Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận kinh tế vĩ mô tác động của tỷ giá hối đoái đến lạm phát tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.33 KB, 18 trang )

Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ

TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI ĐẾN LẠM
PHÁT TẠI VIỆT NAM

1. Mở đầu:
Sau khi chính thức gia nhập WTO vào năm 2007, kinh tế Việt Nam đã
bước sang một trang sử mới với sự phát triển vượt bậc về mọi mặt. Việt Nam đã
được đánh giá là một “con hổ” của nền kinh tế Châu Á. Tuy nhiên, Việt Nam
vẫn phải đối mặt với rất nhiều vấn đề nan giải như: lạm phát, mất giá đồng nội
tệ, nhập siêu cao…Đặc biệt trong thời gian gần đây, việc tỷ giá hối đoái giữa
VND và USD tăng cao đã có những tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt
Nam theo cả hai mặt tốt và xấu.
Do mỗi người có cách tiếp cận vấn đề và cách diễn đạt khác nhau nên có
rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá của
đồng tiền này được tính theo một đồng tiền khác. Tỷ giá hối đoái cũng được
hiểu là tỉ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền của hai quốc gia khác nhau. Hay cũng có
thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng
tiền khác. Tỷ giá có thể được xác định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái
thả nổi, được gọi là tỷ giá thị trường hoặc cũng có thể được xác định bởi các cơ
quan hữu trách trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, trong đó có
Việt Nam, cả thị trường lẫn cơ quan hữu trách cùng tham gia quy định tỷ giá.
Tỷ giá hối đoái xuất hiện và phát triển cùng với sự ra đời, phát triển của
thương mại quốc tế, nó được giải thích bởi một hiện tượng đơn giản là hàng hoá
không có biên giới quốc gia trong khi tiền chỉ được chấp nhận trên lãnh thổ quốc
1


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11


gia phát hành ra nó. Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng trong chính sách tiền
tệ, nó là mục tiêu của chính sách tiền tệ mà mọi quốc gia đều hướng tới. Đồng
tiền ổn định và tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ tạo điều kiện cho việc duy trì, mở rộng
và phát triển các mối quan hệ kinh tế trong nước và quốc tê, giúp cho nền kinh
tế trong nước có điều kiện hội nhập khu vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ
hơn.
George Soros - tác giả của cuốn sách Giả kim thuật Tài chính (The
Alchemy of Finance)- cho rằng mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát
không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, chúng tác động qua lại lẫn
nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Ông gọi một
quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một vòng ác luẩn quẩn (vicious
circle) khi đồng nội tệ mất giá, lạm phát gia tăng và là vòng thiện (benign circle)
khi xảy ra điều ngược lại.
Cho đến nay, mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát, tác động của
tỷ giá hối đoái tới lạm phát và ngược lại, tăng tỷ giá có cứu được lạm phát… là
những vấn đề lớn đang được nhiều nhà kinh tế học quan tâm nghiên cứu. Một số
chuyên gia tiền tệ đồng ý với quan điểm cũ của các học giả phương Tây về mối
quan hệ giữa tỷ giá và lạm phát. Các nhà nghiên cứu cho rằng: khi mức độ phá
giá của tiền tệ lớn hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ gia tăng. Khi mức
độ mất giá của tiền tệ thấp hơn sự mất giá của hàng hóa, lạm phát sẽ được hạn
chế. Bởi vậy khi lạm phát trầm trọng, tăng tỷ giá có thể hạn chế được lạm phát.
2. Tác động của tỷ giá hối đoái đến lạm phát tại Việt Nam
2.1. Diễn biến lạm phát tại Việt Nam:
Có thể nói, tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn ra rất phức tạp, không ổn
định và đang có xu hướng tăng dần. Trước năm 2000, tốc độ lạm phát giảm,
thậm chí có lúc âm liên tiếp vào 2 năm 2000 (-1,6%) và 2001 (-0,4%). Tuy
nhiên, từ năm 2002, lạm phát cao đã bắt đầu xuất hiện bằng sự đảo chiều và tăng
mạnh từ

-0,4% lên 4,4% so với năm 2001. Những năm sau đó, lạm phát tiếp


tục đà tăng và đã bùng nổ vào giai đoạn 2007-2008. Qua đó có thể thấy Việt
Nam đang đánh đổi lạm phát cho tăng trưởng và chấp nhận một mức lạm phát
cao nhất định để đảm bảo phát triển kinh tế.
2


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11

Diễn biến CPI giai đoạn 1996 - 2010. Nguồn: GSO

2.1.1. Giai đoạn 2007-2008:
Chỉ trong 4 tháng đầu năm 2008, giá nhóm hàng lương thực - thực phẩm
đã tăng 18,1% ( lương thực tăng 25%, thực phẩm tăng 15,6%) gấp rưỡi mức
12,6% của lạm phát cả năm 2007 và cao tương đương bằng mức tăng giá lương
thực – thực phẩm cả năm 2007. Đến tháng 6 thì CPI đã tăng 18,44% so với cuối
năm 2007 và 26,8% so với tháng 6/2007. Đến 3 tháng cuối năm thì giá cả các
mặt hàng đã dần ổn định và hạ nhiệt, chỉ số CPI liên tục âm và kết thúc năm
2008, chỉ số lạm phát dừng lại ở mức 19,89%. Có thể nói có rất nhiều nguyên
nhân làm cho lạm phát 2008 tăng mạnh như: do tình trạng thiếu lương thực trầm
trọng trên thế giới làm giá gạo trong nước tăng rất mạnh có lúc từ tăng 50 100%, giá xăng tăng 38%, giá thép tăng 91%, điện tăng 7,6%...nhưng cốt lõi
nguyên nhân chính làm cho lạm phát 2008 ở nước ta cao hơn các nước khác như
Thái Lan, Trung Quốc….là do NHNN tăng cung tiền quá lớn ( 21,1%) vào thị
trường để ổn định tỷ giá và do đầu tư công kém hiệu quả.
2.1.2. Năm 2009
Kết thúc năm 2009, do kinh tế thế giới suy thoái làm sức cầu giảm, giá cả
các mặt hàng giảm theo làm cho chỉ số lạm phát ở Việt Nam đã hạ nhiệt khi
3



Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
dừng lại ở con số 6,52%, giảm đáng kể so với những năm 2007, 2008. Nhưng so
mới mặt bằng chung trong khu vực và thế giới thì lạm phát ở Việt Nam vẫn còn
tương đối cao. Nhìn lại diễn biến CPI trong 12 tháng của năm 2009, Tổng cục
Thống kê cho rằng, tính quy luật diễn biến giá tiêu dùng hàng tháng đã diễn ra
(quy luật này thường xác lập trong những năm nền kinh tế phát triển ổn định,
như các năm 2006, hay 2007 trước đó). Cụ thể là giá hàng hóa, dịch vụ thường
tăng cao trong hai tháng đầu năm do ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, sau đó
giảm trong tháng 3 rồi tăng nhẹ từ tháng 4 đến tháng 10, hai tháng cuối năm giá
tăng khá cao do áp lực tăng chi tiêu dùng và đầu tư xã hội.
2.1.3. Năm 2010
Nhìn chung cả năm 2010, diễn biến CPI gần như song hành cùng những
thay đổi chính sách vĩ mô và can thiệp thì trường từ cơ quan chức năng. Đồ thị
diễn biến CPI như hình chiếc cốc, xuống chậm trong quý 1, ổn định bằng mức
tăng rất thấp từ tháng 4 đến tháng 8, để rồi đến tháng 9 lại bất ngờ tăng trên 1%
liên tiếp trong những tháng cuối năm và kết thúc ở mức tăng 11,75% so với năm
2009. Tuy con số 11,75% không quá bất ngờ nhưng nó đã vượt xa chỉ tiêu được
Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%.
2.1.4. Nhận định năm 2011
Mục tiêu lạm phát được Chính phủ và Quốc Hội thông qua vào đầu năm
là 7%. Nhưng cho đến nay, do ảnh hưởng việc tăng giá các mặt hàng xăng
(16400đ/l lên 21300đ/l) , điện (tăng 15,28%), việc đua lãi suất cho vay của các
NHTM (20-25%/ năm), bội chi ngân sách…đã tạo ra áp lực lạm phát mạnh. Cụ
thể, sau 5 tháng, chỉ số CPI cả nước đã tăng 12,07% và so với cùng kỳ năm
ngoái đã tăng 19,78% vượt xa chỉ tiêu đề ra vào đầu năm. Tại phiên họp báo
Chính phủ thường kỳ tháng 5 vừa qua, Chính phủ đã nới rộng chỉ tiêu lạm phát
cả năm lên 15%.
Trong bối cảnh vĩ mô chưa ổn định như hiện nay, tuy CPI tháng 5 đã có
dấu hiệu chững lại nhưng diễn biến lạm phát ở Việt Nam vào những tháng còn
lại cũng sẽ rất khôn lường, có lẽ lạm phát cả năm 2011 sẽ dừng lại trong khoảng

17-18%.
4


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
2.2. Diễn biến tỷ giá tại Việt Nam:
2.2.1. Năm 2008:

Diễn biến tỷ giá VND/USD năm 2008-2009
Năm 2008 được coi là “ năm bất ổn của tỷ giá” với những ảnh hưởng từ
các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ, thậm chí là cả những tin đồn thất thiệt. Vào
năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh đến 5 lần, một mật độ dày chưa
từng có trong lịch sử điều hành tỷ giá ở nước ta. Quy luật thị trường bị phá vỡ.
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của các Ngân hàng
thương mại (NHTM) đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với thay đổi
quen thuộc quanh 1% những năm trước. Nếu như những năm trước tỷ giá luôn
được định hướng tăng nhẹ vào khoản 1%/năm thì vào năm 2008, tỷ giá công bố
liên ngân hàng thường có xu hướng duy trì ổn định đã tăng xấp xỉ 5%, dẫn đến
tỷ giá giao dịch liên ngân hàng tăng xấp xỉ 10%. Trong khi đó tỷ giá ngoài thị
trường tự do tăng kịch trần vượt quá hạn mức cho phép của Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) cho phép nhiều lần. Chênh lệch giữa tỷ giá chính thức do ngân
hàng công bố và tỷ giá tự do có sự khác biệt rất lớn.
Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động
trái chiều. Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại
tệ, tỷ giá VND/USD có lúc xuống “đáy” 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp,
ngành hàng xuất khẩu phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh
mua vào USD, tháo gỡ khó khăn. Nhưng từ tháng 5, “cơn sốt” khan hiếm ngoại
5



Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
tệ lại diễn ra căng thẳng trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều
doanh nghiệp phải mua với giá trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao,
ảnh hưởng đến lợi nhuận. Với sự can thiệp của NHNN, cũng như năng lực dự
trữ ngoại hối lần đầu tiên được công khai một cách chính thức, tỷ giá ổn định
dần về cuối năm.
2.2.2. Năm 2009:
Trong bối cảnh phải chịu sức ép giảm giá so với USD trong một thời gian
dài mà trong đó nguyên nhân chủ yếu là do lạm phát cao trong hai năm 2007
(12,7 %) và 2008 (19,9%). Vào 4 tháng đầu năm 2009, tỷ giá VND/USD tiếp tục
đà tăng từ cuối năm 2008, đặc biệt sau khi NHNN nới rộng biên độ tỷ giá lên +/5% khiến cho tỷ giá liên ngân hàng có đợt tăng đột biến và giao dịch trên thị
trường tự do có lúc tiến sát đến mốc 18000 VND/USD. Với nguồn ngoại tệ ròng
vào Việt Nam là + trong 4 tháng đầu năm, thì dường như nguyên nhân chính gây
tỷ giá tăng mạnh trở lại là do sự găm giữ của người dân do kỳ vọng sự lên giá
của USD.
Từ tháng 5 đến tháng cuối tháng 11, do tác động của chính sách kích cầu,
hỗ trợ lãi suất tiền đồng cho các doanh nghiệp làm cho lãi suất cho vay tiền đồng
giảm thấp, phạm vi và thời gian vay được mở rộng theo chủ trương của chính
phủ nên một số doanh nghiệp có ngoại tệ không muốn bán ngoại tệ và chỉ muốn
vay tiền đồng. Đây là 1 tác động tiêu cực không mong muốn khi triển khai gói
kích cầu. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân khác như: do trạng thái nhập siêu
nhẹ trong quý 1/2009 đã chuyển thành nhập siêu nặng trong quý 2 và quý 3 khi
các biện pháp kích thích kinh tế được Chính phủ triển khai, thâm hụt thương mại
lớn vào cuối năm 2008 và các tin đồn…cũng đã góp phần làm cho tỷ giá
VND/USD có lúc lên 19750 VND trên thị trường liên ngân hàng.
Đến cuối năm, sau khi NHNN thực hiện hàng loạt các chính sách nhằm
bình ổn tỷ giá cộng với sự góp sức của các NHTM thì tỷ giá đã bắt đầu giảm về
giao dịch ổn định quanh mốc 18500 VND/USD.

6



Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
2.2.3. Năm 2010 và 5 tháng đầu năm 2011:

Tháng 1/2010, tỷ giá VND/USD đã giảm nhẹ và tiếp tục dao động quanh
mức 18.479 VND/USD sau khi tăng mạnh vào 2 năm 2008, 2009. Nguyên nhân
là do lượng USD vào nước ta tăng khá so với những năm trước, kể cả nguồn vốn
đầu tư trực tiếp (tháng 1 tăng 33,3%); Vốn hỗ trợ phát triển chính thức do năm
trước cam kết, ký kết đạt mức kỷ lục; Vốn đầu tư gián tiếp khi các nhà đầu tư
nước ngoài liên tục mua ròng trên thị trường chứng khoán; Nguồn kiều hối từ
Việt kiều và từ lao động làm việc ở nước ngoài gia tăng; Nguồn thu từ khách
quốc tế đến Việt Nam gia tăng trở lại (tháng 1 tăng 20,4%); Kim ngạch xuất
khẩu chuyển từ tăng trưởng âm sang tăng trưởng dương…Bên cạnh đó, các tập
đoàn, tổng công ty lớn của Nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng, sức ép tâm lý
găm giữ USD do lo sợ rủi ro tỷ giá giảm, chênh lệch giữa giá thị trường tự do
với giá niêm yết trên thị trường chính thức đã giảm đáng kể. Ngoài ra, từ cuối
năm 2009 NHNN đã có những giải pháp “vượt trước ngăn chặn” với nhiều
động thái để giảm sức ép tăng tỷ giá, như: Tăng tỷ giá liên ngân hàng đồng thời
với việc giảm biên độ giao dịch từ ±5% xuống còn ±3%; Yêu cầu các tập đoàn
và tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho ngân hàng; Bán ngoại tệ
cho các NHTM có trạng thái dưới 5%; Hạ 3% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi USD…
Ngày 01/11/2010, giá đôla đang có xu hướng tăng mạnh vượt ngưỡng
20.000 đồng, trên thị trường tiền tệ quốc tế, ngày 29/10, các nhà đầu tư chấp
7


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
nhận mức giá mỗi USD tương đương 21.500 đồng cho hợp đồng kỳ hạn 12

tháng (NDF). Điều này cho thấy, họ đang phòng vệ cho việc đồng Việt Nam có
thể tăng giá tới mức trên ngưỡng 21.500 đồng cho mỗi đồng USD trong 12
tháng tới. Tuy nhiên lúc này giá trị đồng USD đang giảm mạnh trên toàn thế
giới đây là một nghịch lý (Thậm chí, ở Lào tiền Kíp đang lên giá so với USD) và
đã gây ra những tác hại lớn cho nền kinh tế.
Ngày 03/11/2010, giá USD tự do đã lên tới 21.000 VND/USD. Điều này
khiến người dân đổ xô đi mua ngoại tệ. Trong khi đó, doanh nghiệp lại không
mua được ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của mình hoặc mua không đủ. Tình hình
diễn ra tương tự ngay trên thị trường chính thức, khi tỷ giá liên ngân hàng có lúc
lên tới 19.880 đồng, chứ không phải 19.500 như trần. Các ngân hàng đều niêm
yết giá đúng quy định, song thực tế, ngoài giá mua vào bán ra cộng thêm các chi
phí khác đã cao hơn giá niêm yết. Hiện tượng này dường như lặp lại tình hình
của một số thời kỳ trước.
Đáng chú ý, trong hệ thống ngân hàng, quy mô giao dịch, trạng thái ngoại
hối cũng giảm. Nếu trước đây (tháng 8/2010) điều chỉnh là dương 3%, gần đây,
đã giảm xuống dương 1% và đến giai đoạn những ngày gần đây xuống xấp xỉ
0%. Điều này cho thấy, các ngân hàng cũng không dư thừa ngoại tệ.
Sang năm 2011, ngày 11/02, NHNN đã bất ngờ công bố điều chỉnh tỷ giá
bình quân liên ngân hàng lên mức 20,693 VND/USD và thu hẹp biên độ giao
dịch từ +/- 3% xuống +/- 1%. Với mức điều chỉnh lần này, mức giá trần bán ra
của USD theo biểu niêm yết ngày 11/2/2011 của các NHTM là 20.900 VND và
giá sàn là 20.486 VND. Ngày 19/03, NHNN đã ban hành hai văn bản quan trọng
tác động tới hoạt động huy động và cho vay USD của các NHTM. Theo đó, dự
trữ bắt buộc ngoại tệ với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở xuống tăng từ 4% lên
6%, còn đối với tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở xuống tăng từ 1% lên 4%. Quyết
định này áp dụng từ đầu tháng 5/2011. NHNN cũng áp mức trần với lãi suất tiền
gửi ngoại tệ cho cá nhân ở mức 3%/năm.
Cho đến hiện nay, sự điều chỉnh của NHNN đã phát huy tác dụng khi
khoảng cách giữa tỷ giá giao dịch USD trên thị trường tự do và thị trường liên
8



Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
Ngân hàng đã thu hẹp lại , thậm chí có lúc tỷ giá trên thị trường tự do thấp hơn
tỷ giá niêm yết tại ngân hàng. Đơn cử, chiều 05/05, trên thị trường tự do, giá
USD mua vô, bán ra chỉ ở mức 20.500 - 20.570 đồng/USD, trong khi đó tỷ giá
USD bình quân liên ngân hàng cùng ngày theo quy định của NHNN lại lên đến
20.708 đồng/USD. Đến đầu tháng 6, tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã giảm
xuống còn 20618VND/USD. Qua đó cho thấy, diễn biến tỷ giá hiện đang tương
đối dần ổn định trong ngắn hạn.

2.3. Những tác động của tỷ giá hối đoái tới lạm phát:
Theo các chuyên gia kinh tế, lý do quan trọng khiến lạm phát ở Việt Nam
cao trong những năm gần đây chính là do chính sách tỷ giá hối đoái đôi khi
không phù hợp so với biến động của kinh tế thế giới đã dẫn đến kết quả là:
lượng cung tiền tăng đột biến; chi phí cho sản xuất trong nước tăng cao. Đây là
hai trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới lạm phát cao tại Việt Nam.
2.3.1. Neo tỷ giá cứng nhắc với đô la Mỹ dẫn đến cung tiền tăng
mạnh

9


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
Sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài đã đột biến đổ
mạnh vào Việt Nam (chỉ riêng năm 2007: vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD, vốn ODA
tăng gần 1,68 tỷ USD, vốn đầu tư gián tiếp tăng trên 6 tỷ USD). Lúc này, với
chiến lược phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN đã cung một lượng lớn VND ra
thị trường để mua lại lượng ngoại tệ này nhằm kìm tỷ giá VND/USD dưới điểm
cân bằng để nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các mặt hàng xuất khẩu

thay vì nâng giá VND để tạo ra điểm cân bằng (quan hệ cung cầu). Có thể coi
giữ VND yếu là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong
những điều kiện kinh tế thế giới nhất định. Tuy nhiên, việc tăng cung tiền quá
lớn ra thị trường đã tạo áp lực lên lạm phát ở giai đoạn này và hậu quả đã quá rõ
ràng khi lạm phát năm 2007 là 12,63%, năm 2008 là 19,89%.
2.3.2. Neo tỷ giá với đôla Mỹ mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi
phí sản xuất trong nước tăng (Nhập khẩu lạm phát):
Trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2008, do thâm hụt thương
mại khổng lồ, đồng USD đã mất giá trung bình khoảng 15% so với các đồng tiền
mạnh khác như Euro, Bảng Anh, Yên Nhật,… Cộng thêm vào đó, cuộc khủng
hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này bước
vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng dầu tính
theo đồng USD tăng mạnh. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỷ giá VND so với USD gần
như không biến động, cụ thể là đến cuối tháng 2/2008 tỷ giá VND/USD chỉ tăng
0.26% so với năm 2006. Qua việc neo tỷ giá, VND cũng giảm trung bình 15%
so với các ngoại tệ mạnh khác.
Việt Nam ràng buộc tỷ giá vào một điểm so với đồng USD trong khi
đồng tiền này biến động trên thị trường tiền tệ toàn cầu đồng nghĩa với việc Việt
Nam đã nhập khẩu một phần ảnh hưởng lạm phát của việc đồng USD mất giá..
Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên vật
liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc…Sự mất giá của USD
hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu cho
sản xuất tính bằng VND dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo. Chi phí
10


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn do vậy lạm phát phi mã là không
tránh khỏi. Điều này cũng có thể giải thích cho nguyên nhân vì sao mặc dù kim

ngạch xuất khẩu của chúng ta tăng trưởng ngoạn mục, nhưng cán cân thương
mại vẫn bị thâm hụt hay Việt Nam vẫn nhập siêu rất lớn. Một phần nguyên nhân
vì VND mất giá so với các ngoại tệ khác khiến cho giá thành của hàng hóa,
nguyên nhiên liệu nhập khẩu tăng cao, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt
lớn.
Trong khi đó, các nước khác trong khu vực đã cho phép tỷ giá biến động
phù hợp với những biến động của đồng USD trên thị trường. Điều này đồng
nghĩa với giá hàng hóa trên thế giới tính theo tiền USD tăng rất nhanh. Phản ứng
của các nước này giúp cho giá hàng hóa không bị tăng theo sự mất giá của đồng
USD, xóa đi một số tác động xấu đối với nền kinh tế.
2.4. Kiến nghị về chính sách tỷ giá hối đoái tại Việt Nam trong thời
gian tới:
Để góp phần kiềm chế lạm phát, thúc đẩy xuất khẩu, tăng trưởng kinh tế
trong bối cảnh nền kinh tế mất ổn định như hiện nay, chính sách tỷ giá hối đoái
của Việt Nam cần được hoàn thiện theo hướng cơ bản sau:
Thứ nhất: Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có sự can thiệp của Nhà
nước.
Thị trường ngoại hối Việt Nam đang còn trong giai đoạn sơ khai luôn
tiềm ẩn nhiều bất ổn do sự tấn công của các lực lượng đầu cơ. Dự trữ ngoại tệ
của NHNN còn thấp, khả năng can thiệp vào thị trường ngoại hối còn hạn chế.
Trong khi đó, cơ chế tỷ giá thả nổi giúp tự chủ trong chính sách tiền tệ, hạn chế
khả năng bị đầu cơ tấn công, hạn chế rủi ro ngoại hối... nhưng lại có nhược điểm
là đánh mất neo danh nghĩa cho chính sách tiền tệ, thị trường sẽ chịu nhiều rủi ro
khi tỷ giá có tính linh hoạt cao, khó dự báo mức giá cả quốc tế, không khuyến
khích thương mại và đầu tư trong trường hợp khả năng can thiệp điều tiết của cơ
quan quản lý tiền tệ yếu kém... Do vậy, trong thời gian tới Việt Nam vẫn cần
tiếp tục thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước để
tỷ giá hối đoái phản ánh đúng quan hệ cung-cầu thị trường nhưng NHNN vẫn
11



Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
cần can thiệp nhằm hạn chế những biến động quá nhanh hay quá mạnh của tỷ
giá hối đoái gây rủi ro cho các hoạt động kinh doanh quốc tế. Đồng thời, NHNN
có thể chủ động sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái để góp phần thực hiện các
mục tiêu đề ra trong mỗi thời kỳ.
Thứ hai: Tiếp tục điều hành tỷ giá theo hướng linh hoạt.
Tỷ giá linh hoạt sẽ giúp hạn chế tăng cung tiền, môt trong những nguyên
nhân gây lạm phát ở Việt Nam đồng thời giúp sàn lọc, hạn chế nguồn vốn đầu tư
gián tiếp từ nước ngoài trong bối cảnh nền kinh tế chưa thực sự hấp thụ hiểu quả
nguồn vốn từ nước ngoài
Thứ ba: Phối hợp đồng bộ chính sách tỷ giá với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác. Cụ thể:
Hoàn chỉnh cơ chế quản lý giao dịch ngoại hối và cơ sở pháp lý cho việc
điều hành thị trường ngoại tệ.
Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ với các chính sách và giải pháp bộ phận trong
lĩnh vực tiền tệ (như lãi suất, cung ứng vốn) nhằm tác động có hiệu quả vào nội
tệ từ nhiều góc độ.
Đưa dần các công cụ quản lý tiền tệ trên thế giới vào áp dụng thực tiễn.
Bên cạnh đó, việc hiện đại hóa hệ thống các tổ chức tài chính cần xúc tiến với
mục tiêu phát triển thị trường tài chính nói chung để nâng cao năng lực, mở rộng
phạm vi điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước.
Phối hợp hiệu quả với các chính sách vĩ mô khác như ngoại thương, cán
cân ngân sách, thuế, tín dụng, thu nhập người lao động.
Thứ tư: Đấu tranh hiệu quả với hiện tượng đầu cơ, tích trữ và kiềm chế
các tác động xấu của thị trường chợ đen.
Thứ năm: Cần nâng cao uy tín, khôi phục vị thế của VND, ổn định tỷ giá.
Vì nếu liên tục giảm giá VND sẽ bị rơi vào cái bẫy USD, khuyếch đại lạm phát,
vô vọng với kỳ vọng giảm giá VND nhằm thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại,
giảm nhập khẩu, kích thích xuất khẩu.

12


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
Thứ sáu: Điều hành tỷ giá xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế; có
nghĩa tại một thời điểm phải xác định rõ yếu tố nào cần ưu tiên và yếu tố nào có
thể hy sinh để đạt lợi ích tổng thể tối đa.
3. Kết luận:
Từ thực trạng và giải pháp trên cho ta thấy việc định hướng cho điều h
ành cơ chế tỷ giá hối đoái cần căn cứ vào vai trò và đặc điểm của tỷ giá hối
đoái để có thể đưa ra được một định hướng phù hợp. Với điều kiện hiện tại về
kinh tế - xã hội của Việt Nam thì việc thực hiện một c ơ chế tỷ giá linh hoạt có
sự kiểm soát của Nhà nước là phù hợp. Cơ chế này có thể còn kéo dài trong m
ột thời gian nữa khi Việt Nam thực sự có một tiềm lực kinh tế mạnh, có một
lực lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn để có thể can thiệp vào thị trường khi cần
thiết nhằm ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia, ổn định được giá cả hàng
hoá - dịch vụ trên thị trường.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái là một biến số, một loại giá cả có vai tr ò
quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế mở. Sự biến động của tỷ giá
hối đoái sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu, công ăn việc làm, sản
lượng, lạm phát,...tức là ảnh hưởng đến mục tiêu cân bằng nội và cân bằng
ngoại của nền kinh tế. Do đó, cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đóng một vai tr
ò vô cùng quan trọng. Nước ta mới chỉ đang đi những bước đầu tiên trong tiến
trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, do đó không tránh khỏi những yếu kém
và sai sót khi lựa chọn chế độ và điều hành chính sách tỷ giá hối đoái nên
trong công tác điều hành, quản lý chính sách tỷ giá hối đoái cần phải có sự cẩn
trọng nhất định và việc thực hiện các biện pháp quản lý cần phải đặt trong mối
quan hệ hữu cơ hình thành nên hệ thống đan xen v à hỗ trợ lẫn nhau để có được
sự kết hợp linh hoạt, đồng bộ nhằm khai thác thế mạnh và hạn chế nhược
điểm của từng biện pháp.


13


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Anh Quân. “Lạm phát 2010: Ba đột biến, hai kỷ lục và một nỗi lo”. Được lấy
về từ : />Asia Development Bank (2011), Asia Development Outlook 2011: Viet Nam,
[ />
14


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
Huỳnh

Thế

Du.

“Tỷ

giá



lạm

phát”.


Được

lấy

về

từ:

/>Diễn đàn kinh tế Việt Nam (2011), “Khôi phục vị thế VND để tránh “bẫy”
USD”. Được lấy về từ : />IMF (2010), Monetary and Exchange Rate Policy in Viet Nam: Some
Challenges, [ />Lê Trang. “Chủ động giảm giá nội tệ ở mức vừa phải”. Được lấy về từ:
/>Minh Đức. “Vẫn dè chừng rủi ro tỷ giá”. Được lấy về từ :
/>TS Nguyễn Quang A. “Lạm phát, tỷ giá hối đoái và lãi suất: Vòng lẩn quẫn”.
Được lấy về từ: />Nguyễn Tuân. “Nên tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá ổn định”. Được lấy về
từ:

/>
chinh-sach-ty-gia-on-dinh
Nguyễn Tuân. “Standard Chartered dự báo tỷ giá và lạm phát năm 2010”.
Được lấy về từ: />Nguyễn Thị Kim Liên, Chính sách tỷ giá trong vai trò kiềm chế lạm phát và
kiểm soát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Được lấy về từ:
/>ault.aspx
Lao động (2011), “Thị trường ngoại tệ: liệu có bình ổn lâu dài”. Được lấy về
từ: />15


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11
Phí Đăng Minh.“Tác động của tỷ giá tới lạm phát”. Được lấy về từ:
/>PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Chính sách tỷ giá VND nhằm cải thiện cán cân
thương mại trong thời kì khủng hoảng tài chính toàn cầu. Được lấy về từ:

/>pchi_2009_07_15_010056.doc?MOD=AJPERES&CACHEID=ee4a5d8043637e2c
8e75cfad7097747d
Website Tổng cục thống kê :
Website NHNN Việt Nam:

16


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11

17


Lê Quốc Minh Dương, Lớp ĐH25QT03_T11

18



×