Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng CNXH ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.91 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Lời nói đầu
Thực tiễn lịch sử phát triển cho thấy con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) của nớc ta còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Nhất là trong việc xây dựng
và phát triển nền kinh tế. Nguyên nhân chính ở đây là do chúng ta tiến lên CNXH
từ một nớc nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, chúng ta mắc phải sai lầm đó
là áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp nhất là trong
khi đất nớc đang đợc hoà bình thống nhất. Nhận thấy mô hình kinh tế này không
đem lại hiệu quả, từ năm 1986, cụ thể là từ đại hội VI của Đảng đã có những nhận
thức mới và thay đổi quan điểm về sự đổi mới cơ chế quản lý ở nớc ta và đợc đại
hội VII khẳng định: tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, hình
thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chê thị trờng có sự quản lý của Nhà n-
ớc. Nh vậy, Đảng và Nhà nớc ta đã nhận thức đợc lợi ích to lớn mà cơ chế thị tr-
ờng đem lại cho sự phát triển kinh tế xã hội; đồng thời thấy đợc vai trò quản lý
của Nhà nớc về kinh tế trong nền kinh tế thị trờng (KTTT) định hớng XHCN. Có
đợc nhận thức đó là do thực tế và kinh nghiệm của nhiều nớc trên thế giới. Nhng
để thực hiện đợc thì cần có một thời gian dài xây dựng và phát triển.
Từ những nhận thức trên, ta có thể thấy đợc Nhà nớc có vai trò quan trọng nh
thế nào trong nền KTTT, đặc biệt là vai trò kinh tế của nó. Chính điều đó đã thôi
thúc em chọn để tài: Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng
định hớng XHCN ở nớc ta hiện nay.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài này, dù đã hết sức cố gắng
song cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, em rất
mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài làm của em đợc hoàn
thiện hơn.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chơng I- Vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền
kinh tế thị trờng (KTTT) định hớng xã hội chủ nghĩa
(XHCN) ở nớc ta.


1. Lý luận chung về vai trò kinh tế của Nhà nớc
Trong lịch sử xã hội loài ngời đã có thời kỳ không có Nhà nớc, đó là thời kỳ
cộng sản nguyên thuỷ. Cơ sở kinh tế của chế độ cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở
hữu công cộng về t liệu sản xuất ở trình độ sơ khai. Thời kỳ này cha có sự phân
chia thành giai cấp.
Khi lực lợng sản xuất và năng suất lao động tăng thì xã hội bắt đầu hình thành
2 giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ. Một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và
sự đấu tranh giai cấp gay gắt không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới
có khả năng dập tắt đợc cuộc xung đột giai cấp ấy; tổ chức đó là Nhà nớc. Vậy
Nhà nớc là gì?
Nhà nớc là công cụ của giai cấp thống trị đợc sử dụng để duy trì trật tự xã hội
sao cho phù hợp với lợi ích của nó
Kể từ khi Nhà nớc xuất hiện trong xã hội loài ngời cho đến thế kỷ XIX, ở tất
cả mọi nơi nó đều thực hiện những chức năng tơng tự nh nhau. Đó là quốc phòng,
xây dựng đờng xá và đê điều, bảo vệ nguồn nớc, đúc tiền, đề ra và thi hành pháp
luật... Cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành ở một số nớc vào cuối thế kỷ XIX
đã làm thay đổi lối sống cổ truyền, buộc Nhà nớc thực hiện chức năng điều
chỉnh trong kinh tế nhằm đảm bảo tính hiệu quả của sự cạnh tranh, bảo vệ quyền
lợi của các cá nhân. Nhà nớc thực hiện chức năng điều chỉnh nh là ngời trọng tài
duy trì các luật chơi của thị trờng. Những quốc gia thực hiện công nghiệp hoá
muộn thì đã làm cho Nhà nớc càng đóng vai trò nặng nề hơn trong nền kinh tế. ở
những nớc này, Nhà nớc không còn đứng bên ngoài điều chỉnh nữa mà đã can
thiệp trực tiếp vào chính nội dung của hoạt động kinh tế thông qua một số hình
thức nh: đề ra các kế hoạch phát triển, thi hành một số chính sách khuyến khích
hoặc kiềm chế một số lĩnh vực hoạt động kinh tế, thậm chí còn trực tiếp kinh
doanh trong một số lĩnh vực.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh rằng trên thế giới ngày nay không có ở
quốc gia nào dù là cha công nghiệp hoá hay đã ở thời kỳ hậu công nghiệp
mà không có sự can thiệp của Nhà nớc vào kinh tế theo rất nhiều lý do khác nhau,
xong mức độ can thiệp ở mỗi Nhà nớc cũng rất khác nhau. Cụ thể:

Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nớc chủ nô - kiểu Nhà nớc đầu tiên trong
lịch sử đã dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải đợc sản
xuất ra. Những ngời nô lệ sản xuất ra của cải nhng bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt
bằng bạo lực.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong thời đại phong kiến, Nhà nớc phong kiến không chỉ can thiệp vào việc
phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lợng nông dân xây dựng kết cấu hạ
tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân đi mở mang các
vùng đất mới, đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ.
Bớc sang thế kỷ XV, khi chủ nghĩa t bản (CNTB) hình thành thì nền KTTT
dần dần đợc hình thành. Các nớc TBCN xác định rằng: muốn kinh tế phát triển
nhanh thì không thể để cho nó tự do vận động và phát triển mà cần phải có sự hỗ
trợ của Nhà nớc. Vì vậy trong xã hội t bản thì vai trò quản lý kinh tế của Nhà nớc
dần dần đợc hình thành và nâng cao. Nhà nớc t bản can thiệp bằng cách đề ra các
chính sách nhằm tích luỹ vốn tiền tệ nh: tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ không cho
tiền chạy ra nớc ngoài, hay trong chính sách ngoại thơng thì sử dụng hàng rào thuế
quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao... Khi đã tích luỹ đợc một lợng của cải và
tiền tệ đáng kể, đầu thế kỷ XVIII, các nớc này tập trung phát triển mạnh sản xuất
dẫn đến nhu cầu tự do cạnh tranh trong đời sống kinh tế ở các nớc này. Bởi vậy,
các nhà kinh tế học cổ điển đã ủng hộ t tởng tự do cạnh tranh. Họ đa ra các lý
thuyết kinh tế nêu lên t tởng, quan điểm của mình về tự do cạnh tranh trong nền
kinh tế. Trong số đó nổi bật nhất là Ađam Smith (1723-1790) ngời mà giới
kinh tế gọi là cha đẻ của CNTB - đã đa ra lý thuyết về bàn tay vô hình và
nguyên lý Nhà nớc không can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế. Ông cho
rằng: sức mạnh của thị trờng nh bàn tay vô hình dẫn dắt hành động của các cá
nhân, Nhà nớc chỉ thực hiện chức năng điều chỉnh để duy trì luật chơi của thị tr-
ờng trong những trờng hợp cần thiết mà thôi (1).
Điều nay có nghĩa là để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh thì Nhà nớc
không nên can thiệp vào nền KTTT. Ngời ta công nhận rằng: về bản chất, thị trờng

có những khuyết tật nhng không vì thế mà họ cho rằng sự can thiệp của Nhà nớc
vào nền kinh tế là cần thiết mà sự can thiệp của Nhà nớc bị coi là làm biến dạng
hoạt động của thị trờng, vậy nên không đợc hoan ngênh.
Tuy nhiên, t tởng tự do kinh tế chỉ thống trị đến đầu những năm 30 của thế kỷ
XX, khi mà những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra liên tiếp và thờng xuyên ở các
nớc TBCN. Đây chính là những minh chứng có thực cho thấy bàn tay vô hình
không thể bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển ổn định. Trong bối cảnh nh vậy,
các nhà kinh tế thấy rằng cần có sự nâng cao vai trò của Nhà nớc hơn trong hoạt
động kinh tế và mô hình KTTT tự do đợc cải biến với sự bổ sung một số chính
sách can thiệp của bàn tay hữu hình của chính phủ theo các lý thuyết của Keynes
và tân cổ điển.
Trái ngợc hẳn với Ađam Smith cho rằng thị trờng quyết định tất cả, Nhà nớc
chỉ là một phần nhỏ, thậm chí hầu nh không có, thì theo Keynes (1884 1946)
một nhà kinh tế học ngời Anh đã đa ra lý thuyết Nhà nớc điều tiết KTTT
cho rằng Nhà nớc là chủ yếu còn thị trờng là phụ. Theo Keynes, Nhà nớc can thiệp
vào nền kinh tế ở cả tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô thì Nhà nớc sử dụng các
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công cụ nh lãi suất, thuế, bảo hiểm... ở tầm vi mô, Nhà nớc tham gia vào việc phát
triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng.
Khi đa ra lý thuyết này, Keynes hoàn toàn tin tởng rằng nó sẽ đem lại một kết
quả tốt đẹp hơn cho sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Nhng thực tế
kiểm nghiệm cho thấy cũng nh mô hình kinh tế dựa trên t tởng tự do cạnh tranh bị
thất bại thì mô hình kinh tế dựa trên lý thuyết Nhà nớc điều tiết KTTT của
Keynes cũng không đem lại kết quả tốt hơn.
Trớc tình hình đó, xuất hiện t tởng phối hợp bàn tay vô hình với Nhà nớc
điều tiết nền KTTT. Thực ra có rất nhiều nhà kinh tế học đi theo hớng này, song
nổi bật nhất phải nói đến Samullson một kinh tế gia ngời Mỹ với quan điểm
kinh tế hỗn hợp của mình. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả
chính phủ lẫn thị trờng cũng nh định vỗ tay bằng một bàn tay. Cơ chế thị trờng

xác định giá cả và sản lợng trong nhiều lĩnh vực. Trong khi đó chính phủ điều tiết
thị trờng bằng các chơng trình thuế, chỉ tiêu và luật lệ. Cả hai bên: thị trờng và
chính phủ đều có vai trò nh nhau trong hoạt động phát triển nền kinh tế.
Kế tiếp của CNTB là hệ thống XHCN đợc hình thành. Với xã hội này, Nhà n-
ớc phải gánh lấy sứ mệnh tính toán và tổ chức thực hiện các phơng án tối u của
việc phân phối hợp lý các nguồn lực và của cải của xã hội, sự can thiệp đến tận chi
tiết của Nhà nớc đã có lúc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế diễn ra nhanh
chóng hơn. Nhng việc t uyệt đối hoá vai trò điều khiển toàn bộ nền kinh tế của
Nhà nớc và phủ nhận hoàn toàn vai trò của thị trờng, cộng với những sai lầm trong
tính toán phơng hớng đầu t của bộ máy quản lý tập trung đã làm cho nền kinh tế bị
suy thoái. Việc chuyển sang cơ chế thị trờng và có sự thay đổi trong quản lý của
Nhà nớc là một minh chứng cho điều đó.
2. Tính tất yếu khách quan và vai trò kinh tế của Nhà nớc trong nền KTTT
định hớng XHCN ở nớc ta.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nớc XHCN, đất nớc
ta bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình thức sở hữu
công cộng về t liệu sản xuất. Xuất phát từ quan niệm cho rằng: nền kinh tế XHCN
là một nền kinh tế phát triển có kế hoạch nên Nhà nớc đã lấy kế hoạch làm công
cụ chủ yếu để quản lý nền kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là nền kinh
tế mà trong đó Nhà nớc nắm hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà
nớc trực tiếp thực hiện đầu t, phát triển và đa ra những quy định cho hầu hết mọi
hoạt động kinh tế. Chính vì vậy mà trong nền KTTT, khu vực t nhân chỉ có vai trò
thứ yếu, hỗ trợ và cùng với Nhà nớc tham gia vào quá trình phat triển kinh tế xã
hội. Đặc trng cơ bản của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp này là:
- Nhà nớc quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu.
- Các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở nhng lại không chịu trách gì về mặt
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vật chất đối với các quyết định của mình; không tự nhận khuyết điểm về

mình.
- Bỏ qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, quản lý nền kinh tế
và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm, quan hệ hiện
vật là chủ yếu.
Từ những đặc điểm trên dẫn đến bộ máy quản lý rất cồng kềnh, có nhiều cấp
trung gian và kém năng động, đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, không thạo
nghiệp vụ kinh doanh, trình độ hiểu biết kém; đã thế phong cách lại hống hách,
quan liêu cửa quyền; cơ sở vật chất cũ kĩ, lạc hậu, năng suất thấp.
Chính những sự việc đó đã gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng
trởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm trở nên khan hiếm, ngân sách bị
thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ tiêu dùng, tích luỹ hàng năm,
vốn đầu t chủ yếu dựa vào vay và viện trợ của nớc ngoài. Đến cuối những năm
80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế đi liền với lạm phát cao làm cho đời
sống nhân dân bị giảm sút, thậm chí một số địa phơng nạn đói đang rình rập.
Trớc tình hình đó buộc chúng ta phải xem xét lại cơ chế đó và có những biện
pháp để đổi mới nhanh chóng nền kinh tế và cơ chế quản lý đối với nó. Phơng h-
ớng cơ bản của sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nớc ta đã đợc đánh dấu bằng
đại hội VI, tiếp tục bằng đại hội VII,VIII và IX của Đảng:
Tại đại hội VI, Đảng ta chủ trơng: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và
thực hiện chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá sang cơ chế
hạch toán kinh doanh XHCN.
Đến đại hội VII, Đảng ta xác định rõ việc đổi mới cơ chế kinh tế ở nớc ta là
một tất yếu khách quan và trên thực tế đang diễn ra việc đó, tức là chuyển từ
nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nớc
theo định hớng XHCN.
Đến đại hội VIII, Đảng ta xác định ... tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
với mục tiêu xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp hình thành tơng đối đồng
bộ cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN.
Đến đại hội IX, Đảng ta khẳng định: tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
với mục tiêu xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ

chế thị trờng định hớng XHCN, từ chỗ chủ yếu chỉ có 2 thành phần là kinh tế
Nhà nớc và kinh tế tập thể đã chuyển sang nền kinh tế có nhiều thành phần trong
đó Nhà nớc giữ vai trò chủ đạo.
Nh vậy là nớc ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế với cơ chế kinh tế là cơ chế
thị trờng. Vậy trớc tiên ta phải hiểu cơ chế thị trờng là gì?
Hiện nay còn tồn tại rất nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trờng.
Sau đây là một vài khái niệm:
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Cơ chế thị trờng là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trờng, động lực và quy
luật chi phối sự vận động của thị trờng (2)
Cơ chế thị trờng là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động của ngời sản
xuất và ngời tiêu dùng, ngời bán và ngời mua thông qua thị trờng và giá cả (3)
Cơ chế thị trờng là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó cá nhân ngời tiêu
dùng và các doanh nghiệp tác động qua lại lẫn nhau trên thị trờng để xác định
vấn để trung tâm của tổ chức kinh tế là: sản xuất cái gì? Nh thế nào? Cho ai(4)
Song dù có hiểu nh thế nào đi chăng nữa thì nói tới cơ chế thị trờng là phải nói
tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lu thông hàng hoá, điều tiết sự vận
động thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền KTTT, đặc biệt là
quy luật giá trị quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lu thông hàng hoá,
quy luật cạnh tranh, quan hệ cung cầu hàng hoá... Trong đó lợi nhuận là động lực
cơ bản của sự vận động của nó.
Nói tóm lại ta có thể hiểu: cơ chế thị trờng là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế
hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải
quyết 3 vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là: cái gì? Nh thế nào? Cho ai?. Cơ chế
thị trờng bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trờng.
Nói nh trên không có nghĩa rằng cơ chế thị trờng là một sự hỗn độn các quy
luật kinh tế tác động một cách không định hớng vào hoạt động sản xuất mà nó là
một trật tự kinh tế, một bộ máy tinh vi phối hợp một cách không có ý thức hoạt
động của ngời tiêu dùng với các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trờng;

không ai tạo ra nó mà tự nó phát sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát
triển của kinh tế hàng hoá.
Thực tế cũng đã chứng minh cơ chế thị trờng là một cơ chế hoàn toàn phù hợp
và u việt. Nó ngày càng phát huy những u điểm vốn có của nó, đó là:
- Kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho
sự hoạt động tự do của họ. Do đó phát huy tính năng động, sáng tạo của các chủ
thể kinh doanh. Huy động một cách nhanh chóng các nguồn lực của xã hội vào
việc phát triển kinh tế.
- Trong cơ chế thị trờng, ngời sản xuất buộc phải giảm hao phí lao động
xuống mức thấp nhất có thể đợc bằng cách áp dụng khoa học kỹ thuật và công
nghệ vào quá trình sản xuất nhằm nầng cao năng suất lao động, nâng cao chất l-
ợng sản phẩm. Có nh vậy thì mới có thể tiếp tục cạnh tranh và đứng vững đợc trên
thị trờng; và cũng chỉ có nh vậy mới thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển để sử
dụng có hiệu quả nhất những khoa học kỹ thuật tiên tiến đó.
- Cơ chế thị trờng dẫn tới sự thích ứng tự phát giữa khối lợng và cơ cấu của
sản xuất với khối lợng và cơ cấu nhu cầu của sã hội; điều này có nghĩa là có thể
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú về các loại sản phẩm của ngời
dân. Đây là một việc làm mà nếu để Nhà nớc đảm nhận thì sẽ khó thực hiện đợc vì
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đây là một khối lợng công việc lớn, đòi hỏi thời gian rất lâu, chi phí và công suất
lớn.
- Cơ chế thị trờng mềm dẻo hơn Nhà nớc, có khả năng thích nghi cao hơn
khi những điều kiện kinh tế thay đổi. Bởi lẽ nền kinh tế luôn có những biến động
không thể lờng trớc đợc, vậy nên dù Nhà nớc có phân tích kỹ lỡng đến đâu thì
cũng sẽ có lúc không thể thích nghi nhanh và có những chính sách thay đổi kịp
thời để phù hợp với những điều kiện hiện tại. Trong khi đó cơ chế thị trờng là cơ
chế tự điều tiết cho nên chắc chắn khả năng thích nghi của nó sẽ cao hơn và từ đó
sẽ làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất và nhu cầu của xã hội.
Cùng với những u điểm trên, cơ chế thị trờng cũng bộc lộ hàng loạt những

khuyết tật mang tính chu kỳ nh: biến động lên xuống của khủng hoảng kinh tế,
lạm phát, phân hoá giàu nghèo, gây ô nhiễm môi trờng... Trong đó có những
khuyết tật trở thành những vấn đề mang tính chất toàn cầu đang đợc đặt ra để tìm
hớng giải quyết tốt nhất. Tất cả gây nên tình trạng không bình thờng trong quan
hệ kinh tế và dẫn tới sự mất ổn định xã hội. Bởi vậy nên nó đòi hỏi phải có sự
kiểm tra, điều tiết, định hớng một cách có ý thức đối với sự vận động của cơ chế
thị trờng, đồng thời chính sự vận động đó có thể hạn chế những khuyết tật. Đó là
những lý do cần thiết phải thiết lập vai trò quản lý của Nhà nớc ở tất cả những n-
ớc mà nền kinh tế do cơ chế thị trờng điều tiết. Nhà nớc có thể dựa vào quyền lực
của mình can thiệp ở một mức độ hợp lý nhằm sửa chữa những thất bại của thị
trờng đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định.
Nền KTTT càng phát triển thì vai trò của Nhà nớc càng thể hiện đợc tầm quan
trọng. Những vai trò đó là:
Một là: Nhà nớc lập ra luật pháp, các quy định và quy chế để điều tiết:
Các chính phủ quy định khung luật pháp, trên cơ sở đó đặt ra những điều luật
cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trờng. Cùng với Nhà nớc,
chính quyền ở mọi cấp cùng điều tiết hành vi kinh tế bằng cách đặt ra những quy
định chi tiết cho sự hoạt động của các doanh nghiệp. Các quy chế điều tiết nh:
quy chế điều tiết về y tế và an toàn, các điều luật chống tội gian lận và ngăn cấm
những ngời cạnh tranh thoả thuận với nhau để định giá, luật chống độc quyền...
Sau đây là một vài trờng hợp cụ thể:
Ta biết rằng một trong những nguyên nhân dẫn tới tính kém hiệu quả của sản
xuất và tiêu dùng đó là độc quyền. Các nhà độc quyền có thể thu các khoản lợi
nhuận cao bằng cách hạn chế số lợng đem bán đồng thời nâng giá bán. Sở dĩ họ
làm đợc nh vậy là vì họ là những ngời bán duy nhất nên họ không lo sợ bị những
ngời cạnh tranh bán với giá thấp hơn và vì thế kết cục là ngời tiêu dùng phải trả
mức giá cao hơn mức mà lẽ ra họ phải trả. Nền kinh tế đợc thúc đẩy bằng cạnh
tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao nhng cạnh tranh sẽ làm cho các tổ chức độc
quyền bị hạn chế khả năng đạt lợi nhuận độc quyền. Vì vậy họ thờng cố gắng
giảm bớt cạnh tranh.Vậy trong trờng hợp này Nhà nớc phải làm sao để bảo vệ

7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cạnh tranh, chống độc quyền đây? Câu trả lời đó là: Nhà nớc phải điều tiết những
công ty nh vậy bằng cách kiểm soát giá cả mà họ đợc phép đòi phải trả, hoặc
chính phủ có thể tự mình đảm đơng việc cung cấp các sản phẩm có liên quan.
Chính phủ cũng có thể can thiệp vào bằng các luật về cạnh tranh nhằm làm cho sự
cạnh tranh mạnh mẽ hơn, đồng thời ngăn ngừa các công ty độc quyền cũng nh
các mu toan khác hòng kiểm soát sự cung ứng
Một nguyên nhân khác cũng làm ảnh hởng đến kinh tế và xã hội , đó là sự tác
động tiêu cực của ngoại sinh. ảnh hởng của ngoại sinh xảy ra khi một hãng hay
một ngời làm lợi hoặc làm thiệt hại tới ngời khác bên ngoài thị trờng.Thông thờng
các chính phủ chú ý tới tác động tiêu cực của ảnh hởng ngoại sinh nhiều hơn so
với tác động tích cực của nó. Hãy thử xem xét vấn đề ô nhiễm. Ví dụ: một hãng
sản xuất các hoá chất và tống rác thải xuống một hồ. Chất thải gây ô nhiễm nguồn
cung cấp nớc địa phơng, giết hại cá và chim chóc, và tạo ra một mùi khó chịu.Khi
mức sản xuất các hoá chất tăng lên thì tác động càng lan tỏa.Lúc đó tiêu cực sẽ trở
thành mối đe doạ khủng khiếp. Trớc tình trạng đó chính phủ đóng môt vai trò hết
sức quan trọng. Chính phủ sẽ can thiệp vào bằng cách đa ra các quy định nhằm
kiểm soát ảnh hởng ngoại sinh nh ô nhiễm không khí và nớc, chất thải độc hại,
thuốc và thực phẩm không an toan, hay các chất phóng xạ...Chính phủ có những
biện pháp cứng rắn trong việc nghiêm trị những hành động vi phạm các quy định
đã ban hành.
Hai là:Nhà nớc góp phần vào việc xây dựng các chơng trình, kế hoạch phát
triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nớc ta theo các mục tiêu mong muốn.
Trong nền kinh tế nớc ta hiện nay, các doanh nghiệp đợc quyền tự do lựa chọn
phơng án sản xuất kinh doanh, Nhà nớc không can thiệp vào quyết định của họ về
sản xuất cái gì?bằng cách nào?tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phơng án
sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm thớc đo hiệu quả, đồng thời
làm mục tiêu định hớng cho hành vi của họ. Mặt khác trong nền kinh tế nớc ta
hiện nay cũng có rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau;

họ cạnh tranh gay gắt với nhau nhằm đạt mục tiêu mà họ mong muốn.Điều này có
thể làm triệt tiêu các nguồn lực kinh tế dẫn đến môi trờng kinh doanh bị phá huỷ
và nền kinh tế không thể nào phát triển đợc.
Khác với các doanh nghiệp, vai trò kinh tế của Nhà nớc là ở chỗ theo đuổi mục
tiêu chung của dân tộc, tức là làm cho dân giàu, nớc mạnh, nền kinh tế tăng trởng
một cách ổn định, vững chắc, đảm bảo hiệu quả và công bằng xã hội.
Thực chất của việc định hớng sự phát triển của nền kinh tế là thống nhất các
lợi ích khác nhau, qui tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để sao cho trong khi
mỗi ngời theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình
vào việc theo đuổi lợi ích dân tộc.Nói cách khác vai trò định hớng nền kinh tế của
Nhà nớc thể hiện ở chỗ: chính Nhà nớc là ngời hoạch định các chơng trình phát
triển kinh tế-xã hội mà mỗi chơng trình là mỗi cơ hội đầu t mở rộng phát triển sản
8

×