Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.29 KB, 7 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Pháp luật là một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng xã hội, nó luôn có
quan hệ chặt chẽ với kinh tế, chịu sự tác động của kinh tế, và cũng có ảnh hưởng
tới sự phát triển của kinh tế.Pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện việc xây dựng
và phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sau đây tôi
xin đi sâu phân tích để làm nổi bật vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế Việt
Nam hiện nay.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1. Định nghĩa.
- Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định
hướng cụ thể.
- Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người, các mỗi
quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy cho
cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích.
2. Vai trò của pháp luật đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Trong phát triển kinh tế thì hệ thống pháp luật về kinh tế luôn có vai trò vô cùng to
lớn. Nhận thức được tầm quan trọng này, từ cuối những năm 1980 đến nay, việc
không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế luôn là
mối quan tâm lớn, thường xuyên và là một trong những chủ trương quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định phải “đổi
mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ
tục hành chính để phát huy tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho sản xuất, kinh
doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Vai trò của
pháp luật đối với kinh tế được thể hiện như sau:
2.1. Pháp luật là một phương tiện để quản lý kinh tế, thực hiện các chính sách
kinh tế, các mục tiêu kinh tế.
+ Pháp luật là một phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, nhà nước không thể
quản lý được nền kinh tế phức tạp nếu như không dựa vào pháp luật. Điều 26 hiến


pháp năm 1992 được sửa đổi , bổ xung năm 2001 quy định: “nhà nước thống nhất
quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…”. Chỉ có pháp
luật với những thuộc tính đặc thù của mình mới có khả năng đảm bảo cho nhà nước
thực hiện được chức năng quản lý trong lĩnh vực kinh tế. Thông qua pháp luật, nhà
1
nước hoạch định các chính sách kinh tế, trật tự hoá các hoạt động sản xuất kinh
doanh của các tổ chức và cá nhân, định hướng cho các quan hệ kinh tế phát triển
theo những mục đích mong muốn. chẳng hạn, chính sách kinh tế của nhà nước ta
hiện nay được điều 15 hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ xung năm 2001 xác định là:
nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
+ Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,
sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Chính sách
kinh tế của nhà nước ta luôn hướng tới mục đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và
tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng
của các thành phần kinh tế dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất -
kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị trường thế
giới.
+ Thông qua pháp luật, nhà nước xác định các hình thức sở hữu trong xã hội từ
đó tác động đến quan hệ sở hữu, đặc biệt là đối với tư liệu sản xuất chủ yếu trong
nền sản xuất xã hội, quy định các hình thức tổ chức sản xuất, xác định các thành
phần kinh tế, quy định địa vị pháp lý của các tổ chức, đơn vị kinh tế, chế độ tài
chính…đối với họ.
+ Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình thức sở
hữu, chính sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, cơ chế kinh tế, các phương
pháp quản lý kinh tế…Xác định cơ chế quản lý kinh tế trong mỗi thời kỳ phát triển.
pháp luật cũng ghi nhận hoặc đưa ra những nguyên tắc phân phối sản phẩm từ quá

trình lao động sản xuất cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước.
Cụ thể, kinh tế thị trường tạo ra của cải cho xã hội thông qua việc trao đổi. Nhìn
chung, các bên, vì mục đích riêng của mình, sẽ trao đổi hàng hoá và dịch vụ khi họ
tin rằng việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ đó sẽ mang lại thêm lợi ích cho họ. Khi
các bên đồng ý trao đổi, mỗi bên cần những gì mà họ nhận được hơn là những gì họ
bỏ ra để trao đổi . Qua đó, các bên đều mong muốn được lợi hơn thông qua việc
trao đổi. Nếu thị trường có thể vận hành một cách hoàn hảo, việc trao đổi không
ngừng có thể phân bổ mọi nguồn lực tới các bên cần nó nhất, thúc đẩy tính hiệu quả
trong việc tạo ra của cải xã hội và thỏa mãn mong muốn của mọi người.
Luật thương mại dành một phần rất lớn để thúc đẩy và bảo vệ cơ chế trao đổi thị
trường nói trên. Bốn nguyên tắc cơ bản sau chi phối hầu hết các qui định của luật
thương mại. Đó là:
2
- Quyền tự do hợp đồng. Quyền tự do của các bên trong việc quyết định có tham
gia vào một giao dịch cụ thể và đồng ý về các điều khoản của giao dịch đó hay
không là nền tảng pháp lý của nền kinh tế thị trường. Từng cá nhân có thể tham gia
vào các mối quan hệ pháp lý một cách nhanh chóng và trực tiếp mà không có bất
kỳ sự can thiệp chính trị hay ngoại giao nào. Do vậy, các bên có thể đưa ra các
quyết định kinh tế tức thì, có liên quan trực tiếp đến sự thành công của họ. Ngoài
ra, các bên sẽ tự quyết định sự được mất trong phần lớn các cuộc thương lượng của
họ (với điều kiện là không bên nào bị ở vị thế quá bất lợi).
- Ngăn chặn sự gian lận và lạm quyền. Các quyết định của thị trường không
thể phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả trừ phi các quyết định đó là
sản phẩm của sự lựa chọn tự do và được thông tin. Các giao dịch thương mại
có sự gian lận hay cưỡng ép sẽ không có hiệu lực pháp luật. Những giao dịch
đó còn làm mất đi lòng tin của mọi người vào thị trường và hệ thống pháp
luật.
- Giảm chi phí giao dịch. Luật thương mại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho
các bên tham gia và thực hiện các giao dịch với chi phí thấp nhất cùng với

hạn chế tối thiểu sự gian lận. Nếu chi phí thực hiện giao dịch cao thì các bên
sẽ bỏ lỡ các cơ hội có lợi. Do vậy, các thủ tục cần thiết để xác lập một hợp
đồng có hiệu lực, chẳng hạn như thủ tục chứng thực của cơ quan công chứng
trong một số hệ thống pháp lý, đã không còn nữa.
- Bảo vệ các mong muốn hợp lý. Các bên tham gia các giao dịch thương mại
thường dựa vào luật để bảo vệ các quyền của mình trong tương lai. Thường
thì không thể hoặc không hiệu quả nếu các bên đồng thời ngừng việc thực
hiện. Chẳng hạn, một người thợ thủ công nhận làm đồ đạc đặt đóng giờ đây
sẽ dựa vào luật để buộc người mua thực hiện nghĩa vụ nhận đồ đạc và thanh
toán tiền trong tương lai. Các quyền và nghĩa vụ đó có thể do luật áp dụng
hay do thoả thuận giữa các bên xác lập. Toà án nên thận trọng khi thi hành
các điều khoản trong thoả thuận, mà thông qua các điều khoản đó các bên đã
thoả thuận bảo vệ mình trước những bất trắc trong tương lai.
II.2. Pháp luật góp phần tích cực vào việc sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh
tế, tác động đến sự tăng trưởng và sự ổn định, cân đối của nền kinh tế.
Pháp luật xác định rõ chế độ kinh tế, các thành phần kinh tế, các hình
thức sở hữu, chinh sách tài chính, thuế, tiền tệ, giá cả, đầu tư, thu nhập, cơ
chế kinh tế, các phương pháp quản lý kinh tế…, qua đó góp phần tích cực
vào việc sắp xếp, cơ cấu các ngành kinh tế, tác động đến sự tăng trưởng
và sự ổn định, cân đối của nền kinh tế
2.3. Pháp luật điều chỉnh các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự và thủ tục
giải quyết các tranh chấp kinh tế.
3
Pháp luật điều chỉnh các hợp đồng kinh tế, quy định trình tự và thủ tục giải quyết
các tranh chấp kinh tế để bảo vệ lợi ích kinh tế chính đáng của các chủ thể. Nhờ các
quy định đó mà nhà nước có thể tổ chức và quản ký được nền kinh tế, tạo điều kiện
cho nền kinh tế tăng trưởng trong sự ổn định, cân đối và điều tiết theo chiều hướng
mà nó mong muốn.
+ Đối với các tổ chức, đơn vị kinh tế khi tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh
doanh đều phải dựa trên những quy định của pháp luật. Pháp luật là cơ sở pháp lý

để các chủ thể thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh
+ Đưa ra những biện pháp kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động kinh tế của các
tổ chức và cá nhân như chủ thể nào có thẩm quyền kiểm tra, giám sát? kiểm tra
giám sát những hoạt động kinh tế gì? Đối với các tổ chức đơn vị kinh tế nào? Quy
định các biện pháp bảo vệ lợi ích của các chủ thể sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng và lợi ích chung của toàn xã hội. Xử lý những hiện tượng
tiêu cực trong quá trình hoạt động kinh tế của các chủ thể kinh tế. Pháp luật thường
xác định chủ thể có thẩm quyền xử lý và các biện pháp mà họ có thể áp dụng để
ngăn ngừa và trừng phạt những hành vi vi phạm pháp luật, những hoạt động tiêu
cực trong các hoạt động kinh tế.
3. Mối liên hệ giữa pháp luật với kinh tế ở Việt Nam.
Ở nước ta, Pháp luật nói chung, phấp luật về kinh tế nói riêng chưa được chú
trọng đúng mức. Hệ thống pháp luật không đồng bộ, nhiều văn bản pháp luật quan
trọng, thiết yếu không được ban hành kịp thời …dẫn đến các hoạt động quản lý
kinh tế của nhà nước chưa phù hợp, các hoạt động sản xuất kinh doanh, phân phối
gặp nhiều khó khăn, nền kinh tế đất nước chậm phát triển, nhất là phát triển công
nghiệp làm cho chất lượng đời sống nhân dân chưa cao. Nhiều quy định của pháp
luật được ban hành thể hiện sự chủ quan duy ý chí không phù hợp so với điều kiện
phát triển kinh tế đất nước dẫn đến các điều kiện kinh tế không đủ khả năng bảo
đảm cho các quy định thực hiện trên thực tế.
VD: Quy định việc phát triển nền kinh tế chỉ có hai thành phần: quốc doanh và
tập thể theo cơ chế kế hoạch hóa tập chung cao độ, quy định chế độ đi học và chữa
bệnh không mất tiền…do đó không thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế mà trái
lại, còn kìm hãm sự phát triển kinh tế, là cho nền kinh tế trì trệ, kém phát triển.
Bước vào thời kì đổi mới, pháp luật nói chung, pháp luật kinh tế nói riêng đã
được chú trọng nhiều hơn. Hệ thông pháp luật của đất nước đã trở nên đồng bộ,
toàn diện, hoàn thiện hơn so với các giai đoạn trước, nhiều văn bản pháp luật trong
lĩnh vực kinh tế được ban hành đã pháp huy được vai trò của mình trong việc ổn
định kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế đất nước. Với hệ
4

thống pháp luật hoàn chỉnh hơn , nền kinh tế nước ta có bước phát triển đáng kể,
của cải, vật chất được tạo nên nhiều hơn, đời sống nhân dân ngày càng được nâng
cao. Tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống pháp
luật Việt Nam nói chung, pháp luật về nền kinh tế nói riêng vẫn còn bất cập cần
được khắc phục tạo cơ sở cho nền kinh tế nước ta phát triển như mong muốn.
Từ sau công cuộc đổi mới trở lại đây, nhiều quy định của pháp luật đã được sửa
đổi theo hướng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế nên đã thúc đẩy sự
phát triển nền kinh tế và cả xã hội.
VD: quy định về việc phát triển nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường có
sự điều tiết của nhà nước, quy định về chế độ khoán sản phẩm trong nông nghiệp…
4. Tác động của pháp luật tới kinh tế Việt Nam.
4.1. Pháp luật có thể ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển kinh tế.
Pháp luật có tác dụng tạo lập môi trường pháp lý cho các hoạt động kinh tế của
các tổ chức và cá nhân được tiến hành thuận lợi, có trật tự và đạt hiệu quả kinh tế
cao.Chẳng hạn, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì pháp luật phải thừa
nhận các thành phần kinh tế khác như, tạo điều kiện cho chúng cùng tồn tại và phát
triển không nên loại trừ hay hạn chế chúng mà phải cố gắng kiểm soát chúng, định
hướng điều tiết sự phát triển của chúng. Điều này có ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng
trưởng kinh tế, góp phần tăng thu nhập quốc dân và nâng cao đời sống nhân
dân. “sự quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế chỉ có thể thực hiện và phát huy
đầy đủ nhất, có hiệu quả nhất khi được xác nhập giữa một hình thức pháp luật nhất
định và được bảo đảm thực hiện bởi một cơ chế pháp luật thích hợp”. Có thể nói,
trong thời đại hiện nay pháp luật đã trở thành một bộ phận cấu thành của nền kinh
tế. Thiếu pháp luật, nền kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trường rất khó vận hành
hoặc vận hành không có hiệu quả, các hoạt động kinh tế sẽ trở nên hỗn loạn, không
thể kiểm soát.
Những tác động tích cực của pháp luật đến sự phát triển kinh tế có thể được
minh chứng bằng rất nhiều các quy định của pháp luật Việt Nam thời kì đổi mới.
4.2. Pháp luật có ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế
khi pháp luật phản ánh không đúng, pháp luật xây dựng không phù hợp với các

điều kiện, yêu cầu của nền kinh tế, những quy định pháp luật quá cao hoặc quá thấp
so với sự phát triển của kinh tế, thậm chí còn có thể mang lại những tác hại nhất
định cho nền kinh tế. Chẳng hạn nhìn thờ kì trước đây, một số quy định của Hiến
pháp Việt Nam năm 1980 cùng một số văn bản khác được ban hành trong thời kì
này là quá cao so với điều kiện kinh tế - xã hội ở nước ta lúc đó. Vì vậy, chúng đã
làm cho nền kinh tế nước ta phát triển chậm, đơiì sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn; hay sự can thiệp quá sâu của pháp luật vào các hoạt động kinh tế đã làm cho
5

×