trao đổi này như đòn bẩy đã nảy
sinh ra những dự định mà sau này trong công tác quản lý được phát triển
trong lao động sáng tạo của tập thể sư phạm”;
Có rất nhiều nhà khoa học ở nước ngoài đã công bố những công trình
nghiên cứu, sách, giáo trình về quản lý giáo dục, quản lý nhà trường. Có thể
kể đến những tác giả như Fred C. Lunenburg và Allan C. Ornstein với cuốn
“Educational Administration – concepts and Practices” đã đi sâu phân tích
các khái niệm quản lý giáo dục, các khái niệm và thực hành quản lý giáo dục
(QLGD); [29]
Hai tác giả Peter Earley và Dick Weindling với “Understanding
School Leadership” đã dẫn dắt chúng ta hiểu về sự lãnh đạo trong nhà
trường, lãnh đạo giáo dục; [34]
Tác giả J. Dunham với “Developing Effective School Management”,

tác giả đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của quản lý giáo dục như khái
niệm quản lý giáo dục, lãnh đạo giáo dục, các nguyên tắc và phương pháp
quản lý giáo dục hiệu quả; [31]
Nick Foskett và Jacky Lumby với “Leading and Managing Education International Dimensions” tác phẩm này khái quát hầu hết các nội dung, các
lĩnh vực trong quản lý giáo dục. Bên cạnh đó các tác giả cũng đã có đề cập


10

khá sâu đến công tác quản lý nhà trường, quản lý học sinh, quản lý và lãnh
đạo giáo dục các phương diện quốc tế. [32]
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Nói đến giáo dục Việt Nam không thể không nói đến Chủ tịch Hồ Chí
Minh (1890-1969), một trong những danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân
loại. Kế thừa và phát huy tinh hoa tư tưởng giáo dục tiên tiến với truyền thống
văn hóa quý báu của nhân loại, đồng thời vận dụng sáng tạo phương pháp
luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, Người đã để lại cho chúng ta một kho báu về
những lý luận về vai trò của giáo dục, định hướng phát triển giáo dục, vai trò
của QL và QLGD....làm nền tảng cho nền lý luận giáo dục Cách mạng Việt
Nam;
Nền giáo dục hiện đại Việt Nam còn chứng kiến sự xuất hiện của nhiều
nhà giáo dục với những công trình nghiên cứu, giáo trình, xã luận về tổ chức
QL quá trình giáo dục như Phạm Minh Hạc, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt,
Đặng Bá Lãm, Nguyễn Gia Quý, Trần Kiểm, Bùi Minh Hiền.....đã thể hiện
được bản chất của hoạt động QL, QLGD, những định hướng phát triển giáo
dục Việt Nam đương đại......
- Đổi mới biện pháp quản lý dạy học của trung tâm ngoại ngữ Học viện
C.T.Q.G Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thiện Chí, trường Đại học sư
phạm Hà Nội năm 2006;
- Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy học ngoại ngữ của chủ

nhiệm bộ môn trường Cao đẳng sư phạm trung ương của tác giả Bùi Phi Yến,
trường Đại học sư phạm Hà Nội năm 2006;
- Biện pháp quản lý hoạt động dạy học tiếng Anh của hiệu trưởng các
trường trung học cơ sở quận Hoàn Kiếm-Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Mai
Anh, trường Đại học sư phạm Hà Nội năm 2007;


11

Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần nêu bật được những tồn tại,
khó khăn và bất cập về nội dung chương trình, phương pháp dạy học (PPDH)
tiếng Anh và cả QL dạy học tiếng Anh hiện nay. Các công trình trên cũng đã
đề xuất được nhiều biện pháp QL dạy học tiếng Anh hiệu quả và thiết thực.
Tuy nhiên, do tính chất mới mẻ của nội dung chương trình, PPDH tiếng Anh,
công tác kiểm tra đánh giá v.v. nên có rất ít công trình nghiên cứu đi sâu vào
QL dạy học tiếng Anh ở trường CĐ hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
công tác QL hoạt động dạy học tiếng Anh ở các trường CĐ ngày càng trở nên
cấp thiết bởi vì muốn nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Anh tại các
trường CĐ thì công tác quản lý là khâu then chốt nếu quản lý tốt và có những
giải pháp hữu hiệu thì sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề tồn tại khác đưa
chất lượng dạy học môn tiếng Anh ngày càng cao.
Có một số tác giả đề cập đến những vấn đề, nội dung đổi mới như
nhóm tác giả Nguyễn Hải Châu, Nguyễn Thanh Hà và Vũ Thị Lợi với cuốn
“Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn tiếng Anh”
đã góp phần giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện chương trình
SGK mới dựa trên những căn cứ cơ bản và tính khả thi của chương trình phải
đặt trong mối tương quan giữa trình độ giáo dục cơ bản của Việt Nam, các
nước trong khu vực và trên thế giới, giữa giai đoạn trước mắt và khoảng thời
gian của 10 hay 20 năm tới
Nghiên cứu về QL nhà trường, QL hoạt động dạy và học được nhiều

tác giả quan tâm như Nguyễn Ngọc Quang, Hoàng Chúng, Hà Sĩ Hồ - Lê
Tuấn, Nguyễn Văn Lê, Võ Quang Phúc, Nguyễn Thế Hữu, Nguyễn Văn Lê Nguyễn Hữu Thanh Bình (1983) Công tác QL trường học; Hà Sĩ Hồ (1987),
Những bài giảng về QL trường học; Trần Kiểm (1997), QL giáo dục và
trường học... cũng đã có những giáo trình, công trình đi sâu vào việc nghiên
cứu từng lĩnh vực của công tác QL trường học như: Nguyễn Trung Hàm
(1999), (2001), Chỉ đạo QL dạy và học trong nhà trường; cơ sở vật chất - kĩ


12

thuật, QL tài chính, công tác hành chính - văn phòng trường trung học; Cao
Duy Bình (1999), Kế hoạch hóa hoạt động nhà trường; về hoạt động dạy
học tiếng Anh lớp 6 ở các trường THCS tại thành phố Hồ Chí Minh có
Đỗ Hạnh Nga, Vũ Thị Phương Anh… các tác giả nghiên cứu và đi sâu ở
những bình diện khác nhau nhưng đều nhằm giải quyết mối quan hệ giữa GV
và người QL; những nội dung QL hoạt động dạy học của hiệu trưởng.
Tập thể cán bộ giảng viên trường CBQL và nghiệp vụ Bộ GD&ĐT
nghiên cứu nghiệp vụ QL của hiệu trưởng đã rất chú trọng tới QL hoạt động
dạy học của hiệu trưởng.
Tác giả Nguyễn Văn Lê chú ý tới công tác bồi dưỡng GV về tư tưởng
chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao năng lực giảng dạy cho họ;
Tác giả Mai Quốc Liên cũng có ý kiến: “Cần cấp bách có một chiến
lược ngoại ngữ để phủ khắp tiếng Anh trong các trường học toàn quốc.”;
Đề tài cấp Bộ “Khảo sát phương pháp kiểm tra, đánh giá môn tiếng
Anh lớp 6- THCS tại Thành phố Hồ Chí Minh” do tác giả Đỗ Hạnh Nga, đã
nghiên cứu vai trò kiểm tra đánh giá kết quả học tập môn tiếng Anh học sinh
THCS và cho rằng kiểm tra đánh giá là một thành phần không thể thiếu được
trong hoạt động dạy học. Cũng như sự cần thiết về việc thay đổi việc kiểm
tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong giai đoạn thay đổi chương
trình dạy học, sách giáo khoa, phương pháp cũng như trang thiết bị phục

vụ giảng dạy.
Trong kỷ yếu hội thảo khoa học do trường Đại học Sư phạm Thành
Phố Hồ Chí Minh tổ chức vào tháng 11/2005, có nhiều bài tham luận nêu
lên thực trạng giảng dạy ngoại ngữ không chuyên, những thuận lợi cũng
như những khó khăn từ việc giảng dạy của giáo viên (GV) và học tập của
học sinh (HS). Một số bài tham luận như:
“Phấn đấu giảng dạy đạt yêu cầu của ngoại ngữ không chuyên trong
các trường Đại học”, TS. Vũ Văn Thành, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội;


13

“Hướng tới nâng cao năng lực ngoại ngữ cho học sinh không
chuyên”, Trần Thị Nga, Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Việc dạy và học ngoại ngữ cho sinh viên không chuyên ngữ ở trường
đại học Hải Phòng”, Ths. Lê Thị Hồng, Trường Đại học Hải Phòng;
“Thách thức và triển vọng của giảng dạy ngoại ngữ tại các trường Đại
học không chuyên ngữ ở Việt Nam” Đào Thị Tạo, Trường Đại học kiến trúc
Hà Nội;
“Thực trạng và một số giải pháp nhằm cải thiện tình trạng dạy và học
cho sinh viên khối không chuyên Anh Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội”,
Ths. Nguyễn Thị Bích Liên, Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội;
Tác giả Châu Kim Lang trong “Tổ chức quản lý quá trình đào tạo”
đã hệ thống hóa và phân tích khá sâu sắc về tổ chức quá trình đào tạo và
quản lý hoạt động đào tạo trong nhà trường, trong đó có đề cập đến quản lý
hoạt động dạy học và những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động dạy học;
Tác giả Võ Tiến Quang năm 2004 thực hiện đề tài “Một số biện pháp
tăng cường quản lý hoạt động dạy học của khoa Tự nhiên của trường Cao
đẳng sư phạm Quảng Ninh”;
Trần Thanh Hoàng (2007) “Một số biện pháp của hiệu trưởng đối với

hoạt động giảng dạy môn tiếng Anh ở trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa Vũng Tàu”, Luận văn thạc sĩ giáo dục học, Hà Nội;
Năm 2008, tác giả Huỳnh Thị Liên với đề tài “Biện pháp quản lý
hoạt động dạy học của hiệu trưởng các trường cao đẳng ngoài công lập khu
vực miền trung Việt Nam”…
Tóm lại, có rất nhiều tác giả trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã
nghiên cứu và đưa ra nhiều biện pháp quản lý hoạt động dạy học trong nhà
trường. Có nhiều luận văn thạc sĩ quan tâm tới đề tài biện pháp quản lý hoạt
động dạy học môn tiếng Anh trong nhà trường với nhiều cách tiếp cận về vấn
đề quản lý khác nhau, ở những địa phương khác nhau với phạm vi nghiên


14

cứu rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào đi
sâu nghiên cứu về các biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn tiếng Anh
tại trường CĐSP Ninh Thuận và tại tỉnh Ninh Thuận nên đề tài này là hoàn
toàn mới mẻ.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Quản lý và quản lý giáo dục
* Quản lý
Quản lý là một hoạt động cần thiết cho tất cả các lĩnh vực của đời sống
con người. Ở đâu con người tạo lập nên nhóm xã hội là ở đó cần đến quản lý.
Quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật trong việc điều khiển hệ thống xã
hội ở mọi cấp độ. Quản lý xuất hiện như một yếu tố cần thiết để phối hợp
những nỗ lực cá nhân hướng tới mục tiêu chung;
Thuật ngữ “quản lý” (Việt gốc Hán) gồm hai quá trình tích hợp vào
nhau: quá trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”;
quá trình “lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ vào thế “phát triển”.
Nếu người đứng đầu chỉ quan tâm đến việc “quản” thì tổ chức dễ bị trì trệ,
còn nếu chỉ dùng “lý” trong công việc thì sự phát triển cũng không bền. Do

vậy, người đứng đầu phải biết cách phối hợp nhịp nhàng là trong “quản” phải
có “lý” và ngược lại, như thế mới có thể làm cho hệ ở thế cân bằng, vận động
phù hợp và có hiệu quả trong mỗi trường tương tác giữa các nhân tố bên trong
và các nhân tố bên ngoài;
Khái niệm quản lý được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa
học. Từ đó, có nhiều cách định nghĩa về khái niệm quản lý. Các nhà nghiên
cứu nhiều góc độ tiếp cận để có những quan niệm khác nhau về khái niệm
này:
Theo tác giả Hà Sỹ Hồ, nếu như ở tầm vĩ mô, nói đến quản lý xã hội thì
“Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
lý lên khách thể quản lý về mặt chính trị, văn hoá, kinh tế, xã hội, … bằng


15

một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và
biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của
đối tượng”;
Theo tác giả Bùi Trọng Tuân, nếu xét trên phương diện hoạt động của
một tổ chức thì “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng,
các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động
của môi trường”;
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo “Quản lý là quá trình gây tác động của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu chung”; [1]
Theo tác giả Phạm Minh Hạc “Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể người lao động (nói chung là khách thể
quản lý), nhằm thực hiện các mục tiêu dự kiến”;
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng tối ưu các chức năng

kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra”;
Theo F.W. Taylor cho rằng: “Quản lý là biết được chính xác điều bạn
muốn người khác làm và sau đó khiến họ hoàn thành công việc tốt nhất và rẻ
nhất”;
Theo Henry Fayol (1841- 1925) và Max Weber (1864- 1920) của Đức
đều khẳng định: “Quản lý là một khoa học, đồng thời là một nghệ thuật thúc
đẩy sự phát triển của xã hội”;
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những
mục tiêu nhất định”;
Theo Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý là động tác có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nhằm thực hiện
được những mục tiêu dự kiến”; [22]


16

Theo Thái Văn Thành: “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề
ra”; [24]
Như vậy, các định nghĩa về quản lý đều tập trung vào hiệu quả công tác
quản lý, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể quản lý và
mục đích công tác quản lý, bằng tác động từ chủ thể đến khách thể quản lý
nhờ công cụ và phương pháp quản lý. Mục đích hay mục tiêu chung của hoạt
động quản lý có thể do chủ thể quản lý áp đặt, do yêu cầu khách quan của xã
hội hay do có sự cam kết, thỏa thuận giữa chủ thể và khách thể quản lý, từ đó
nẩy sinh các mối tác động tương hỗ với nhau giữa chủ thể và khách thể quản
lý.
Tóm lại, cho dù với cách tiếp cận nào thì quản lý là cách thức tác động
thông qua các chức năng: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra nhằm làm cho

tổ chức vận hành theo một trình tự nhất định khoa học và logic đạt hiệu quả
mong muốn và đạt mục tiêu đề ra.
* Quản lý giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục xuất hiện nhằm thực hiện
cơ chế truyền đạt kinh nghiệm lịch sử-xã hội của loài người của thế hệ trước
cho thế hệ sau, làm cho xã hội phát triển không ngừng. Hơn nữa, giáo dục hôm
nay được khẳng định là một trong những hoạt động xã hội quan trọng có ảnh
hưởng sâu rộng đến lợi ích và quyền lợi, nghĩa vụ của mọi công dân, đến lợi
ích kinh tế của mỗi cá nhân trong cộng đồng và lợi ích kinh tế quốc dân. Chính
vì vậy, để đạt mục đích đó, QLGD được coi là nhân tố tổ chức, chỉ đạo việc
thực hiện cơ chế nêu trên. Về thuật ngữ “quản lý giáo dục”, có nhiều quan
niệm khác nhau, cụ thể như sau:
Theo P.V.Khuđôminxky: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch,
có ý thức của các chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của
hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ


17

trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và
sử dụng các quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật khách quan của
quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý trẻ em”;
Theo M.M.Mechiti Zade: “QLGD là tập hợp những biện pháp tổ chức,
phương pháp, cán bộ giáo dục, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu...nhằm đảm
bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, đảm
bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả mặt số lượng cũng như chất
lượng”;
Theo tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “QLGD là tổ chức các hoạt
động dạy học và giáo dục. Có tổ chức được các hoạt động dạy học và giáo
dục, thực hiện được các tính chất của nhà trường Việt Nam xã hội chủ nghĩa

(XHCN) là cụ thể hóa đường lối của Đảng và biến đường lối đó thành hiện
thực, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, của đất nước”;
Theo tác giả Trần Kiểm: “QLGD là hoạt động tự giác của chủ thể quản
lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát...một cách có hiệu
quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu
phát triển giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội”;
Theo Đặng Quốc Bảo: “QLGD theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều
hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công tác đào tạo
thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội”; [1]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “QLGD là hệ thống những tác động
có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý (hệ giáo dục),
nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng,
thực hiện được tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà điểm hội tụ là
quá trình dạy học giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến,
tiến lên trạng thái mới về chất”; [22]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII cũng đã viết “QLGD là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách thể


18

quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả
mong muốn”.
Từ các khái niệm trên về quản lý giáo dục, ta có thể hiểu quản lý giáo
dục là quản lý hệ thống giáo dục, là sự tác động có mục đích, có hệ thống, có
kế hoạch, khoa học,có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, theo
những quy luật khách quan, nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo
dục đạt tới kết quả mong muốn. QLGD là một dạng hoạt động quản lý chuyên
biệt, thông qua đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực
hiện một mục tiêu QLGD nhất định. Như thế, sự tác động từ chủ thể quản lý

đến khách thể quản lý có thể từ người quản lý đơn vị cơ sở giáo dục đến các
đối tượng quản lý là người dạy, người học, cơ sở vật chất thiết bị hoặc là sự
tác động giữa các cấp QLGD từ trung ương đến địa phương có thể xét dưới
nhiều góc độ khác nhau xong quản lý phải được hiểu sự tác động nó bao hàm
toàn bộ nội hàm của một hoạt động.


19

1.2.2. Dạy học và quản lý hoạt động dạy-học
* Dạy học
Theo Phạm Minh Hạc: “Dạy học là chức năng xã hội nhằm truyền đạt
và lĩnh hội kiến thức, kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được, nhằm biến kiến
thức, kinh nghiệm xã hội thành phẩm chất và năng lực cá nhân”;
Theo Nguyễn Thị Hường “Dạy học là một khái niệm chỉ hoạt động
chung của người dạy và người học. Hai hoạt động này song song tồn tại và
phát triển trong cùng một quá trình thống nhất. Trong đó, hoạt động dạy giữ
vai trò chủ đạo còn hoạt động học giữ vai trò tích cực chủ động”;
Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc (1997) cho rằng “Dạy học là
một quá trình trong đó dưới tác động chủ đạo (tổ chức, điều khiển, lãnh đạo)
của thầy, học sinh tự giác tích cực tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức
nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học”;
Theo Nguyễn Ngọc Bảo: “Quá trình dạy học là quá trình dưới sự lãnh
đạo, tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực, chủ động
biết tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức-học tập của mình nhằm thực
hiện những nhiệm vụ dạy học, đó là:
- Điều khiển, tổ chức HS nắm vững hệ thống tri thức phổ thông cơ
bản, hiện đại, phù hợp với thực tiễn của đất nước về tự nhiên, xã hội-nhân
văn, đồng thời rèn luyện cho họ hệ thống kỹ năng kỹ xảo tương ứng.
- Tổ chức, điều khiển HS hình thành, phát triển năng lực và những

phẩm chất trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy độc lập, sáng tạo.
- Tổ chức, điều khiển HS hình thành cơ sở thế giới quan khoa học,
những phẩm chất đạo đức nói riêng và phát triển nhân cách nói chung”.
Theo Đặng Vũ Hoạt - Hà Thế Ngữ: “Quá trình dạy học là một quá trình
sư phạm bộ phận, một phương tiện để trau dồi học vấn, phát triển giáo dục và
giáo dục phẩm chất, nhân cách thông qua sự tác động qua lại giữa người dạy


20

và người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội một cách có hệ thống những tri thức
khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và thực hành”.
Vậy chúng ta có thể hiểu: “Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa
GV và HS nhằm truyền thụ và lĩnh hội những tri thức khoa học, những kỹ
năng và kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, trên cơ sở đó hình thành
thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng các phẩm chất nhân
cách người học theo mục đích giáo dục”. Quá trình dạy học là một hệ vẹn
toàn bao gồm hoạt động dạy là hoạt động tổ chức hướng dẫn, điều khiển…của
GV và hoạt động học là hoạt động chủ động tích cực, tự giác…của HS. Hai
hoạt động này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra
nhau, sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác (cộng đồng và
hợp tác), trong đó hoạt động dạy đóng vai trò chủ đạo.
* Hoạt động dạy
Là hoạt động của người GV, không những là hoạt động truyền thụ cho
người học những nội dung đáp ứng các mục tiêu đề ra mà còn là hoạt động
giúp đỡ, chỉ đạo và hướng dẫn người học trong quá trình lĩnh hội tri thức,
hình thành kỹ năng, kỹ xảo. Vai trò chủ đạo của hoạt động dạy được biểu hiện
với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động học của trò, giúp trò nắm được
kiến thức, hình thành và phát triển nhân cách của trò. Hoạt động dạy có chức
năng kép là truyền đạt và điều khiển. Nội dung, chương trình dạy học theo

một quy định bắt buộc và được thống nhất trong mỗi cấp học. Để hoạt động
học đạt kết quả như mong muốn, người GV cần nắm bắt được những điều
kiện bên trong (hiểu biết, năng lực và hứng thú) của người học, trên cơ sở đó
đưa ra những tác động sư phạm phù hợp.
Ngày nay, với xu thế dạy học “lấy người học làm trung tâm”, GV cần
biết tạo cho người học một không khí học tập mang tính chủ động, linh hoạt
và sáng tạo. Tức là dạy cho người học cách học, cách tư duy và tác động của


21

người thầy là tác động bên ngoài, hướng dẫn, thúc đẩy và tạo điều kiện cho
người học tự học.
* Hoạt động học
Là quá trình trong đó dưới sự định hướng của người dạy, người học tự
giác, tích cực, độc lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi trường xung
quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc tâm lý
mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cũng
như hoạt động dạy, hoạt động học có hai chức năng kép là lĩnh hội và tự điều
khiển. Nội dung của hoạt động học bao gồm toàn bộ hệ thống khái niệm của
môn học, bằng phương pháp đặc trưng của môn học, của khoa học đó, với
phương pháp nhận thức độc đáo, phương pháp chiếm lĩnh khoa học để biến tri
thức của nhân loại thành học vấn của bản thân. Muốn vậy, người học phải xác
định rõ mục đích, động cơ học tập có sự say mê, tích cực, tiếp thu một cách tự
giác, sáng tạo những thông tin và biết sử dụng những thông tin đó với kinh
nghiệm riêng của bản thân.
Nhưng để học đạt được hiệu quả và tránh được những sai lầm thì học
càng cần phải có sự hướng dẫn, tổ chức, chỉ đạo của thầy. Như vậy học cần
phải diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện chứng với hoạt động dạy của
thầy, mối quan hệ này có thể diễn ra trực tiếp hoặc gián tiếp tuỳ theo mức độ

tự lực của người học, để đạt được mục đích cuối cùng của người học, đó là:
- Nắm vững tri thức khoa học
- Phát triển tư duy và năng lực hoạt động
- Hình thành thái độ, đạo đức và nhân cách, lý tưởng sống
Như vậy, hoạt động dạy và học là hai hoạt động thực tiễn có tính chất
tương tác, trong đó cả GV và HS là người cùng tham gia với sự năng động
chủ quan cộng với sự khách quan tác động của thực tiễn giáo dục. Đây là đặc
điểm nổi bật của hoạt động dạy học so với các hoạt động thực tiễn khác. HS
vừa là người được giáo dục vừa là chủ thể của hoạt động học tập. Chính vì


22

vậy, muốn hoạt động dạy học đạt mục đích dự kiến, không những HS phải
phát huy sự năng động, sáng tạo, tự giác, có phương pháp và thủ thuật tốt
trong quá trình nhận thức mà cả GV, với tư cách là người chủ đạo, người tổ
chức, hướng dẫn hoạt động dạy học, cũng phải năng động, sáng tạo, tự giác
và còn phải đặc biệt nghiên cứu, nhận thức được một cách toàn diện quy luật
của thực tiễn giáo dục-dạy học và biết vận dụng các qui luật đó một cách triệt
để mới có thể thu được những kết quả tốt đẹp.
* Quản lý hoạt động dạy-học
Từ các quan niệm khác nhau về quản lý và hoạt động dạy học, chúng ta
có thể hiểu quản lý hoạt động dạy học theo một số cách tiếp cận sau đây:
- Quản lý hoạt động dạy học là quá trình quản lý hoạt động dạy của GV
và quản lý hoạt động học của HS.
- QL hoạt động dạy học là sự tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp
qui luật của chủ thể QL đến khách thể QL trong quá trình dạy học nhằm đạt
được mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ của QL dạy học là lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức,
định hướng hoạt động dạy học. Nội dung của QL hoạt động dạy học trong nhà
trường thường bao gồm các hoạt động sau:

+ QL hoạt động dạy của GV.
+ QL hoạt động học của HS.
+ QL môi trường dạy học.
+ QL các nguồn lực phục vụ yêu cầu dạy học.
- Quản lý hoạt động dạy học là việc thực hiện các chức năng cơ bản của
nhà quản lý: kế hoạch; tổ chức; chỉ đạo; kiểm tra đánh giá hoạt động dạy học.
Để QL tốt hoạt động dạy học trong nhà trường, hiệu trưởng cần phải
tập trung vào hai việc: một là, nâng cao nhận thức về bản chất của hoạt động
dạy học; hai là QL đổi mới hoạt động dạy học. Nhiệm vụ của hiệu trưởng vừa
đổi mới tư duy của chính mình, vừa tạo điều kiện cho tập thể GV cũng đổi
mới tư duy về hoạt động dạy học. Để làm chuyển biến nhận thức về bản chất


23

của dạy học trong GV, hiệu trưởng không thể nói suông mà phải tổ chức để
GV được nghe, được bàn bạc, thảo luận trên cơ sở được trang bị những tri
thức cập nhật về những thành tựu của khoa học giáo dục hiện đại. Phải để cho
GV tự nhận thức, tự thay đổi quan niệm về đổi mới tư duy dạy học và phải
cho họ biết rằng đây là đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan, là điều kiện cho
sự tồn tại và phát triển của chính họ. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để đổi
mới QL hoạt động dạy học trong nhà trường.
1.2.3. Biện pháp và biện pháp quản lý
* Khái niệm về biện pháp
Theo “Từ điển tiếng Việt” (1992) thì biện pháp là: “Cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể”;
Biện pháp là một bộ phận của phương pháp, điều đó có nghĩa là để sử
dụng một phương pháp nào đó phải sử dụng nhiều biện pháp khác nhau. Cùng
một biện pháp có thể sử dụng trong nhiều phương pháp khác nhau.
* Khái niệm về biện pháp quản lý

Biện pháp quản lý là tổ hợp các cách thức tiến hành của chủ thể quản lý
tác động lên đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề cụ thể của hệ quản
lý nhằm làm cho hệ vận hành phát triển đạt đến mục tiêu mà chủ thể quản lý
đề ra phù hợp với quy luật khách quan;
Từ đó chúng ta suy ra rằng: Các biện pháp quản lý trong nhà trường
là cách thức mà người quản lý nhà trường tiến hành để tác động vào đội
ngũ giáo viên, nhân viên và học sinh sinh viên (HSSV) nhằm đạt được mục
tiêu nhà trường đề ra.
1.3. Một số vấn đề lý luận về dạy học môn tiếng Anh ở trường Cao
đẳng
1.3.1. Mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp và phương
tiện dạy học


24

1.3.1.1. Mục tiêu của bộ môn tiếng Anh ở trường Cao đẳng
Mục đích chủ yếu của quá trình dạy-học tiếng Anh là trang bị cho
người học một công cụ giao tiếp mới, một khả năng mới, hiện đại và cần thiết
trong thực tiễn tại các trường Cao đẳng hoặc các trường chuyên nghiệp thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân. Qua từng giai đoạn phát triển của đất nước, trong
giáo dục và đào tạo của nước ta, có thể thay đổi nhiều hay ít về tầm quan
trọng và vị thế của môn tiếng Anh, về thời lượng dành cho môn học, về mức
độ, yêu cầu sử dụng tiếng Anh trong nhà trường hay trong cuộc sống của
chúng ta.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự hội nhập quốc tế,
ngoại ngữ trở thành một trong hai công cụ quan trọng nhất của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc, nhất là tiếng Anh. Tin học và ngoại ngữ chính là hai chìa khoá
để mở cánh cửa đến với thế giới, với nền văn minh nhân loại, với khoa học
công nghệ, với kinh tế toàn cầu và kinh tế tri thức.

Đối với bậc CĐ, ĐH, không chỉ dạy-học tiếng Anh cơ sở thông thường,
mà quan trọng hơn là phải dạy và học tiếng Anh chuyên ngành. Tiếng Anh
chuyên ngành dành cho mục đích giao tiếp nghề nghiệp cụ thể: dạy tiếng Anh
chuyên ngành Kinh tế, Thương mại, Du lịch v.v. Trên cơ sở kiến thức tiếng
Anh cơ bản đã được trang bị ở trường phổ thông, các trường cao đẳng củng
cố, ôn tập những kiến thức tiếng Anh mà HS đã được học và từ đó giúp người
học phát triển ở mức độ cao hơn, thiết thực hơn cho công việc sau khi ra
trường. Ngoài ra, theo tiêu chí đánh giá của Bộ GD&ĐT thì hệ thống giáo dục
Cao đẳng, Đại học đều thực hiện chương trình hợp tác với nước ngoài trong
việc đào tạo, nhất là việc đào tạo tiếng Anh cho tất cả các HSSV kể cả những
HSSV không chuyên ngữ. Bên cạnh đó, HSSV còn có thêm cơ hội rèn luyện,
phát huy khả năng nhạy bén, tư duy độc lập, sáng tạo, tinh thần làm việc theo
nhóm.


25

Mục tiêu của môn học là còn nhằm tiếp tục hoàn thiện các kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết; đi sâu vào chuyên ngành, giúp SV có thể mở rộng kiến
thức chuyên ngành bằng tiếng Anh, cung cấp những kiến thức cơ bản cho SV
có thể tự nghiên cứu, tự học, tiếp thu các thông tin từ nhiều nguồn: sách, báo,
tạp chí, những chương trình tiếng Anh trên truyền hình..... Cố Thủ tướng
Xingapo Lý Quang Diệu cũng đã nói: “Nếu biết tiếng Anh, chúng ta có thể
tìm kiếm tất cả các dữ liệu và thông tin mà mình muốn”.
1.3.1.2. Nội dung, chương trình bộ môn tiếng Anh ở trường Cao
đẳng
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, nội dung, chương trình dạy
học môn ngoại ngữ nói chung và môn tiếng Anh nói riêng ở trình độ cao đẳng
phải phù hợp với mục tiêu dạy học, đáp ứng sự phát triển của khoa học công
nghệ và đáp ứng được nhu cầu xã hội cụ thể: cần phải tập trung đào tạo năng

lực thực hành tiếng, nâng cao kiến thức ngôn ngữ theo yêu cầu đào tạo, phát
triển tư duy, đảm bảo tính hệ thống, cơ bản, hiện đại. Bên cạnh đó, cũng cần
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, lý tưởng, niềm tin và rèn luyện sức khoẻ
cho HSSV. Tuy nhiên, trong thực tế chưa có sự thống nhất chung về nội
dung, chương trình chỉ trừ một số trường các GV xây dựng giáo trình riêng
cho mình, còn hầu hết các trường cao đẳng đều sử dụng các giáo trình viết
sẵn, các giáo trình thường được áp dụng trong giảng dạy hiện nay đã được
thẩm định về nội dung và đều nhằm trau dồi cả bốn kỹ năng: Nghe, Nói, Đọc,
Viết.
1.3.1.3. Phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học môn tiếng
Anh ở trường Cao đẳng
* Về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
Trong việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học tiếng Anh
cần chú trọng đến thực hành, luyện tập để hình thành và phát triển ở người
học các kỹ năng thực hành về nghe, nói, đọc, viết tiếng Anh chuyên ngành ở


×