Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.12 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Nền kinh tế Việt Nam sau giai đoạn khủng hoảng đang dần hồi phục và phát triển.
Nhà nước đang cố gắng áp dụng những chính sách kích cầu để đẩy nhanh sự phát
triển của kinh tế. Bên cạnh đó, đầu tư của chính phủ cho các công trình công cộng
(như đường sá, bệnh viện, trường học…) cũng ngày càng tăng.
Một vấn đề đặt ra hiện nay đối với nhà nước là nguồn thu từ thuế thấp hơn
nhiều so với khoản tiền mà chính phủ đã chi ra. Điều này dẫn đến nợ công – một vấn
đề đang được bàn cãi nhiều hiện nay trong các cuộc họp quốc hội.
Nhưng nợ công không đơn giản là các khoản vay cho chi tiêu của chính phủ.
Vậy nợ công được tính bao gồm những khoản nào? Nợ công của Việt Nam hiện
nay ra sao? Nợ công cao có tác động gì tới nền kinh tế Việt Nam hiện nay? Những
câu hỏi đó sẽ được nhóm trình bày trong những phần sau.
Do lượng tài liệu quá rộng nên trong quá trình tổng hợp, có thiếu sót gì nhóm
chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cũng như của các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

Trân trọng!


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam

MỤC LỤC
I.KHÁI NIỆM NỢ CÔNG…………………………………………………3
II.THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM……………………………4
III.NGUYÊN NHÂN GIA TĂNG NỢ CÔNG……………………………8
IV.TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG TỚI NỀN KINH TẾ……………….....9
V. GIẢI PHÁP VỀ TÌNH TRẠNG NỢ CÔNG………………………….12
KẾT LUẬN……………………………………………………………..16
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………...17


16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam

I.KHÁI NIỆM NỢ CÔNG
Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản
tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là
tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa
phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ,
nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ
hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao
nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Nợ công - truớc hết là vấn đề mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia.
Nhu cầu chi nhiều quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông
qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi,
từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng.
Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và ngày càng chồng chất thêm.
Theo Luật Quảnlý nợ công mới được ban hành và có hiệu lực từ đầu năm nay,
nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền
địa phương. Như vậy, các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính
phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh
tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công.
Trước nay mọi người thường chỉ nghĩ đến nợ chính phủ khi nói đến tổng nợ
công. Khi Chính phủ phát hành 1 tỉ đô la trái phiếu ở nước ngoài, ai cũng biết nó
được tính vào tổng nợ công nhưng khi đọc tin một doanh nghiệp thu xếp ký kết một
khoản vay 2 tỉ đô la với một ngân hàng nước ngoài nào đó, có sự bảo lãnh của Chính
phủ, có thể có người vẫn nghĩ đó là nợ doanh nghiệp, đâu phải là nợ công! Thực ra
đó cũng chính là một khoản được tính vào nợ công.

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam

Ngoài ra cần chú ý thêm khái niệm “nợ nước ngoài của quốc gia”, là tổng các
khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh
nghiệp và tổ chức khác vay theo phương thức tự vay, tự trả. Vốn vay từ Ngân hàng
Phát triển châu Á hay Ngân hàng Thế giới đương nhiên là nợ nước ngoài rồi nhưng
một doanh nghiệp vay từ đối tác nước ngoài vài trăm triệu đô la, chẳng hạn, dù có
hay không có bảo lãnh của chính phủ, thì khoản tiền đó vẫn phải tính vào tổng nợ
nước ngoài của quốc gia.
Khái niệm nợ công này của Bộ Tài chính hẹp hơn so với khái niệm phổ biến
của quốc tế. Theo Hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính của Hội nghị của LHQ
về thương mại và phát triển (UNCTAD), nợ công ngoài nợ chính phủ, nợ được chính
phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương còn bao gồm các nghĩa vụ nợ của
ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính phủ (bao gồm cả doanh nghiệp
nhà nước) ở tất cả các cấp chính quyền. Có lẽ đây là nguyên nhân làm cho số liệu về
nợ công của Việt Nam trong cơ sở dữ liệu của một số tổ chức quốc tế cao hơn hẳn so
với số liệu của Bộ Tài chính.
II.THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
Tại Việt Nam, tình trạng nợ công liên tục tăng làm cho yêu cầu nâng cao chất
lượng quản lý nợ công của Việt Nam cũng trở nên cấp thiết. Theo CIA, nợ công của
Việt Nam đứng thứ 44/129 quốc gia ( chiếm 52% GDP) trên thế giới. (Số liệu năm
2009).

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam


Tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, báo cáo cho thấy nợ
chính phủ đang tăng cao: bằng 33,8% GDP năm 2007; 36,2% GDP năm 2008, 41,9%
GDP năm 2009 và dự báo lên đến 44,6% vào cuối năm 2010. Dựa vào các con số
này, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội cảnh báo mức nợ chính phủ đã tăng
sát mức trần cho phép.Nhưng ở đây có hai điểm cần làm rõ. Mức nợ này, nếu đúng
theo báo cáo, chỉ mới là nợ chính phủ, chưa phải là tổng mức nợ công vì chưa tính
đến các khoản nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Hơn
nữa, mức trần để xem nợ công là an toàn được tính khi tổng nợ công bằng hay dưới
mức 50% GDP. Nếu cộng hai khoản nói trên, nhất là những khoản vay của các tập
đoàn được chính phủ bảo lãnh trong mấy năm vừa rồi, nợ công của Việt Nam đã
vượt trần.
Theo một báo cáo cuối năm rồi của Bộ Tài chính, nợ công của Việt Nam tính đến
hết năm 2009 đã là 44,7% GDP (trong đó nợ Chính phủ bằng 35,4% GDP, nợ được

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
Chính phủ bảo lãnh bằng 7,9% GDP và nợ chính quyền địa phương là 1,4% GDP).
Rõ ràng hai con số 41,9% GDP đưa ra vào cuối tuần trước và 35,4% GDP theo báo
cáo của Bộ Tài chính đã có sự sai lệch rất lớn. Nếu tính thêm các khoản vay mới đây
như phát hành trái phiếu bằng tiền đồng và ngoại tệ, vay từ các định chế tài chính
quốc tế (như 500 triệu đô la từ Ngân hàng Thế giới...) tỷ lệ này chắc chắn còn cao
hơn nhiều. Cũng trong báo cáo này, tổng số dư nợ nước ngoài trung và dài hạn của
quốc gia khoảng 30,5% GDP. Nợ công và cán cân ngân sách của Việt Nam (20012009) - Nguồn: EIU (số liệu 2009 là ước tính)
Vậy thì số liệu nợ công mà chính phủ công bố có thực sự phản ánh được tình
trạng nợ công ở Việt Nam hay không ? Có thể nói cách tính của Việt Nam về nợ của
chính phủ cũng chưa phản ánh một phần quan trọng khác: đó là nợ phải trả trong
tương lai khi công chức về hưu. Phần này có thể rất lớn, thí dụ như ở Singapore nó

lên tới 50% GDP. Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi khi một
công chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một phần khác, có thể
bằng hoặc gấp đôi, chính phủ phải đóng vào quỹ này.
Nhiều nước, không thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, như thế nhà nước
hàng năm cứ lấy tiền ngân sách ra chi trả và quên đi cái quỹ kia. Nguyên tắc là phải
tính và cái quỹ đó chính là nợ của nhà nước với công chức (bao gồm công chức, giáo
viên và nhân viên y tế trong khu vực công, quân đội, cảnh sát, và có thể cả những
người làm việc cho doanh nghiệp nhà nước).
Phần nhà nước đóng góp đáng lẽ phải có (dù không đóng) vẫn phải tính vào
chi tiêu. Trong trường hợp dựa vào hợp đồng đã ký về hưu trí, nếu đóng góp không
đủ để chi trả trong tương lai thì phải tính vào nợ.
Các nước đang phát triển đã không ghi đúng đắn như trên, trong đó tất nhiên
có Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc, Malaysia, Philippines và Thái Lan. Trong các
nước châu Á thì Singapore đã ghi theo đúng chuẩn mực và vì thế tỷ lệ nợ của họ rất
cao, xếp hàng thứ 6 thế giới (xem bảng 2).
Hầu hết các nước phát triển trong đó có Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước
trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của Liên hiệp
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam

quốc. Ở EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ
trên GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt
ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát triển, khi không tính nợ hưu trí thì
có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách hưu trí cho
công chức không và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế nào). Ở các nước
phát triển, tỷ lệ nợ công có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ nợ nhà nước vì khu vực
quốc doanh không đáng kể, và do đó họ vẫn chỉ tập trung vào nợ nhà nước.


Tỷ lệ nợ so với GDP của Việt Nam trong những năm qua. (*): Dự kiến. Số liệu:
MPI, WB
Theo biểu đồ ta thấy tỉ lệ nợ công trong GDP của Việt Nam ngày càng tăng dẫn đén
việc thâm hụt ngân sách ngày càng lớn. Hiện nợ công phụ thuộc vào tăng trưởng
kinh tế.

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
Theo bản đồ nợ của The Economist, trong năm 2010 con số nợ chi tiết của Việt Nam
là 50.716.438.356 USD (50,7 tỷ USD), chiếm 51,7% GDP. Điều này có nghĩa là với
dân số 87,6 triệu, mỗi người Việt Nam gánh 578,65 USD nợ công.
Cũng theo thống kê này, kể từ năm 2001 đến nay, số nợ trên đầu người của Việt Nam
ngày càng tăng. Hồi 2001, tỷ lệ nợ công trên GDP tương đương 26,6% và nợ công
đầu người chỉ là 106 USD.
Dự báo cho năm 2011 khả quan hơn khi mặc dù nợ công tăng thêm gần 6 tỷ USD,
nhưng tỷ lệ so với GDP giảm xuống còn 50,9%. Tuy nhiên, vào lúc đó, nợ công đầu
người là 638 USD.
III.NGUYÊN NHÂN GIA TĂNG NỢ CÔNG
Nhìn chung trên toàn thế giới, nguyên nhân nợ công đầu tiên phải kể đến, việc
gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của bộ
máy nhà nước ở các cấp có xu hướng ngày càng phình to, các chương trình kinh tế,
xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng, đầu tư phát triển có sở hạ tầng
không ngừng tăng …, đặc biệt, hậu quả to lớn của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh
tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục.
Sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước kém, không chặt chẽ, thậm
chí bị buông lỏng, cộng thêm với tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi
tiêu, cùng với tệ tham nhũng phát triển ở nhiều nước, cũng trở thành nguyên nhân
không kém phần quan trọng.

Trong khi đó, các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi,
thậm chí một số loại thuế chịu áp lực phải cắt giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau,
đặc biệt như thuế quan và phí hải quan của hầu hết các nước phải cắt giảm hoặc loại
bỏ phù hợp với các quy định của WTO và các thoả thuận thương mại khác mà họ
tham gia. Trong khi đó, vấn đề quản lý các nguồn thu, nhất là từ thuế, gặp không ít

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
khó khăn ở nhiều nước do tình trạng trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát
không chặt và xử lý không nghiêm của các cơ quan chức năng.
Đối với Việt Nam, nguyên nhân trước nhất dẫn đến sự tăng cao của nợ công là
việc tiếp tục áp dụng các biện pháp kích cầu. Điều này dẫn đến tỷ lệ bội chi Ngân
sách cao và Chính phủ phải vay nợ để bù đắp.
Một nguyên nhân khác cũng được các chuyên gia kinh tế đề cập là Chính phủ
gia tăng huy động vốn. Lượng ODA được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam
trong năm 2010 ước khoảng 8 tỷ USD (tăng 36% so với 2009) trong khi Bộ Tài
chính cũng phát hành thành công một tỷ USD trái phiếu Chính phủ hồi đầu năm.
Theo đánh giá một thành viên của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nếu chỉ tính riêng
các khoản vay này thì nợ của Việt Nam là không đáng ngại, bởi phần lớn các khoản
vay đều có hạn trả trong trung và dài hạn.
Tuy nhiên, nhắc đến nợ công, người ta còn phải tính đến các khoản do chính
quyền địa phương hoặc doanh nghiệp đi vay dưới sự bảo lãnh của Chính phủ. Theo
ước tính, khoản vay của doanh nghiệp hiện chiếm khoảng 10% tổng dư nợ công và là
khoản đáng lo ngại nhất bởi phần lớn là vay với kỳ hạn ngắn. Trong trường hợp
doanh nghiệp mất khả năng trả nợ, Chính phủ đương nhiên sẽ phải gánh trách nhiệm
với tư cách là người bảo lãnh. Và như vậy đương nhiên số liệu nợ công theo đó sẽ
tăng lên.
IV.TÁC ĐỘNG CỦA NỢ CÔNG TỚI NỀN KINH TẾ

“Nợ công có xu hướng tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển
kinh tế trong những năm gần đây” - Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền nhận
định tại Báo cáo thẩm tra tình hình thực hiện phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 - kế
hoạch năm 2011, ngày 2-10.
Hiện nay nợ công của Mỹ cũng rất lớn, hơn 90% GDP, cũng trong tình trạng
báo động. Joseph Stiglitz đã từng cảnh báo “Nền kinh tế Mỹ có khả năng rơi vào suy
thoái lần thứ 2, sự sụp đổ đang đến rất gần”. Tình hình nợ công ở Nhật Bản cũng rất
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
tệ, nợ gần 200% GDP nhưng nhờ có tiềm lực kinh tế lớn, chính sách quản lý nợ công
khá chặt chẽ, biết điều chỉnh kịp thời nên nhiều khả năng Mỹ và Nhật Bản sẽ vượt
qua được cơn khủng hoảng về tài chính, tiền tệ.
Một số nước quản lý nợ công yếu kém dẫn đến tình trạng đất nước bất ổn về
chính trị xã hội, lệ thuộc vào chủ nợ và có nguy cơ vỡ nợ. Chuyện đại sự liên quan
đến nợ công tại châu Âu là Hy Lạp cuối năm 2009, có mức nợ công chiếm 108,10%
GDP đã thực sự vỡ nợ và phải cầu cứu đến gói cứu trợ 120 tỷ euro của Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) và các nước thuộc Vùng Euro.
Trong những năm gần đây, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn
một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng
của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do sau:
- Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút.
- Một khoản nợ công cộng lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở
hữu cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính
phủ). Điều này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển
thành nợ chính phủ dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
- Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một
tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong

nước lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay.Thuế làm méo mó
nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
- Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ
để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out
(đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên).
↑Chính phủ muốn tăng chi tiêu công cộng để kích cầu thì phát hành trái phiếu
chính phủ. Phát hành thêm trái phiếu chính phủ→ thì giá trái phiếu chính phủ giảm,
thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
người mua. Lãi suất trái phiếu tăng thì→ lãi suất chung của nền kinh tế cũng tăng.
Điều này tác động tiêu cực đến động cơ đầu tư của khu vực tư nhân, khiến họ giảm
đầu tư. Nó còn tác động tích cực đến động cơ tiết kiệm của người tiêu dùng, dẫn tới
giảm tiêu dùng. Nó còn làm cho lãi suất trong nước tăng tương đối so với lãi suất
nước ngoài, dẫn tới luồng tiền từ nước ngoài đổ vào trong nước khiến cho tỷ giá hối
đoái tăng làm giảm xuất khẩu ròng. Tóm lại, phát hành trái phiếu tuy có làm tăng
tổng cầu, song mức tăng không lớn vì có những tác động phụ làm giảm tổng cầu.
Nếu coi việc nắm giữ trái phiếu chính phủ là một hình thức nắm giữ tài sản thì khi
chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ đồng thời phải tăng lãi suất, người nắm giữ tài
sản thấy mình trở nên giàu có hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Tổng cầu nhận được tác
động tích cực từ việc tăng chi tiêu chính phủ (nhờ phát hành công trái) và tăng tiêu
dùng nói trên. Tuy nhiên, tăng tiêu dùng dẫn tới tăng lượng cầu tiền. Điều này gây ra
áp lực lạm phát, vì thế tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực (bằng tốc độ tăng
trưởng danh nghĩa trừ tỷ lệ lạm phát).
Ảnh hưởng của nợ công đối với nền kinh tế việt nam
- Thứ nhất, nợ công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát
triển. So khoản nợ công với GDP, hiện nay, gánh trên vai gánh nặng nợ công lớn
nhất là các nền kinh tế phát triển

- Thứ hai, khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt
lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được
nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng
buộc bụng" lại dễ dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây
căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu thế
trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc
lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ
- Thứ ba, trong thời điểm hiện nay, khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng
hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
chính phủ các nước đã chi ra trong những năm trước đây, thì việc cắt giảm chi
tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm
chậm tốc độ tăng trưởng, thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào "khủng hoảng kép".
Nghiêm trọng hơn, việc tung ra các gói kích thích kinh tế chính là một trong
những nguyên nhân làm tăng nợ công của các chính phủ, vậy nếu như khủng
hoảng “tái xuất” thì liệu các chính phủ có còn đủ khả năng xoay xở, cứu vãn nền
kinh tế của mình? Vấn đề đặt ra cho các chính phủ là phải chèo lái để giải quyết
được thâm hụt ngân sách nhưng không đẩy nền kinh tế trở lại tình trạng suy thoái,
trong khi các biện pháp để giải quyết hai vấn đề này lại có tác động không thuận
chiều.
- Thứ tư, khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo
cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác,
niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành
mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế
- Thứ năm, việc căn cứ vào mức nợ công trên GDP để xác định tình trạng nợ công
là hết sức quan trọng, tuy nhiên, điều quan trọng không kém là phân tích "thực
chất" nợ công. Đó là: nợ chính phủ là vay nợ trong nước hay vay nợ nước ngoài;

tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, hay tình trạng "sức khỏe" nói chung của nền
kinh tế; lượng dự trữ quốc gia...
V. GIẢI PHÁP VỀ TÌNH TRẠNG NỢ CÔNG
Để tránh bị rơi sâu vào khủng hoảng nợ và cứu vãn nền kinh tế khỏi sụp đổ,
Chính phủ của Thủ tướng Papandreou ở Hy Lạp đã phải thực hiện hàng loạt biện
pháp với trọng tâm là các chính sách “thắt lưng buộc bụng”, giảm lương công chức
(kể cả lương hưu), cắt giảm chi tiêu (gồm cả những chương trình an sinh xã hội, an
ninh, quốc phòng), đẩy mạnh tiết kiệm, tăng cường kiểm soát thu chi, tích cực chống
tham nhũng và chốn thuế, tăng một số sắc thuế và các nguồn thu khác, thậm chí tính
tới khả năng có thể bán cả tài sản quốc gia như một số hòn đảo du lịch cho nước
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
ngoài, tiếp tục vay thông qua phát hành công trái để trả nợ trước mắt, đồng thời kêu
gọi EU, IMF và Mỹ giúp đỡ.
Nhiều biện pháp khắc phục khủng hoảng nợ mà Hy Lạp đã và đang tiến hành
giống như con dao hai lưỡi. Tăng thuế và giảm chi tiêu, siết chặt tín dụng, đặc biệt là
trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và bản thân nền kinh tế Hy Lạp đang hết sức khó
khăn do suy thoái, thì lại càng đẩy nền kinh tế vào khó khăn lớn hơn và có thể tiếp
tục lún sâu vào suy thoái. Điều này cũng đồng nghĩa với sản xuất đình đốn, thất
nghiệp gia tăng, đời sống khó khăn hơn và bất ổn xã hội cũng nhiều hơn. Mặt khác,
tăng thuế và giảm chi tiêu, đặc biệt là việc cắt giảm lương của người lao động, huỷ
bỏ và thu hẹp các chương trình an sinh xã hội, trực tiếp đánh vào nhiều tầng lớp nhân
dân, đương nhiên sẽ gặp phải sự phản ứng, thậm chí là chống đối mạnh mẽ từ các
tầng lớp bị thiệt hại, từ đó làm cho tình hình xã hội trở nên căng thẳng và có nguy cơ
dẫn đến những xáo trộn lớn. Thực tế cho thấy, nhiều người Hy Lạp đã phản ứng dữ
dội trước các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” của chính phủ. Trên đất nước Hy Lạp
đã xảy ra nhiều cuộc biểu tình phản đối chính sách của chính phủ và đã dẫn đến tình
trạng xô xát bạo lực giữa những người biểu tình với các lực lượng cảnh sát.

Trông vào sự giúp đỡ từ bên ngoài, đó là giải pháp cần thiết và cấp bách để
giải cứu, tránh sự đổ vỡ trước mắt của nền kinh tế, song không dễ chút nào. Thứ
nhất, không phải ai cũng có sẵn tiền cho vay. Thứ hai, nếu có tiền thì người cho vay
cũng phải tính toán liệu người vay có đáng tin cậy không, khả năng trả nợ của người
đó thế nào và việc cho vay ảnh hưởng ra sao tới lợi ích của họ, v.v… Thứ ba, để
được vay, đương nhiên người đi vay phải chấp nhận những điềukiện nhất định mà
không ít trong số đó sẽ làm cho người đi vay “phải trả giá”. Và cuối cùng là những
hậu quả lâu dài của việc đi vay thêm vẫn đeo đẳng, bởi vì gánh năng nợ nần vẫn tiếp
tục chồng chất thêm, và nếu việc quản lý nợ kém, kinh tế đất nước sa sút, thì nguy cơ
vỡ nợ còn lớn và nguy hiểm hơn, các thế hệ sau sẽ còn chịu hậu quả nặng nề hơn.
Trường hợp Hy Lạp hiện nay là một tấm gương nhãn tiền, không phải là duy
nhất, cho những quốc gia vay nợ. Vì không có khả năng trả nợ, Chính phủ Hy Lạp đã
buộc phải đề nghị EU cho vay tiền để trả các khoản nợ trước mắt trị giá nhiều chục
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
tỷ ơ-rô. Liên minh châu đã xem xét, thảo luận gay gắt trong nội bộ một kế hoạch giải
cứu. Một số nước, đặc biệt là Đức, không sẵn sàng chấp nhận kế hoạch giải cứu này,
vì Đức không muốn việc EU rộng lượng đối với Hy Lạp, một “học trò xấu” đã bất
chấp kỷ luật của khối và tiếp tục cố tình vi phạm, mặc dù đã nhiều lần bị cảnh cáo, sẽ
khuyến khích các thành viên khác trong khối noi theo gương xấu đó. Tuy nhiên, EU
đứng trước một áp lực rất lớn là nếu không cứu Hy Lạp thì sự sụp đổ của nền kinh tế
nước này sẽ kéo theo tai hoạ dây chuyền trong EU, đặc biệt là trong bối cảnh nhiều
thành viên khác của EU cũng đang ở tình trạng báo động đỏ về nợ. Mặt khác, nếu để
mặc Hy Lạp, thì đương nhiên nước này sẽ cầu cứu Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Đây sẽ
là điều chớ trêu, vì “anh em trong nhà lại không giúp nhau mà để người ngoài giúp”
và khi điều đó xẩy ra thì không những bị “bẽ mặt” mà EU và cả Hy Lạp cũng sẽ bị
đặt vào tình thế khó xử do phải chấp nhận những điều kiện ràng buộc của IMF, thậm
chí là không tương thích với những quy định hiện hành của EU

Ở Việt Nam, việc trước tiên cần phải thực hiện là thuê tư vấn độc lập có
chuyên môn cao, cùng với các chuyên gia có uy tín của nhà nước đánh giá toàn diện
về nợ quốc gia, phân tích số liệu gốc, các nguyên nhân chủ quan, khách quan, đề
xuất các giải pháp khắc phục trước mắt cũng như lâu dài. Các tổ chức thuộc nhà
nước, đoàn thể nếu sử dụng nguồn vốn ngân sách đều phải công khai có kiểm toán.
Cần phải sửa lại Luật ngân sách, tăng nguồn thu, kể cả các lợi nhuận sau thuế của
các doanh nghiệp nhà nước đều phải thuộc quyền kiểm soát chi tiêu của Chính phủ.
Các chi tiêu có kế hoạch nằm trong chính sách tài khóa và thâm hụt phải trong tầm
kiểm soát. Tiền vay được quản lý chặt chẽ theo những nguyên tắc, được sử dụng hiệu
quả trên cơ sở của Luật quản lý nợ công một cách công khai, minh bạch và có lộ
trình trả nợ. Phải có mô hình phát triển kinh tế phù hợp, vững bền, và chỉ có cách làm
công khai, sòng phẳng để chấm dứt được tình trạng “nghiện vay mượn” dễ dẫn đến
các hậu quả khó lường.
Để đối phó với món nợ công gia tăng, hiện chỉ có con đường duy nhất là
chính phủ các nước là phải thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng, giảm chi tiêu
16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
công, cắt lương hưu , giảm biên chế, cơ cấu lại kinh tế, đi vay nợ của các thể chế tài
chính quốc tế để bù đắp sự thiếu hụt nghiêm trọng ngân sách, tăng cường nguồn
thu...Hệ quả của chính sách này sự phản đối của người dân tăng lên nhanh chóng , do
mất việc làm, giảm nguồn thu, phúc lợi xã hội bị sụt giảm.. Tình trạng xã hội bất an
dẫn đến các cuộc biểu tình, bạo động đã xảy ra tại Hy Lạp là ví dụ cụ thể nhất cho
chính sách thắt lưng buộc bụng của chính phủ.
Rõ ràng giải quyết vấn đề nợ công đang là mối quan tâm lớn hiện nay của các
nhà lãnh đạo thế giới. Bởi nó không chỉ là câu chuyện của từng quốc gia mà đang trở
thành cơn sóng ngầm đe dọa tới toàn cầu, có thể làm bùng phát cuộc khủng hoảng
kinh tế trên quy mô lớn, mà hậu quả khó lường hết được.
Ngoài ra, có một số biện pháp khác:

- Đầu tiên phải đảm bảo sự công khai và minh bạch về nợ công cho toàn dân. Nghị
định 79 về quản lý nợ công đã có tiến bộ khi đề cập tới yêu cầu công khai
minhbạch nợ công và dự trù ngân sách nhà nước để trả nợ dần. Những nhà kinh
tế học đangtrông chờ Nghị định 79 được triển khai sẽ công bố rõ hơn những số
liệu kinh tế hiện nay.
- Thứ hai, chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá lại hiệu quả đầu tư các dự án để tăng
cường hiệu quả sử dụng đồng vốn. Chúng ta phải theo đuổi mục tiêu phát triển
kinh tế đi đôi với kiểm soát tiền vay và vạch ra kế hoạch trả nợ.
- Thứ ba cần giảm thiểu thâm hụt ngân sách quốc gia. Do thâm hụt ngân sách cần
khoản bù đắp, hệ quả là khả năng trả nợ lại càng kém đi. Hãy học tập từ bài học
thắt lưng buộc bụng ở châu Âu khi đối phó với khủng hoảng hồi đầu năm nay. Họ
tăng cường
- tiết kiệm, giảm trợ cấp, tăng thuế đối với người thu nhập cao, thoái vốn tại những
doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... Kết quả là trong quý II năm 2010, thay vì
tăng trưởng âm, kinh tế châu Âu đã phát triển 1%.

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
- Thứ tư, ta nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm cứu cánh lúc cần thiết. Cũng phải
nói tới một bất lợi đối với Việt Nam là hệ số rủi ro của ta còn ở mức cao, 6,75%,
lại thêm thanh khoản thấp, tần suất vay của ta ít nên khi đi vay bao giờ ta cũng
phải vay với lãi suất cao. Trong khi đó, Indonesia và Phillippines tuy có hệ số rủi
ro tương đương Việt Nam nhưng họ vẫn được ưu đãi hơn khi đi vay nhờ tính
thanh khoản cao hơn và tích cực hơn trong hợp tác quốc tế.
- Cuối cùng, nên hạn chế đầu tư vào các siêu dự án chỉ vì vay vốn quá dễ dàng mà
không tính tới hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ.

Kết luận:

Để giải quyết vấn đề nợ công cần các biện pháp hợp lý trong một thời gian dài.
Hy vọng trong thời gian tới, chính phủ sẽ áp dụng những biện pháp thích hợp để
tránh việc vỡ nợ cũng như phát huy được hiệu quả kinh tế của khoản tiền đi vay. Bên
cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công để tránh tình trạng sử dụng không
hiệu quả.

16


Thực trạng và tác động của nợ công đối với nền kinh tế Việt Nam
Tài liệu tham khảo
Các website: vneconomy.vn
Bee.net.vn
Wikipedia.org

16



×