Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1987 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.44 KB, 19 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1987-2011
Bảng 2.2: Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt

8
13

Nam giai đoạn 1987-2011

DANH MỤC HÌNH VẼ
Trang
Hình 2.1: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1987-2011

9

Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1987-2011

11

Hình 2.3: Mối quan hệ giữa lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở

14

Việt Nam giai đoạn 1987-2011


MỞ ĐẦU



Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề lớn của kinh tế vĩ mô. Sự tác
động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế là vấn đề đã được nhiều nhà kinh tế học
nghiên cứu và đưa ra kết luận. Tuy nhiên, thực tiễn từng quốc gia không phải lúc nào
cũng tuân theo các kết quả nghiên cứu đó, đặc biệt là đối với các quốc gia đang trong
giai đoạn phát triển và hội nhập như Việt Nam hiện nay. Việc xác định sự tác động của
lạm phát đến tăng trưởng kinh tế dựa trên diễn biến kinh tế thực tiễn của Việt Nam
trong những năm mở cửa thị trường là việc làm hết sức cần thiết vì đây là cơ sở quan
trọng cho việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. Đứng trước thực
trạng đó, nhóm nghiên cứu chúng em chọn đề tài: “Tác động của lạm phát đến tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1987-2011”. Qua việc sử dụng các số liệu thu
thập được cùng việc áp dụng các công cụ kinh tế lượng, chúng em hi vọng có thể tìm
ra được mối quan hệ hồi quy thích hợp giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam trong những năm qua.
Bài tiểu luận của chúng em được chia làm 2 phần chính:
Phần 1: Lý luận chung về lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Phần 2: Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn
1987-2011

NỘI DUNG
I. Lý luận chung về lạm phát và tăng trưởng kinh tế
1. Lý luận chung về lạm phát
1.1. Khái niệm

Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền.Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền
tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác.
1.2. Phân loại lạm phát
Căn cứ vào tốc độ lạm phát các nhà kinh tế thường chia ra làm ba loại lạm phát

khác nhau:
3


 Lạm phát vừa phải: Xảy ra khi giá cả tăng chậm và có thể dự đoán trước được. Đối

với các nước đang phát triển, lạm phát ở mức một con số hay dưới 10% một năm
được coi là lạm phát vừa phải. Tác hại của lạm phát ở đây là không đáng kể.
 Lạm phát phi mã: Xảy ra khi giả cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số như
20%, 100% hoặc 200%... một năm. Khi lạm phát kéo dài đồng tiền mất giá nhanh
chóng đồng thời sẽ nảy sinh những biến dạng nghiêm trọng cho nền kinh tế.
 Siêu lạm phát: là trường hợp lạm phát đặc biệt cao. Định nghĩa cổ điển về siêu lạm
phát do nhà kinh tế người Mỹ Philip Cagan đưa ra là mức lạm phát 50% một tháng
trở lên (khoảng 13000% một năm trở lên). Siêu lạm phát thực sự là một tai hoạ,
song là hiện tượng cực hiếm.
1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát
 Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó "lạm phát do cầu


kéo" và "lạm phát do chi phí đẩy" được coi là hai nguyên nhân chính:
Lạm phát do cầu kéo: Khi nhu cầu trên thị trường về một loại hàng hóa hay dịch
vụ tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả các mặt hàng
khác cũng theo đó leo thang dẫn đến sự tăng giá của hàng loạt mặt hàng khác trên



thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu này được gọi là “gia tăng do cầu kéo”.
Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả
nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế... Khi giá cả
của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các doanh

nghiệp chắc chắn cũng tăng lên. Các doanh nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi
nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh
tế cũng tăng.

 Ngoài ra có một số nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát như:
• Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho

người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng
tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi
nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả buộc phải tăng giá thành sản phẩm. Điều


này gây ra sự tăng mức giá chung trong nền kinh tế dẫn đến tình trạng lạm phát.
Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một hàng nào
đó, trong khi lượng cầu một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người
cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà
không thể giảm) thì mặt hàng có lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi
đó mặt hàng có lượng cầu tăng lại tăng giá. Do đó, giá cả chung tăng lên và dẫn tới
lạm phát.
4




Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung,
hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị
trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do




tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.
Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hoá nhập khẩu tăng thì giá bán sản phẩm đó
trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu

đội lên.
• Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân
hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so
với ngoại tệ; hay khi ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà
nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên sẽ gây ra lạm phát
1.4. Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát
 Chỉ số lạm phát được đo lường theo chỉ số giá cả. Các phép đo phổ biến của chỉ số


lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá tiêu dùng CPI: Đo lường sự thay đổi về giá cả của một rổ hàng hóa và
dịch vụ có tính chất đại diện (như lương thực, năng lượng, quần áo, giao thông) và



chưa tính thuế.
Chỉ số sản xuất PPI: Đo lường mức tăng giá trong nền kinh tế bị gây nên bởi sự

tăng lên của giá phí trong sản xuất.
• Chỉ tiêu tiêu dùng cá nhân PPE: Chỉ số này tăng cho thấy chi tiêu tăng, kéo theo
giá bị áp lực tăng theo, do đó được coi là một trong các chỉ số dùng để dự đoán
mức độ lạm phát trong nền kinh tế.
 Ở Việt Nam: lạm phát được đo theo chỉ số giá tiêu dùng CPI
• Cách tính CPI thời kỳ t:
CPIt = 100 x (Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t)/(Chi phí để mua giỏ hàng hoá



kỳ cơ sở).
Cách tính tỷ lệ lạm phát theo thời kỳ:
t

= × 100%

: lạm phát thời kì t
: Mức giá cả trung bình thời kỳ t
: Mức giá cả trung bình thời kỳ thời kỳ t-1
2. Lý luận chung về tăng trưởng kinh tế
2.1. Khái niệm
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời
gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ.
Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử
5


dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các
thời kỳ.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế.
2.2. Công cụ phản ánh, chỉ tiêu đánh giá và các yếu tố quyết định đến tăng trưởng
kinh tế
 Công cụ phản ánh tăng trưởng kinh tế:
Hiện nay, trên thế giới người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải
của xã hội bằng các đại lượng tổng sản phẩm quốc dân (GDP) hoặc tổng sản phẩm
quốc nội (GNP). Để phản ánh rõ hơn về tăng trưởng kinh tế, người ta thiết lập mô hình
tăng trưởng kinh tế có tên là “Mô hình tăng trưởng Solow”. Mô hình chỉ ra ảnh hưởng
của tiết kiệm, tỷ lệ tăng dân số và tiến bộ công nghệ với sự tăng trưởng theo thời gian

của sản lượng, đồng thời còn xác định một vài nguyên nhân gây ra sự khác biệt lớn về
mức sống các nước.
 Những chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế:
• Chỉ tiêu phản ánh quy mô, khối lượng hàng hóa – dịch vụ sản xuất ra: GO, GDP,
GNI, NI, NDI. Trong đó:
− Tổng giá trị sản xuất (GO - Gross Output): là tổng giá trị sản phẩm vật chất và
dịch vụ được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).
− Tổng sản phẩm quốc nội (GDP - Gross domestic product): là tổng giá trị thị
trường của tất cả các hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một
nước trong một thời kì xác định.
− Tổng thu nhập quốc dân(GNI – Gross national income): tổng thu nhập về sản
phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do công nhân của một nước tạo nên trong
một khoảng thời gian nhất định.
− Thu nhập quốc dân (NI – National Income): phần giá trị sản phẩm vật chất và
dịch vụ mới sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định;
− Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI – National Disposable Income): phần thu
nhập của quốc gia dành cho tiêu dùng cuối cùng và tích lũy thuần trong một
thời kỳ nhất định.
• Chỉ tiêu phản ánh mức giá trị sản xuất hàng hóa – dịch vụ bình quân đầu người
(GDP/người, GNI/người): phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổi dân
số.
 Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế :
• Nhân tố kinh tế bao gồm:

6





Các nhân tố tác động trực tiếp đến tổng cung: vốn (K), lao động (L), nguồn tài

nguyên, đất đai (R), công nghệ kỹ thuật (T)
− Các nhân tố tác động đến tổng cầu: chi cho tiêu dùng cá nhân (C), chi tiêu của
Chính phủ (G), chi cho đầu tư (C), chi tiêu qua hoạt động xuất nhập khẩu
(NX=X-M).
• Các yếu tố phi kinh tế bao gồm: đặc điểm văn hóa – xã hội, thể chế chính trị- kinh
tế-xã hội, cơ cấu dân tộc, cơ cấu tôn giáo, sự tham gia của cộng đồng…
2.3. Phương pháp đo lường
 Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối: ∆Y = –
 Tốc độ tăng trưởng tương đối: = ( – ) /

Trong đó, Y là quy mô nền kinh tế và được đo bằng GDP (hay GNI):
Y = GDP = C + G + I + (X-M)
(nếu tiếp cận từ chi tiêu)
Y = GDP = W + R + i + Pr + Te + OI +Dep (nếu tiếp cận từ thu nhập)
GNI = GDP + chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
(Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài bằng thu nhập lợi tức nhân tố từ nước
ngoài trừ chi trả lợi tức nhân tố ra nước ngoài)
Vì tốc độ tăng trưởng kinh tế đo lường sự gia tăng của mức sản xuất, là một biến
thực tế nên đo lường chúng ta sử dụng GDP thực tế. Đó là tổng giá trị sản phẩm vật
chất và dịch vụ cuối cùng của năm nghiên cứu còn giá cả được xác định theo mặt bằng
của năm gốc (giá so sánh)
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế được coi là phản ánh gần đúng nhất mức độ cải thiện
mức sống của người dân đó là sử dụng GDP thực tế bình quân đầu người để tính
toán.
=
Trong đó: là thực tế bình quân đầu người năm t
 Tốc độ tăng trưởng bình quân theo thời kỳ:


=
-1
Trong đó:
: sản lượng năm gốc
: sản lượng năm n
n: số năm trong giai đoạn tính cả năm 0
: tốc độ tăng trung bình trong cả thời kỳ
 Tốc độ tăng trưởng kinh tế tính theo đầu người:
Công thức:
: tốc độ tăng trường GDP tính theo đầu người
: tốc độ tăng trưởng GDP
: tốc độ tăng dân số
2.4. Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế
 Làm cho mức thu nhập dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của
cộng đồng được cải thiện
7


 Tạo điều kiện giải quyết công ăn, việc làm, giảm thất nghiệp
 Tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng

uy tín và vai trò quản lí của nhà nước đối với xã hội
 Điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đã
phát triển đặc biệt là đối với các quốc gia chậm phát triển.
3. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế
Có rất nhiều các nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc các trường phái khác
nhau đã chỉ ra xu hướng tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế.
 Trường phái tiền tệ cho rằng trong ngắn hạn, khi chính phủ tăng lượng cung tiền sẽ
góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời cũng làm ra tăng lạm phát do đó tăng
trưởng và lạm phát có mối quan hệ cùng chiều.

 Theo trường phái Keynes, mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu
dương, điều này trùng với kết quả nghiên cứu của Tobin được nghiên cứu năm
1965.
 Tuy nhiên, tỉ lệ lạm phát cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Lạm phát ở
mức cao sẽ dẫn đến tình trạng bất ổn trong lĩnh vực kinh tế và làm tăng rủi ro của
các hoạt động đầu tư. Lạm phát làm thay đổi giá cả tương đối và được xem như
một loại “thuế” đối với nền kinh tế. Những nghiên cứu gần đây của Fisher (1993),
Barro (1996), Bruno và Easterly ( 1998) đã chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng và
lạm phát mang dấu âm ở nhiều nước khác nhau. Xa hơn, Khan và Senhadji (2001)
đã tìm thấy “ngưỡng” của mức lạm phát là 11% mà theo đó mối quan hệ tăng
trưởng – lạm phát mang dấu âm khi tỉ lệ lạm phát vượt ngưỡng này và mang dấu
dương trong những trường hợp cò lại. Bên cạnh đó, các nghiên cứu của Fisher
(1993) và Sarel (1996) đã cho thấy lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ phi
tuyến tính.
 Rất nhiều các nghiên cứu khác về sự ảnh hưởng qua lại giữa tăng trưởng và lạm
phát với các phương pháp khác nhau được công bố. Mallik và Chowdhury (2001)
đã sử dụng hồi quy đồng kết (co- integration regression) và mô hình sai số hiệu
chỉnh (ECM- Error Correction Model) để xem xét mối quan hệ cùng chiều giữa
tăng trưởng và lạm phát trong dài hạn tại bốn nước Nam Á (Bangladesh, Ấn Độ,
Pakistan và Sri- Lanka). Thêm vào đó, Faria and Carneiro (2001) cũng sử dụng
kiểm định nghiệm đơn vị (unit root test) được đề xuất bởi Dickey- Fuller (DF) và
Augmented Dickey- Fuller (ADF) (1979) và phương pháp phần tích phương sai
(Variace Decomposition) dựa trên mô hình VAR ( Vector Autoregressive Model)
cho thấy, lạm phát không ảnh hưởng đến sản lượng thực tế (GDP) trong dài hạn,
8


tuy nhiên trong ngắn hạn thì ảnh hưởng của lạm phát đến sản lượng thực tế (GDP)
lại mang dấu âm.
II. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 19872011

1. Tình hình lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1987-2011
Nghiên cứu thực trạng lạm phát ở Việt Nam giai đoạn từ 1987 đến nay, ta có bảng
số liệu về thực trạng lạm phát của Việt Nam như sau (ở Việt Nam, CPI được sử dụng
để đánh giá về tình hình lạm phát).
BẢNG 2.1: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam giai đoạn 1987-2011
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.)

Năm

1987

Tỷ lệ lạm
phát (%)

Năm
Tỷ lệ lạm
phát (%)

Năm

Tỷ lệ lạm
phát (%)

1988

223

1995

1989


349

1996

12,7

1990
36

1997

4,5

67,1

1998

3,6

9,2

2003

2004

2005

2006


2007

3

9,5

8,4

6,6

12,6

Từ bảng trên, ta có đồ thị sau:

9

1991
67,5

1999
0,1

2008

19,89

1992
17,5

2000

0,6

2009

6,52

1993
5,2

2001

1994
14,4

2004

0,8

2010

11,75

4

2011

18,13


Hình 2.1: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 1987- 2011

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.)
Dựa vào bảng thống kê trên ta có thể thấy tình hình lạm phát trong thời gian này :
 Giai đoạn 1986-1988: Những năm đầu đổi mới 1986-1988, nước ta trải qua thởi kì

siêu lạm phát, lạm phát ở mức 03 con số.Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị
khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn
hàng.
 Giai đoạn 1989-1995: Lạm phát phi mã (trừ năm 1993 lạm phát là 5,2 %), lạm phát

còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước. Chính phủ đưa ra phương
châm: ngân sách thì thu lấy mà chi; ngân hàng thì vay lấy mà cho vay, có nghĩa là
Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt.
 Giai đoạn 1996-2003: Được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp, mặc dù năm

1998 lên đến mức 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực và năm 2002, 2003
đã có dấu hiệu phục hồi
 Giai đoạn 2004-2011: Là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2

năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng
8,4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%,
năm 2009 chỉ tăng 6,52%; đến năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011 tỷ lệ lạm phát
18,13%. Lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn và biểu hiện tính chu kì. Chu kì
này vào khoảng 3 năm( 2004-2006, 2007-2009, 2009-2012) tỷ lệ lạm phát đã lên
đến đỉnh điểm vào tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%).
 Xét về mức độ, lạm phát từ năm 2001 đến nay không trầm trọng bằng

lạm phát trong thời kỳ cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990. Mặc dù
vậy, lạm phát đã gây ra nhiều tác động tiêu cực cho nền kinh tế, gây lo
ngại lớn cho cả các cấp hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và cho
người dân, nhất là những người có việc làm bấp bênh và thu nhập thấp,

10


đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ để hiểu rõ nguyên nhân và tìm ra các
giải pháp hữu hiệu nhằm vượt qua thách thức, không chỉ tiếp tục duy trì
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà cần đảm bảo một sự tăng trưởng lâu
dài, bền vững.
2. Tình hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1987-2011

Trước năm 1987, nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, trình độ khoa học kỹ
thuật trong sản xuất còn thô sơ và lạc hậu. Chính vì thế mà năng còn suất thấp, nền
kinh tế chậm phát triển nền kinh tế cơ cấu chủ yếu là thuần nông.Nhưng sau khi hội
nhập nền kinh tế thế giới, bằng việc thực hiện chính sách mở cửa thị trường nền kinh
tế nước ta đã có những chuyển biến rõ rệt. Sau đây là bảng về tốc độ tăng trưởng của
Việt Nam giai đoạn 1987-2011.
Bảng 2.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của việt nam
giai đoạn 1987-2011
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.)

Năm
Tốc độ tăng
trưởng (%)
Năm
Tốc độ tăng
trưởng (%)

Năm
Tốc độ tăng
trưởng (%)


1987
3,6

1995
9,54

1988

1989

6,01

1996

1990

4,68

1997

9,34

5,09

1998

8,15

5,81


1999

5,76

4,77

2008

2003

3004

2005

2006

2007

7,34

7,79

8,44

8,23

8,46

11


1991

6,31

1992
8,7

2000
6,8

2009
5,32

1993
8,08

2001
6,9

2010
6,78

1994
8,83

2002
7,08

2011
5,89



Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 1987-2011
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê)

Qua hình vẽ và phân tích về chỉ số GDP của Việt Nam trong giai đoạn này, đã cho
thấy tình hình phát triển kinh tế của nước trong từng giai đoạn nhỏ:
 Giai đoạn 1987-1988: Năm 1987 là năm có tốc độ tăng trưởng thấp nhất trong

vòng 25 năm trở lại đây với mức 3,6%. Nguyên nhân là do đây là năm đầu của
công cuộc đổi mới, tình hình tài chính nước ta trong tình trạng yếu kém, thu không
đủ chi thường xuyên, thâm hụt ngân sách nhà nước cao quá mức, năm 1987 cũng
chính là năm mà lạm phát nước ta đạt mức 3 con số - siêu lạm phát. Theo PGS- TS
Lê Quốc Lý sai lầm lớn nhất của ta đó là không có chính sách chống lạm phát
thông qua khống chế bội chi ngân sách và kiểm soát hệ thống tiền tệ-tín dụng. Sang
đến năm 1988, nhờ có các biện pháp ban đầu kiềm chế lạm phát, mức lạm phát
giảm xuống, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước tăng từ 3,6% lên đến 6,01% tăng gấp
1,6 lần.
 Giaiđoạn 1989-1992: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái. Tốc
độ tăng trưởng GDP tăng nhanh, liện tục từ 4.68% năm 1989 lên tới 8.7% vào năm
1992, tức là tăng gấp 1.8 lần. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt mức 6.07%/ năm,
đây là con số khá cao và ổn định. Điều này cho thấy nước ta đã có những biện pháp
tương đối hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điển hình nhất đó chính là
chính sách tiền tệ thông qua việc điều chỉnh các chính sách về lãi suất, về tỷ giá hối
đoái.
 Giai đoạn 1993-1995: Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt ngưỡng cao và ổn định,
tăng từ 8,08% vào năm 1993 lên đến 9,54% năm 1995. Nhà nước ta kịp thời nhận
thấy lạm phát có xu hướng tăng trở lại vào năm 1994, và đã có những biện pháp
giám sát cung tiền tệ, kiềm chế lạm phát kịp thời, đảm bảo sự phát triển ổn định
cho nên kinh tế.

 Giai đoạn 1995-1999: Tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta giảm một cách liên tục

trong các năm từ 8,15% vào năm 1995 xuống chỉ còn 4,77% vào năm 1999, giảm
gấp 1,7 lần trong 4 năm. Nguyên nhân là do những chính sách vĩ mô không thận
trọng của nhà nước như chính sách điều chỉnh giá cả một số mặt hàng như giá xi
măng, giá điện, giá xăng đã làm cho chi phí đầu vào tăng mạnh, cùng với cuộc
12


khủng hoảng tài chính khu vực châu Á đã khiến lạm phát tăng trở lại và ảnh hưởng
mạnh đến nền kinh tế.
 Giai đoạn 2000-2007: Đây được coi là giai đoạn phồn vinh trong phát triển kinh tế
ở nước ta. Tốc độ tăng trưởng GDP luôn được duy trì ở mức ổn định và tăng liên
tục từ 6,8% vào năm 2000 lên đến 8,46 % vào năm 2007 trong một thời gian dài.
Chủ trương mở rộng chính sách tài khóa phục hồi nền kinh tế đang có nguy cơ
giảm sút cùng với kỳ vọng về tương lai sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã thúc
đẩy các dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam tạo động lực mạnh
mẽ cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên nó cũng gây nên mầm mống tích tụ gây ra
lạm phát cao bắt đầu bộc lộ từ giữa năm 2007.
 Giai đoạn 2008-2009: Tốc độ tăng trưởng GDP giảm từ 6,31% vào năm 2008
xuống còn 5,32% vào năm 2009. Nguyên nhân chính của sự suy giảm này là do
việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào tháng 11/2006. Nhu cầu
ổn định đồng tiền Việt đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước phải trung hòa một lượng
ngoại tệ rất lớn, góp phần thổi bùng lạm phát trong năm 2008. Nhìn chung, chính
phủ tỏ ra lung túng trong việc kiểm soát kinh tế vĩ mô giai đoạn này. Thêm vào đó,
những tác động to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giớiđã ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nền kinh tế của Việt Nam trong hai năm 2008 và 2009. Nền kinh tế phải
hứng chịu thời kỳ tăng trưởng kinh tế ở mức thấp đi liền với lạm phát cao.
 Giai đoạn 2010-2011: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm từ 6,78% năm 2010 xuống
còn 5,89% năm 2011. Giảm sút chủ yếu do giảm sút của khu vực công nghiệp, xây

dựng và dịch vụ. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học thế giới, năm 2011 với
tỷ lệ lạm phát là 18,13% Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động tiêu
cực đến tăng trưởng.
Nhận xét chung:Trong giai đoạn 1986 – 2011, tốc độc tăng trưởng của Việt Nam
có nhiều biến động phức tạp, do tác động từ các nguyên nhân cả khách quan và chủ
quan, cả do các chính sách của Chính phủ và tác động của các cuộc khủng hoảng kinh
tế tài chính trên thế giới.
3. Tác động của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn

1987-2011
Để nghiên cứu mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
giai đoạn 1986-2011, nhóm nghiên cứu chúng em xin được đưa ra mô hình ước lượng
13


về mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng, để tìm ra xu hướng tác động của lạm phát đến
tăng trưởng kinh tế.
Bảng 2.2: Tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế của việt nam
giai đoạn 1987-2011
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê.)

Hình 2.3 : Mối quan hệ giữa lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 1987-2011
(trục tung là GDP; trục hoành là CPI)
Dự báo mô hình là: Log(GDP)=c1+c2*Log(CPI)+c3*Log(GDP(-1))+c4*Log(CPI(-1))

14


Phương trình hồi quy:


Với 10%, n=24, k=4, R2= 44,0745
 Kiểm định giả thuyết:
Miền bác bỏ W=(+;T0.1(20)=1.325)
Tqs= 1.542972 > T0.120 =1.325
Tqs thuộc miền bác bỏ
 Bác bỏ H0, chấp nhận H1

Vậy c2>0, nên CPI và GDP có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Nói cách khác,
CPI có tác động theo chiều thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn
1987-2011.
 Kiểm định hàm phù hợp : giả thuyết

Miền bác bỏ

W=(F0.1(3, 20)=2,38; +)
15


Fqs== 5,253859 >F0.1(3, 20
Vậy Fqs thuộc miền bác bỏ
Vậy chấp nhận H1 bác bỏ H0, vậy hàm phù hợp
Như vậy, từ mô hình kinh tế lượng trên ta thấy lạm phát tác động đến tăng trưởng
kinh tế theo chiều dương. Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng, kết quả trên có thể
không còn phù hợp nếu lạm phát liên tục duy trì ở mức cao.

16


KẾT LUẬN


Như vậy, lạm phát và tăng trưởng ở Việt Nam trong những năm sau đổi mới có
nhiều biến động. Tuy nhiên, nhìn chung tăng trưởng kinh tế biến động cùng chiều so
với lạm phát, nói cách khác, lạm phát tác động theo chiều dương đến tăng trưởng kinh
tế. Điều này phù hợp với kết luận của các nhà kinh tế học về tác động của lạm phát
đến tăng trưởng khi lạm phát ở mức thấp. Tuy nhiên, nếu lạm phát lên quá cao, sẽ có
thể gây ra tác động tiêu cực đến nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chính phủ cần có những
biện pháp phù hợp để kiềm chế lạm phát, giữ lạm phát ở mức phù hợp và ổn đinh, nhất
là trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, từ đó, hướng tới phát triển kinh
tế bền vững.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Nguyễn Văn Công (2008), Giáo trình Nguyên lý kinh tế vĩ mô, Nhà xuất

bản Lao động.
2. PGS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Nhà xuất bản

Lao động xã hội.
3. Ths. Hà Thị Hương Lan (2012), “Tăng trưởng và lạm phát ở Việt Nam”, Website

Trường bồi dưỡng cán bộ tài chính, />4. Bộ Ngoại giao Việt Nam, />5. Tổng cục thống kê, />6. Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách, />
18


7. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia,


/>
19



×