Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Vận dụng phương pháp phát triển cộng đồng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã vũ chính, thành phố thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.91 KB, 35 trang )

Cowvũ chính

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI
------------------------------

ĐỀ CƯƠNG BÀI TẬP
ĐIỀU KIỆN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỀ TÀI:

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG GÓP
PHẦN NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦANGƯỜI DÂN
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ VŨ CHÍNH TP THÁI BÌNH

Học viên thực hiện: NGUYỄN THIỆN THOẠI
Lớp: Đại học Công tác xã hội K4 - TPTB
Hệ đào tạo: VHVL

THÁI BÌNH, THÁNG 7/2015
1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn và thực hiện đề tài
Quá trình đưa pháp luật vào cuộc sống,nâng cao ý thức pháp luật của người
dân được bắt đầu bằng hoạt động phổ biến và giáo dục pháp luật, đây là khâu
đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là cầu nối để truyền tải pháp luật vào
cuộc sống. Vì thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào như tuân thủ pháp luật,
thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật hay áp dụng pháp luật thì trước hết đều
phải có hiểu biết pháp luật.


Bên cạnh đó việc giáo dục pháp luật còn giúp hình thành ý thức pháp luật trong
nhân dân, tạo lòng tin vào pháp luật, thói quen và ý thức tôn trọng pháp luật cho
mọi công dân, nhằm phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật trong cuộc sống xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức cho người dân không
ngừng được đẩy mạnh thực hiện và đặt ra những kế hoạch hoạt động phù hợp
với đặc thù riêng của địa phương mình.
Tuy nhiên trên thực tế vũ chính là một xã vùng ven còn nhiều khó khăn ý thức
pháp luật trong nhân dân còn nhiều hạn chế do đó đòi hỏi công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức pháp luật của người dân phải được tiến
hành thường xuyên liên tục với nhiều biện pháp thích hợp hơn. Là một sinh viên
cuối khoá được phân công về thực tập,nghiên cứu, tìm hiểu làm bài điều kiện tốt
nghiệp dùng phương pháp phát triển cộng đồng nâng cao ý thức pháp luật của
người dân tại địa phương , trong quá trình làm bài em đã được tiếp cận, tìm hiểu
với công tác phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật qua đó thấy được phần
nào những khó khăn vướng mắc cũng như những kết quả đã đạt được của công
tác này tại địa phương. Do đó em chọn đề tài “vận dụng phương pháp phát triển
cộng đồng nâng cao ý thức pháp luật người dân trên địa bàn ” là nội dung chính
trong bài điều kiện của mình. Tuy nhiên do kiến thức còn hạn chế, thời gian thực
tập không dài nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để nhận thức của em về vấn
đề này được hoàn thiện hơn.

2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
- Phổ biến kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật liên quan đến việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh
quốc phòng và đời sống sinh hoạt, học tập của toàn thể cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động, các tầng lớp nhân dân trên địa bàn, nhằm nâng cao hơn
nữa nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, ý thức tự giác, chủ động tìm hiểu
2



pháp luật của cán bộ và nhân dân; đồng thời tạo điều kiện để cán bộ và nhân dân
sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, ngăn ngừa có hiệu quả các hành vi
vi phạm pháp luật.
- Tạo bước phát triển mới trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
(PBGDPL), đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nâng cao dân trí pháp lý cho
cán bộ và nhân dân trên địa bàn.
- Thực hiện xã hội hoá công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; đẩy mạnh thực
hiện cơ chế phối hợp, nâng cao tinh thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động,
sáng tạo và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức, đơn vị đối với công
tác PBGDPL; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội tham gia, đưa công tác PBGDPL thành hoạt động thường xuyên, liên tục của
mọi cơ quan, tổ chức, công dân.
Yêu cầu
- Kế thừa những kết quả đạt được, bảo đảm tính liên tục và phát triển trong thực
hiện các nội dung, hình thức, biện pháp PBGDPL. Sử dụng và khai thác có hiệu
quả các hình thức PBGDPL; kết hợp việc PBGDPL trên diện rộng với các hoạt
động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải cơ sở, khai thác tủ sách pháp
luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật
và các hoạt động văn hóa khác.
- Phổ biến giáo dục pháp luật phải gắn với việc quán triệt các chủ trương,
chính sách của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng an ninh
trên địa bàn.
- Coi trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra và thực hiện nghiêm túc chế độ thông
tin báo cáo, sơ kết, tổng kết nhằm đánh giá đúng tình hình và kết quả thực hiện;
kịp thời đưa ra những giải pháp phù hợp để tăng cường và nâng cao hiệu quả
thực hiện công tác PBGDPL trong địa bàn.


3. Đối tượng, địa bàn thực hiện.
Đối tượng cần nâng cao ý thức , tuyên truyền, phổ biến pháp luật là toàn dân
trên địa bàn xã, trình độ hiểu biết pháp luật chưa cao và mục tiêu của tuyên
truyền, phổ biến pháp luật là làm cho các công dân hiểu mình là ai, mình làm gì
và làm như thế nào, công dân hiểu và nắm được các quy định của pháp luật để
giải quyết công việc, để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cơ quan nhà nước.
Do vậy nội dung tuyên truyền cần được giải thích bằng ngôn ngữ đơn giản, càng
dễ hiểu bao nhiêu càng tốt để tiếp cận được mọi đối tượng một cách hiệu quả,
đặc biệt là các nội dung liên quan đến kiến thức pháp luật cơ bản, các khái niệm,
các quy phạm pháp luật...
3


NỘI DUNG

1.

KHÁI QUÁT VỀ PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG

1.1. Khái niệm cộng đồng, phát triển và phát triển cộng đồng
1.1.1. Khái niệm cộng đồng :
Cộng đồng là một thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức ,là một nhóm người
cùng chia sẻ và chịu sự ràng buộc bởi các đặc điểm và lợi ích chung được thiết
lập thông qua tương tác và trao đổi giữa các thành viên.
1.1.2. Khái niệm phát triển cộng đồng
Phát triển cộng đồng là một tiến trình làm chuyển biến cộng đồng nghèo,
thiếu tự tin, có vấn đề, có nhu cầu thành cộng đồng tự lực và giải quyết các vấn
đề đặt ra thông qua việc giáo dục giúp đỡ các thành viên trong cộng đồng, nhận
thức rõ tình hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy hết khả năng và tài nguyên
sẵn có của họ.

Phát triển cộng đồng là một tiến trình qua đó có sự nỗ lực của chính dân cư
trong cộng đồng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện
kinh tế, xã hội, văn hóa của cộng đồng và để cộng đồng có điều kiện hội nhập và
tham gia tích cực vào đời sống của toàn xã hội. Thực chất của phương pháp tổ
chức và phát triển cộng đồng là người làm CTXH sử dụng kiến thức, kỹ năng, xây
dựng, thực hiện chương trình, dự án dựa trên sự huy động nguồn lực bên trong
cộng đồng (nội lực) kết hợp với nguồn lực của xã hội, có sự tham gia của nhà nước
hoặc các nguồn hỗ trợ từ bên ngoài (tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội), để cải
thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư, tăng cường khả năng tự lực của cộng
đồng trong việc giải quyết vấn đề của mình.
Đối tượng tác động của phương pháp này là cộng đồng người, sinh sống trên
một địa bàn dân cư có những đặc điểm chung cơ bản về kinh tế, xã hội và văn
hóa, có vấn đề hoặc nhu cầu xã hội. Mục đích của CTXH với cộng đồng là
thông qua việc nhận diện vấn đề của cộng đồng, đánh giá các nguồn lực, khai
thác và phát huy tiềm năng của cộng đồng, từ đó tổ chức hoạt động, thực thi
những chương trình hành động mang lại những chuyển biến tích cực cho cộng
đồng: từ chỗ khó khăn, kém phát triển trở thành cộng đồng tiến bộ, ổn định, phát
triển.
Quá trình ứng dụng phương pháp CTXH tác nghiệp với cộng đồng, người làm
CTXH tổ chức và phát triển cộng đồng cùng với cộng đồng xác định vấn đề gặp
phải, phân tích tìm ra nguyên nhân của những trở ngại khó khăn ảnh hưởng tới
4


sự phát triển của cộng đồng và tạo ra mối quan hệ, liên kết giữa các thành viên
trong cộng đồng, giữa cộng đồng với các cơ quan chức năng, tổ chức, thông qua
các chương trình, dự án hoạt động làm thay đổi, chuyển biến tích cực cộng
đồng: từ yếu, kém, có vấn đề, có nhu cầu trở thành cộng đồng thức tỉnh, lên khá
và phát triển - cộng đồng tự lực.
1.2. Bối cảnh ứng dụng phương pháp phát triển cộng đồng.

- phương pháp này là cách tiếp cận nhắm vào năng lực, có khả năng hay chắc
chắn tăng năng lực cho cộng đồng, thúc đẩy người dân tạo ra sự thay đổi đầy ý
nghĩa và tích cực từ bên trong cộng đồng. Thay vì nhắm vào nhu cầu của cộng
đồng, mặt thiếu sót, khiếm khuyết và vấn đề, cách tiếp cận giúp họ (cộng đồng)
trở nên mạnh mẽ hơn và tự lực tự cường hơn qua khám phá, liệt kê, nhận dạng
(sắp đặt) và huy động tất cả các nguồn lực tại chỗ của họ.
Ít người nhận thức (hiểu biết) có bao nhiêu nguồn lực của một cộng đồng bất kỳ
như:
Kỹ năng của người dân, từ người trẻ đến người khuyết tật, từ người có chuyên
môn, thành đạt đến người nghệ sĩ nghèo,…
Sự cống hiến, đóng góp của các hội đoàn dân sự như: nhà thờ, các nhóm văn
hóa, câu lạc bộ, hội đồng hương/ hàng xóm,…
Các nguồn lực từ các tổ chức (thiết chế) chính thức như: kinh tế/ doanh nghiệp,
trường học, thư viện, trường học cộng đồng, bệnh viện, công viên, các tổ chức
xã hội.
- một chiến lược phát triển cộng đồng bền vững. Vượt trên sự huy động của một
cộng đồng riêng biệt. Cách tiếp cận quan tâm đến việc làm thế nào để nối kết
nguồn lực vi mô với môi trường vĩ mô. Nói một cách khác, quan tâm đến những
ranh giới của cộng đồng và làm thế nào đặt cộng đồng trong mối quan hệ với
các thiết chế, tổ chức hội đoàn ở địa phương và môi trường kinh tế bên ngoài mà
truyền “lửa” cho các hội đoàn thể địa phương và những mạng lưới không chính
thức. nhận thức về vai trò và những khả năng của cộng đồng trong việc lèo lái
tiến trình phát triển bằng cách nhận dạng và huy động những nguồn lực hiện có
nhưn- sự phồn vinh liên tục của cộng đồng tùy thuộc vào đó.Cách tiếp cận chú ý
đến g thường không được nhận ra hay không được tận dụng, vì thế đáp ứng và
tạo ra cơ nguồn lực xã hội: tài năng, năng lực của cá nhân, và mối quan hệ xã
hội mà nó hội tại địa phương.
- phát triển cộng đồng với tư cách là một chiến lược, nhằm kích thích và duy trì
sự phát triển trong các vùng gần thành thị và các cộng đồng ở nông thôn. Nó
cũng thu hút sự đồng tình của một số người tuy không nhiều nhưng tận tâm. Đó

là những người đã bị vỡ mộng với cách tiếp cận phát triển cộng đồng dựa trên
5


nhu cầu, do đó, nó mở ra triển vọng là kích thích sáng kiến địa phương và tăng
cường hành động tập thể.
1.3. Nguyên tắc tác nghiệp của phương pháp phát triển cộng đồng.
Đối tượng tác nghiệp của phương pháp tổ chức và phát triển cộng
đồng là cộng đồng có nhu cầu, có vấn đề; với đặc thù cộng đồng là một
thành tố của cấu trúc xã hội, được xác định dựa trên những tiêu chí nhất
định, thường được hiểu khái quát là một tập hợp dân cư sinh sống trên
cùng một địa bàn, do đó phải có những nguyên tắc tác nghiệp phù hợp.
Cùng với những nguyên tắc chung, trở thành những nguyên tắc cụ thể
như: khẳng định và coi trọng đặc điểm riêng của cộng đồng; tôn trọng
quyền tự quyết, tự chịu trách nhiệm của cộng đồng; cộng đồng vừa là đối
tượng tác động, vừa là nguồn lực và lực lượng chủ yếu giải quyết vấn đề,
đáp ứng nhu cầu của cộng đồng… còn có những nguyên tắc đặc thù.
Những nguyên tắc tác nghiệp đặc thù bao gồm:
+ Các hoạt động phát triển cộng đồng phải dựa trên nhu cầu thiết yếu của
cộng đồng. Tác viên phát triển cộng đồng không làm thay, áp đặt chương trình
phát triển từ trên hoặc từ bên ngoài vào mà phải được xuất phát từ bên trong
cộng đồng. Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, quyết định đến động lực, sự
tham gia - điều kiện thành công của chương trình/dự án phát triển cộng đồng.
+ Phát triển cộng đồng phải dựa trên cơ sở và hướng tới thực hiện công
bằng, bình đẳng, dân chủ. Nguyên tắc này đòi hỏi công bằng, bình đẳng, dân chủ
về thông tin, về quyền tham gia, về mối quan hệ giữa lợi ích cộng đồng với lợi
ích cá nhân và về hưởng thành quả từ trước, trong và sau quá trình triển khai
thực hiện chương trình/dự án phát triển cộng đồng.
+ Khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực cho chương trình/dự án phát
triển cộng đồng. Các nguồn lực phát triển cộng đồng bao gồm nguồn lực vật

chất và nguồn lực tinh thần, nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nguồn
lực bên trong cộng đồng cần khai thác, phát huy như sức mạnh từ tinh thần cộng
đồng, đoàn kết cộng đồng, văn hóa cộng đồng, cố kết cộng đồng, kinh nghiệm
cộng đồng, cá nhân có uy tín trong cộng đồng... Nguồn lực bên ngoài có thể là
nguồn lực tài chính, khoa học – kỹ thuật, chính sách... và đặc biệt là vai trò của
tác viên phát triển cộng đồng.
+ Giải quyết vấn đề, đáp ứng nhu cầu chung và chú trọng những ưu tiên.
Chương trình/dự án phát triển cộng đồng, bên cạnh việc quan tâm đến nhu cầu
6


chung của cộng đồng cũng cần chú trọng đến những đối tượng ưu tiên như
người nghèo, người yếu thế, thiệt thòi, trình độ thấp...
+ Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự
liên kết chặt chẽ: bắt đầu từ những hoạt động nhỏ để đạt được những thành công
nhỏ. Các hoạt động phát triển cộng đồng là một tiến trình có sự hợp tác và sự
liên kết, nó đòi hỏi phát triển phải được coi như là một tiến trình, trong đó có các
bước đi thích hợp từ thấp đến cao, từ chỗ nhận diện, đánh giá nhu cầu đến
những hành động dựa trên việc khai thác, sử dụng, phát huy nguồn lực, chuyển
biến cộng đồng ở tình trạng yếu kém, chưa thức tỉnh tiến lên cộng đồng thức
tỉnh, tự lực và phát triển. Trong toàn bộ tiến trình, sự chia sẻ về kinh nghiệm,
chia sẻ về phương pháp, kĩ thuật và các sáng kiến... từ đó có thể tránh được
những mâu thuẫn, những xung đột xảy ra làm tổn hại đến sự phát triển cộng
đồng là hết sức quan trọng.
+ Có niềm tin vào sức mạnh của cộng đồng. Khuyến khích người dân phát
huy khả năng, tiềm năng của họ để cùng thảo luận, ra quyết định và thực hiện
hành động trong các chương trình hành động giải quyết vấn đề, phát triển cộng
đồng. Niềm tin và sự khích lệ sẽ tạo ra những sự thay đổi trong cộng đồng, từ
cộng đồng.
1.4. Tiến trình phát triển cộng đồng .

Tiến trình phát triển cộng đồng là quá trình bao gồm các bước hoạt động
thể hiện sự tương tác giữa người làm CTXH (tác viên phát triển cộng đồng) với
một cộng đồng cụ thể nhằm đạt được mục đích và các mục tiêu đặt ra. Thực chất
tiến trình phát triển cộng đồng là quy trình thực hiện các bước trước, trong và
sau của một chương trình, dự án hoạt động đối với một cộng đồng. Tiến trình
này bắt đầu từ lựa chọn, tiếp cận, nhận diện vấn đề, đánh giá nhu cầu, tiềm năng,
những điều kiện thuận lợi, khó khăn của một cộng đồng đến việc thiết kế/xây
dựng, thực hiện chương trình, dự án phát triển cộng đồng và những hoạt động
phát triển sau chương trình, dự án.
+ Tìm hiểu và đánh giá cộng đồng: bước chuẩn bị, tạo tiền đề đi đến quyết
định xây dựng và thực hiện chương trình, dự án phát triển cộng đồng. Mục đích của
bước tìm hiểu, đánh giá cộng đồng là nghiên cứu, khảo sát thực tế nhằm xác định
tình trạng hiện thời của cộng đồng, nhận diện, phát hiện những vấn đề gặp phải của
cộng đồng, đánh giá nhu cầu, tiềm năng, những thuận lợi, khó khăn đối với hoạt
7


động, tổ chức đời sống của cộng đồng và dân cư trong cộng đồng. Để đạt được
mục đích đặt ra, tác viên phát triển cộng đồng phải thực hiện các nhiệm vụ: tiếp cận
cộng đồng, thu thập, xử lý, phân tích thông tin thông qua sử dụng các phương pháp
và kỹ năng chuyên nghiệp; thảo luận với cấp trên, với lãnh đạo và đại diện cộng
đồng về những kết luận, đánh giá hiện trạng, nhu cầu, tiềm năng của cộng đồng, từ
đó đề xuất giải pháp đáp ứng nhu cầu, giải quyết vấn đề, nâng cao năng lực, hướng
tới thiết kế, xây dựng chương trình, dự án phát triển cộng đồng.
+ Xây dựng chương trình, dự án phát triển cộng đồng: đáp ứng nhu cầu, giải
quyết một hay một số vấn đề của cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều
lực lượng xã hội bên trong và bên ngoài cộng đồng, trong đó đối tượng tham
gia, đích tác động hướng tới là bản thân cộng đồng, thể hiện bằng một kế hoạch
can thiệp hay một chương trình hành động được xác định bởi một khung thời
gian, nguồn lực và hoạt động quản lý.

Xây dựng và thực hiện chương trình hành động hay dự án phát triển cộng
đồng là trọng tâm, là nội dung quan trọng nhất của một tiến trình phát triển cộng
đồng, thể hiện vai trò của tác viên phát triển cộng đồng trong mối quan hệ tương
tác với một cộng đồng cụ thể. Một chương trình/dự án phát triển cộng đồng phải
được xây dựng, triển khai hoạt động dựa trên những nguyên tắc phát triển cộng
đồng và bao gồm những nội dung cơ bản: (1)Tên chương trình/dự án; (2)Mục
đích, các mục tiêu cụ thể; (3) Thời gian, địa điểm, phạm vi hoạt động, ban/người
điều hành, quản lý hoạt động và đối tượng tham gia, hưởng lợi/đích tác động
hướng tới của chương trình/dự án; (4)Nội dung, nhiệm vụ, kế hoạch chi tiết của
từng hoạt động trong chương trình/dự án; (5)Nguồn lực và các điều kiện cơ sở
vật chất, cơ sở pháp lý, chính sách cần thiết cho hoạt động của chương trình/dự
án; (6)Thuận lợi, khó khăn và những vấn đề có thể phát sinh, cần giải quyết
trong quá trình triển khai thực hiện chương trình/dự án; (7)Dự báo những kết
quả đạt được của dự án dựa trên khả năng sử dụng nguồn lực đáp ứng nhu cầu,
mục tiêu.
+ Hoạt động chuyển giao, phát triển sau chương trình/dự án: nâng cao năng
lực của cộng đồng – cộng đồng tự lực. Phát triển cộng đồng không chỉ dừng lại
ở việc thực hiện những dự án đơn lẻ, có tính giai đoạn, nhất thời, đáp ứng một
hay một số nhu cầu, giải quyết một hay một số vấn đề nào đó mà điều quan
trọng hơn, hướng tới mục đích cao hơn phải là sự chuyển giao quy trình tác
động, tiếp diễn chuyển biến từ cộng đồng yếu kém, thụ động, có vấn đề sang
cộng đồng thức tỉnh và lên cộng đồng chủ động, tự lực, sáng tạo. Một mục tiêu
8


quan trọng, một tiêu chí đánh giá thành công của chương trình dự án là trong
quá trình triển khai thực hiện có những hoạt động hướng tới nâng cao năng lực
nhận thức, tổ chức, giải quyết vấn đề của cộng đồng sau khi chương trình/dự án
kết thúc. Những kết quả, kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng đạt được của cộng
đồng từ chương trình/dự án là điều kiện, yếu tố động lực thúc đẩy cộng đồng

giải quyết những vấn đề đáp ứng những nhu cầu và theo những mục tiêu mới –
phát triển bền vững. Vì vậy, sau khi kết thúc chương trình/dự án, mặc dù không
còn sự tham gia trực tiếp của tác viên phát triển cộng đồng nhưng cộng đồng
vẫn luôn tiếp diễn việc nhận thức, phát hiện, huy động nguồn lực bên trong và
bên ngoài để giải quyết những vấn đề nảy sinh nhằm duy trì và đảm bảo sự ổn
định, nâng cao đời sống mọi mặt của cộng đồng.
1.5. Dự án/chương trình phát triển cộng đồng.
- Khái niệm dự án phát triển cộng đồng:
Dự án phát triển cộng đồng là một loại dự án phát triển nhằm giải quyết
một hay một số vấn đề của cộng đồng với sự tham gia tích cực của nhiều lực
lượng xã hội, thể hiện bằng một kế hoạch can thiệp, hỗ trợ hay một chương trình
hành động được xác định bởi một khung thời gian, nguồn nhân lực, tài chính và
quản lý.
Dự án phát triển cộng đồng là dự án hướng trực tiếp vào cộng đồng nhằm
mục đích giải quyết vấn đề, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, hướng tới sự phát
triển toàn diện của cộng đồng thông qua việc nâng cao năng lực của người dân
và các tổ chức trong dân chúng.
Như vậy, dự án phát triển cộng đồng phải hướng vào những mục tiêu phát
triển cụ thể, nó không phải là một dự án cứu trợ hay giải quyết tình huống khẩn
cấp, tạm thời, trước mắt, nó được thực hiện có sự phối hợp của nhiều nguồn lực,
lực lượng và đối tượng của dự án là tạo ra sự thay đổi tích cực tại cộng đồng, từ
bên trong cộng đồng.
- Quy trình thiết kế, thực hiện dự án phát triển cộng đồng:
+ Thiết kế dự án: Bao gồm các khâu từ nhận diện cộng đồng, xác định nhu
cầu, xác định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, đánh giá nguồn lực, thuận lợi,
khó khăn cho đến việc hoạch định các hoạt động.
+ Triển khai dự án: Là quá trình triển khai các hoạt động đã được hoạch
định – lên kế hoạch, bao gồm các hoạt động phối hợp, hoạt động giám sát và
hoạt động quản lý.
9



+ Đánh giá dự án: Là quá trình gồm các hoạt động đánh giá mức độ đạt được
trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể đã đề ra, tương ứng
với chúng là hệ thống các hoạt động, các nguồn lực đã được sử dụng và triển
khai.
- Thiết kế dự án – khung lý thuyết chung của một dự án phát triển cộng đồng
* Tên dự án
* Địa điểm thực hiện
* Đối tượng tham gia, đối tượng đích hướng tới, quản lý thực hiện
* Thời gian triển khai
+ Cơ sở – lý do xây dựng, thực hiện dự án
+ Xác định nhu cầu của cộng đồng
+ Mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể của dự án
+ Các nguồn lực huy động thực hiện dự án
+ Thuận lợi và khó khăn của việc thực hiện dự án
+ Tiến độ thực hiện dự án: nôi dung hoạt động theo kế hoạch cụ thể
+ Dự kiến kết quả đạt được của dự án

2. TỔNG QUAN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VIỆC NÂNG CAO Ý
THỨC PHÁP LUẬT CỦA NGƯỜI DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. Khái niệm pháp luật, ý thức pháp luật và giáo dục ý thức pháp luật
- pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận)
và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và là
nhân tố điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.
- ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết,tư tưởng,tình cảm của con người,
thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hoặc không công bằng ,đúng đắn
hoặc không đúng dắn của pháp luật hiện hành,pháp luật trong quá sử sự của con
người,trong hoặt động của các cơ quan, tổ chức.
-giáo dục pháp luật được xem là hoạt động có tính định hướng khứ và pháp luật

cần phải có,về tính hợp pháp hoặc không hợp pháp trong cách của các cơ quan
đảng,nhà nước và tổ chức xã hội,trong đó người giáo dục và người được giáo
dục luôn tác động qua lại lẫn nhau,thiết lập những hành vi sử sự phù hợp các
quy phạm pháp luật.hoạt động của giáo dục pháp luật nhằm hình thành ở con
người thói quen sử sự phù hợp với đòi hỏi của pháp luật.

10


Giáo dục pháp luật là quá trình tác động có tính liên tục,lâu dài,thường
xuyên.vì thế giáo dục pháp luật phải thong qua nhiều cơ quan,tổ chức chính trị,
xã hội,trong đó hội đồng phối hợp PBGDPL giữ vai trò quan trọng,nhưng cần
phải có sự kết hợp chặt chẽ với các ban nghành lien quan nhằm mục đích hướng
dẫn hành vi con người sử sự phù hợp với quy định của pháp luật.
2.2.Thực trạng hiểu biết và ý thức pháp luật của người dân ở nước ta hiện
nay:
- Có thể nói rằng, thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay có biểu hiện
tương đối tốt. Thực hiện Đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách
của nhà nước, sự quan tâm chỉ đạo của các ban cấp lãnh đạo, công tác tuyên
truyền pháp luật của các cơ quan chức năng; tất cả những nhân tố đó đã tạo cho
người dân một cái nhìn tổng quan và chính xác nhất về pháp luật, từ đó, người
dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và
nghiêm chỉnh. Ví dụ như có nhiều vụ tham nhũng của các cán bộ công chức nhà
nước như tham nhũng về đất, tiền đóng góp của người dân. . . đã bị người dân
khiếu nại, tố cáo. Nhân dân ủng hộ nhiệt tình với các chủ trương của chính phủ
trong việc giải quyết dứt khoát, không tránh né dù đối tượng có cương vị, trọng
trách cao đến đâu, cũng có nghĩa rằng nhu cầu công bằng xã hội được dư luận xã
hội quan tâm, tán thành, ủng hộ. Không chỉ đem lại quyền lợi cho người dân mà
thể hiện tính dân chủ của nhà nước. Điều này cũng cho thấy nhận thức về pháp
luật của người dân đã được củng cố và nâng cao.

Sự phát triển về kinh tế với những chính sách kinh tế thuận lợi; đường lối chính
trị đúng đắn, định hướng nhân cách con người; nét đẹp truyền thống và những
đổi mới theo hướng tích cực, lối sống văn hóa cùng với các hệ thống pháp lý
chặt chẽ đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện pháp luật một cách hiệu quả
nhất. Nhìn chung, xã hội hiện nay tương đối ổn định, có điều kiện phát triển
kinh tế xã hội; để có được điều này là nhờ có hoạt động thực hiện pháp luật của
con
người
được
đảm
bảo,
duy
trì

giữ
vững.
Bên cạnh những mặt tích cực trong thực tiễn hoạt động thực hiện pháp luật ở
nước ta hiện nay thì trong thực tế vẫn còn tồn đọng một số hạn chế, bất cập
trong quá trình thực hiện pháp luật. Mặc dù có sự chỉ đạo của các cơ quan chức
năng có thẩm quyền, đường lối chính trị đúng đắn của nhà nước, tuy nhiên,
trong xã hội vẫn tồn tại một bộ phận không nhỏ thực hiện pháp luật trái với quy
định nhà nước, có thể gọi là vi phạm pháp luật và tội phạm. Điều này cho thấy ý
thức pháp luật của những bộ phận này chưa cao, kém hiểu biết và ảnh hưởng
xấu
tới
sự
ổn
định

trật

tự

hội.
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm
11


pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật
của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Trong thời gian qua, việc tuyên
truyền pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các phương
tiện khác đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng
cao trình độ, ý thức pháp luật cho nhân dân thì những kết quả đó vẫn chưa tương
xứng. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân theo yêu cầu
quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay là vấn đề cấp thiết.
- Thực trạng ý thức pháp luật của người dân Với nhiều chủ trương, chính
sách, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp
luật ngày càng nâng cao và có chất lượng tốt tạo ra sự chuyển biến rõ rệt so với
thời kỳ bao cấp trước đây. Với các quy định phù hợp của pháp luật về các quyền
cơ bản của con người (như ăn, ở, đi lại, kinh doanh...) đã tạo ra hành lang pháp
lý thuận lợi cho sinh hoạt của mọi người dân. Ý thức pháp luật của người dân
cũng có sự chuyển biến tích cực, nhận thức về vị trí vai trò của pháp luật đối với
đời sống ngày càng cao. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn vai trò của pháp luật
trong cuộc sống người dân có ý thức chấp hành, tuân thủ pháp luật tốt hơn. Ý
thức pháp luật của nhân dân Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, nâng cao
về mọi phương diện. Sự hiểu biết về tri thức pháp luật nói chung, pháp luật
chuyên ngành của cán bộ công chức và người dân ngày càng nâng cao không chỉ
về số lượng văn bản pháp luật mà về bản chất nội dung các quy định pháp luật.
Điều này thể hiện qua tình hình ý thức chấp hành pháp luật của người dân trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, văn hóa, giao thông, môi trường, y

tế, hội nhập kinh tế quốc tế... được cải thiện rõ rệt thông qua việc tuân thủ đúng
các yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Ví dụ các chủ thể kinh doanh tuân thủ đúng
các quy định về thành lập, hoạt động của doanh nghiệp; chấp hành tốt các quy
định của pháp luật về cạnh tranh lành mạnh; kinh doanh thương mại; tỷ lệ tảo
hôn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đã thuyên giảm đáng kể, tỷ lệ tội phạm và
các vi phạm pháp luật khác cũng giảm rõ rệt,... Đồng thời, ý thức tự bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của người dân được nâng cao. Chính nhờ có tri thức
pháp luật đúng đắn giúp họ có thể tụ hành động để bảo vệ quyền lợi của mình
mà không xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và Nhà nước.
Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây tình hình ý thức pháp luật của đội ngũ cán
bộ, công chức và người dân Việt Nam có nhiều yếu kém, đặc biệt có nhiều vấn
đề mới phát sinh có chiều hướng gia tăng đến mức "báo động" là "điểm nóng"
đối với tình hình chính trị, an ninh, xã hội.
2.3. sự cần thiết nâng cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta.
12


Chúng ta đã và đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân với mục đích thực hiện quyền làm chủ Sự cần thiết nâng
cao ý thức pháp luật của người dân ở nước ta của nhân dân theo chủ trương,
đường lối của Đảng.
-Nhà nước pháp quyền XHCN lấy pháp luật làm căn cứ điều tiết các hành vi cá
nhân, các quan hệ xã hội, bảo đảm cho xã hội ổn định và phát triển bền vững.
-Để có được xã hội pháp quyền như vậy, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như xây
dựng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, có hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước từ
Trung ương xuống cơ sở vững chắc, trình độ văn hóa pháp luật và ý thức của
người dân đạt tới sự hiểu biết, tự giác cao, các cơ quan giám sát thi hành pháp
luật nghiêm minh... Trong số những yếu tố trên, yếu tố nào cũng có vai trò đặc
biệt quan trọng. Nhưng suy cho cùng, hệ thống luật pháp ấy có đến được với
người dân không, nhân dân có hiểu biết và tự giác thực hiện pháp luật hay

không là vấn đề quyết định. Nếu luật pháp vẫn chỉ là luật pháp cho dù có hoàn
chỉnh đến mấy; nếu người dân cứ tự do sống theo kiểu của mình không cần biết
đến luật pháp, thì không những xã hội không phát triển mà còn rất tồi tệ và bất
ổn. Mấu chốt của vấn đề ở chỗ, pháp luật phải đi vào cuộc sống, nhân dân thấy
cần pháp luật như cần không khí để hít thở vậy. Cho nên, việc tuyên truyền giáo
dục pháp luật cho nhân dân là việc làm không thể thiếu và cũng không thể làm
một, hai lần, làm một thời gian ngắn là xong mà phải rất kiên trì, sáng tạo, linh
hoạt, được toàn xã hội tham gia.
Tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân có nhiều việc phải làm, bằng
nhiều cách, do nhiều lực lượng tham gia như đã nêu.
Các phương tiện thông tin đại chúng với những ưu thế đặc biệt đã thực sự là một
công cụ tuyên truyền giáo dục pháp luật có hiệu quả xã hội cao. Các
phương tiện thông tin đại chúng làm cho mỗi người dân trong đời sống sinh
hoạt thường ngày của mình được tiếp cận với các phương tiện thông tin đại
chúng một cách trực tiếp, cập nhật, phong phú, đa dạng, sinh động, dễ
dàng. Thông qua các phương tiện nghe, nhìn của đài phát thanh, đài truyền
hình, sách báo in, báo mạng, báo ảnh, tạp chí... người dân có thể thấm
nhuần những nội dung pháp luật, những điều cần phải làm, những vấn đề
phải quan tâm... Các phương tiện thông tin đại chúng cũng phê phán, nêu
rõ các hiện tượng sai trái coi thường pháp luật, không hiểu pháp luật đã dẫn
đến những hậu quả khó lường cho cá nhân, gia đình và xã hội. Việc làm
này có tác động mạnh tới nhận thức tư tưởng, tình cảm của mỗi người,
khiến họ phải tự điều chỉnh hành vi của mình theo quy định của pháp luật.
Cho nên việc tuyên truyền giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng là cần thiết, có nhiều ưu thế và là một trong những
13


phương pháp, phương thức tuyên truyền giáo dục pháp luật hiện nay có
hiệu quả cao, được nhiều người ở nhiều lứa tuổi quan tâm.

2.4. quan điểm, định hướng giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của người
dân ở nước ta.
- Thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo tinh thần và nội dung của các Nghị
quyết của Bộ Chính trị: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư
pháp đến năm 2020; Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân;
thực hiện cải cách hành chính, phân cấp cụ thể để địa phương chủ động đưa
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hướng về cơ sở; đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
pháp luật của nhân dân;
- Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của Nhà nước, đồng thời cũng là
trách nhiệm chung của toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện bản chất
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
từng bước xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trong đó Nhà nước
giữ vai trò nòng cốt, khuyến khích, hướng dẫn, huy động sự tham gia, đóng góp
của xã hội vào công tác này;
- Điều chỉnh toàn diện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, quy định cụ thể
về nguyên tắc phổ biến, giáo dục pháp luật; người được phổ biến, giáo dục pháp
luật; tổ chức và người thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; hình thành các
chuẩn mực, quy tắc nghề nghiệp trong công tác này; huy động nguồn lực bảo
đảm hoạt động và tăng cường công tác quản lý nhà nước nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực phổ biến, giáo dục pháp luật vào
một hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương là ngành Tư
pháp, với cơ quan trực tiếp thực hiện là đơn vị làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật ở trung ương và địa phương. Ngành Tư pháp vừa có nhiệm vụ quản lý
Nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp

luật, vừa là Cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật của Chính phủ. Tăng cường sự chủ động và cơ chế phối hợp hiệu
quả giữa các bộ, ngành, đoàn thể trong công tác PBGDPL. Phân cấp mạnh mẽ
hoạt động PBGDPL cho địa phương với phương châm hướng công tác PBGDPL
về cơ sở.
14


- Tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, kế thừa những quy định của pháp luật hiện
hành về phổ biến, giáo dục pháp luật; tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm phổ biến, giáo dục pháp luật của các nước trên thế giới.
- Sự cần thiết xây dựng Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành
pháp luật và có vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế
XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng của công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác
này. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đề cập
đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ
công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; huy động lực lượng của các đoàn
thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin đại chúng tham gia
các đợt vận động thiết lập trật tự, kỷ cương và các hoạt động thường xuyên xây
dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong cơ quan nhà nước và trong xã
hội’’. Nghị quyết số 08–NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới chỉ rõ cần: “Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong
phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động và bằng
những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán
bộ và nhân dân”.

Hiến pháp năm 1992 giao Chính phủ nhiệm vụ: “Tổ chức và lãnh đạo công tác
tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân”. Nhiều văn bản
pháp luật của Thủ tướng Chính phủ đã đề cập đến việc tăng cường công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật như: Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong
giai đoạn hiện nay, Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành Kế hoạch
triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và
thành lập Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật… Đặc biệt,
Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân (Chỉ thị số 32CT/TW) đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công
tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

15


3.

THỰC TRẠNG HIỂU BIẾT VÀ Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA

NGƯỜI DÂN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ vũ

chính.

3.1. Khái quát về địa bàn xã vũ chính.
3.1.1. Về điều kiện địa lý, tự nhiên, dân số.
Xã vũ chính TP Thái Bình, cách trung tâm thành phố chừng 3,5 km, có vị trí
địa lý ở phía Nam thành phố,địa giới hành chính phía Đông Nam giáp xã Vũ
Ninh (huyện Kiến Xương); phía Đông giáp xã Vũ Lạc; phía Đông Bắc và phía

Bắc giáp phường Trần Lãm; phía Bắc giáp phường Kỳ Bá; phía Tây Bắc giáp
phường Quang Trung; phía Tây giáp xã Vũ Phúc; phía Nam giáp với xã Việt
Thuận và xã Vũ Hội huyện Vũ Thư.
Vũ Chính có diện tích là 558 hecta với dân số ước khoảng 12.700 người gồm
hàng chục dòng họ, trong đó đông nhất là ba họ Nguyễn Xuân (Nguyễn Ngọc),
Phan Văn, Vũ Đình. Mỗi dòng họ có trên dưới 1.000 người. Dân cư sống tập
trung ở thành 3 làng Tống Vũ (phía Đông xã gồm các thôn Tống Vũ, Tây Sơn,
Hòa Hải, Đông Hải, Tống Vũ, tổ dân phố 2, dân số ước tính trên 5.000 người),
làng Tống Văn (phía Tây xã gồm các thôn Tống Văn, Nam Hùng, Trấn Tây,
Quyến, Trung Hòa, Tiên Sơn, tổ dân phố 1, dân số ước tính 7.000 người), làng
Lạc Chính (phía Tây Bắc, đồng thời cũng là thôn Lạc Chính có khoảng 1.000
người). Tổng cộng xã có 12 thôn và 2 tổ dân phố bao gồm các thôn:
1. Tống Văn (xóm 6+7 cũ)
2. Nam Hùng (xóm 8 cũ)
3. Trấn Tây (xóm 9+10 cũ)
4. Quyến (xóm 11 cũ)
5. Trung Hòa (xóm 12 cũ)
6. Lạc Chính (xóm 13 cũ)
7. Tiên Sơn (xóm 14 cũ)
8. Tống Vũ (xóm 5 cũ)
9. Tây Sơn (xóm 4 cũ)
10.Hòa Hải (xóm 3 cũ)
11.Đông Hải (xóm 2 cũ)
12.Vũ Trường (xóm 1 cũ)
13.Tổ dân phố 1 (xóm 15 cũ)
14.Tổ dân phố 2 (gồm 1 bộ phận của xóm 1 và xóm 2 cũ.
16


Xã Vũ Chính gồm 3 làng Tống Vũ, Tống Văn, Lạc Chính. Vùng đất Vũ Chính

hình thành vào khoảng 400 năm về trước, đầu thế kỷ 17, di dân từ các nơi đã lập
lên làng Tống Vũ và làng Lạc Chính. Đến khoảng thế kỷ 19, làng Tống Vũ tách
thành Tống Vũ và Tống Văn. Thời Pháp thuộc, tại Thái Bình làng được gọi là
xã, hai xã Tống Vũ và Tống Văn thuộc tổng Hội Khê, xã Lạc Chính thuộc tổng
Lạc Đạo đều thuộc huyện Vũ Tiên, phủ Thư Trì, Đến sau cách mạng tháng 81945, xã Tống Văn và xã Lạc Chính được hợp nhất thành xã Vũ Chính. Xã
Tống Vũ và xã Lạc Đạo (tổng Lạc Đạo) được hợp thành xã Vũ Lãm. Ngày 1812-1976, xã Vũ Chính và xã Vũ Lãm được thành lập thành xã Chính Lãm, lúc
này xã Chính Lãm rộng khoảng 800ha, dân số lên đến 15 ngàn người. Ngày 504-1982, thôn Lạc Đạo xã Chính Lãm được tách ra để thành lập phường Trần
Lãm, xã Chính Lãm được đổi tên thành xã Vũ Chính. Xã Vũ Chính lúc này còn
diện tích 558ha, dân số có trên 10.000 ngườii chia làm 15 xóm từ 1-15, trong đó
làng Tống Vũ gồm 5 xóm từ 1-5, làng Lạc Chính là xóm 13, một phần nhỏ các
xóm 12, 14. Làng Tống Văn gồm gần 8 xóm.
Ngày 25-06- 1986 xã Vũ Chính được nhập về vào thị xã Thái Bình (Nay là
thành phố Thái Bình).Đến năm 2004, xã được điều chỉnh lại thành 12 thôn và 2
tổ dân phố như hiện nay.
Về giao thông, cắt ngang qua phía Tây của xã Vũ Chính (qua làng Tống Văn) là
đoạn cuối của đường Lý Bôn (ngã ba chợ Tông), tức là đường 223. Hiện trên địa
bàn xã đang triển khai xây dựng đường vành đai thành phố. Tuyến đường vành
đai qua xã dài trên 7 km sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - văn
hóa địa phương. Bên cạnh đó, xã Vũ Chính có hệ thống đường giao thông liên
xã, liên thôn tương đối hiện đại đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của
nhân dân.
3.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa - xã hội
Là một đơn vị ngoại thành, xã Vũ Chính có điều kiện phát triển tương đối
toàn diện cả về nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Về nông nghiệp,
Vũ Chính là một trong những nơi đầu tiên của cả nước xây dựng được cánh
đồng 100 triệu/ha, nổi tiếng với rau màu và trồng hoa cung cấp cho thành phố
Thái Bình. Về dịch vụ - tiẻu thủ công nghiệp, xã có hàng chục cơ sở tiểu thủ
công nghiệp đan, may.... giải quyết công việc cho hàng trăm lao động. Ngoài ra,
xã có khoảng 1000 lao động đang làm việc tại các nhà máy ở thành phố Thái
Bình. Tổng thu nhập toàn xã một năm ước đạt 300 tỷ đồng, bình quân đầu người

đạt 23 triệu/người/năm.
17


Địa bàn xã hiện nay cũng nằm trong quy hoạch xây dựng nhiều cơ quan, doanh
nghiệp của tỉnh
Người dân xã Vũ Chính nổi tiếng với truyền thống thơ ca và tính tếu táo hay
đùa. Chẳng hạn về kinh nghiệm lập gia đình, người thôn Tống Văn có câu:
"Trai đô Tống Vũ, gái mềm cọi khê"
Ngụ ý chọn chồng thì lấy con trai làng Tống Vũ vì sức khỏe (làng Tống Vũ
trước đây chuyên sản xuất gạch). Lấy vợ thì phải xuống làng Cọi Khê (xã Vũ
Hội) vì con gái ở đây đảm đang, giỏi buôn bán.
Tếu táo hơn, người Vũ Chính có câu:
"Hỡi em mặc áo xanh xanh
Có về Vũ Chính quê anh thì về
Quê anh lắm ruộng nhiều nghề
Sáng trồng cải bắp, tối về trồng khoai"
Ngụ ý nói về xã Vũ Chính là địa phương chuyên trồng màu.
Một bài thơ thất truyền khác được cho là của một tác giả người Vũ Chính khi
địa phương có phong trào trồng cà vào những năm 2000
"Bà con toàn thể xã ta Đồng tâm hiệp lực giồng cà dái dê Dái dê to mập dài ghê
Năm sau ta cứ dái dê ta trồng".
3.1.3. Sự thể hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức chính
trị, đoàn thể xã hội trên địa bàn xã.
* Vai trò,nhiệm vụ,chức năng của Hội đồng nhân dân xã vũ chính.
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đồng thời là
cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương.
Hội đồng nhân dân xã quyết định các biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, an toàn xã hội tại địa phương; quyết định
các biện pháp phát triển hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế; quyết định các biện

pháp thực hiện chính sách dân tộc và tôn giáo, quyết định biện pháp bảo đảm
việc thi hành pháp luật ở địa phương, quyết định những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Hội đồng nhân dân xã trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa
phương và quản lý địa giới hành chính.
Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, vai trò của Hội đồng nhân
dân được tăng cường đổi mới nhằm đáp ứng điều kiện thực tiễn, thể hiện cụ thể
trong các hoạt động sau:
- Giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công việc do cấp trên
thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài sản công, kể cả
các quỹ do dân đóng góp; bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng
nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
18


- Các đại biểu Hội đồng nhân dân, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
trong các kỳ họp, còn được phân công tham gia các hoạt động thường xuyên,
gắn bó với dân như tham gia hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, tổ hoà giải,
các tổ chức tự quản khác của dân...
* Vai trò,nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân xã vũ chính.
Ủy ban nhân dân xã là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, là
cơ quan hành chính ở địa phương, có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước một
cách toàn diện trên địa bàn xã, tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp.
UBND xã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội hàng năm tại địa phương mình; thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh
quốc phòng, an ninh trật tự; thực hiện các chính sách về dân tộc, tôn giáo và bảo
đảm thi hành pháp luật ở địa phương.
Vai trò của Uỷ ban nhân dân xã trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn thể hiện trong các nội dung:
- Hướng dẫn việc thực hiện, chương trình, kế hoạch, đề án khuyến khích phát

triển nông, lâm, ngư nghiệp theo quy định của cấp trên. Tổ chức thực hiện các
biện pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển sản xuất, hướng
dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng, vật nuôi trong sản xuất theo
quy hoạch, kế hoạch chung.
- Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ công chức xã và thực hiện chế độ bổ nhiệm
có thời hạn. Tiếp tục đổi mới cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho người
dân, đẩy mạnh phân cấp và tạo điều kiện cho chính quyền cấp xã hoạt động có
hiệu quả.
Thời cơ và thách thức trên đặt ra vấn đề phải giải quyết đồng bộ có hiệu quả các
vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, củng cố phát triển hệ thống chính
trị ở nông thôn tạo cơ sở để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta cơ bản thành một nước công
nghiệp vào năm 2020.
* Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã.
Ủy ban Mặt trận tổ quốc xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống chính
trị ở cơ sở, có vai trò đoàn kết nhân dân, chăm lo lợi ích của các thành viên, thực
hiện dân chủ và đổi mới xã hội, thực thi quyền và nghĩa vụ của công dân, thắt
chặt mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Với những yêu cầu, nhiệm vụ của quá trình CNH, HĐH, ý thức được vai trò của
mình, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã có những nội dung hoạt động phù hợp,
phát động được những phong trào tích cực sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây
dựng nông thôn. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã có vai trò quan trọng trong việc
phối hợp với các tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở tham gia tích cực thực hiện
19


các nhiệm vụ về phát triển nông nghiệp, nông thôn; giải quyết những vấn đề cụ
thể để phát triển kinh tế - xã hội như chuyển đổi cơ cấu kinh tế, vấn đề vay vốn,
giống và áp dụng khoa học, kỹ thuật, bảo vệ môi trường, tiêu thụ sản phẩm; tiếp
tục đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân

cư” đáp ứng với những yêu cầu mới của thực tiễn.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với chính quyền cải tiến nội dung và
quy trình tiếp dân, xử lý đơn, thư khiếu nại, tố cáo và bước đầu phối hợp với
chính quyền triển khai xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ tại địa phương
nhằm thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của dân, góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
* Hội Nông dân.
Hội Nông dân xã là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi của giai cấp nông dân,
Hội Nông dân đã phối hợp với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tín chấp cho nông dân vay vốn phát triển kinh tế; vận động nông dân đoàn kết,
tương trợ giúp nhau sản xuất kinh doanh; tham gia phong trào thi đua xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn và đã đạt được kết quả to lớn. Hội Nông dân ở xã đã
tích cực phối hợp cùng với các cấp chính quyền, các ngành chức năng phổ biến
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tham gia
thực hiện hiệp thương dân chủ, giới thiệu nhân sự ứng cử vào Hội đồng nhân
dân ở xã. Ngoài ra, Hội nông dân ở xã còn đóng vai trò quan trọng trong công
tác hoà giải ở cơ sở.
* Hội Phụ nữ.
Hội Liên hiệp Phụ nữ xã là tổ chức với mục đích hoạt động vì sự bình đẳng và
phát triển của phụ nữ, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của phụ nữ. Trong quá trình CNH. HĐH nông nghiệp, nông thôn, Ban chấp
hành - Chi hội phụ nữ ở xã đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn các tổ
chức, địa phương thực hiện Luật bình đẳng giới, lồng ghép các yêu cầu bình
đẳng giới trong mọi kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; tăng cường sự tham gia
và hưởng lợi của phụ nữ trong quá trình bàn bạc, quyết định, thực hiện và giám
sát các kế hoạch phát triển cộng đồng, địa phương.
Bên cạnh đó, vai trò của Ban chấp hành - Chi hội phụ nữ ở xã còn thể hiện trong
việc vận động và phát huy các quan hệ truyền thống xây dựng cộng đồng nông
thôn đoàn kết, gắn bó. Tăng cường và phát huy các mối quan hệ, mối liên kết

mang tính gia đình, dòng họ, làng xã vốn có truyền thống lâu đời.
* Hội Cựu chiến binh.
Hội Cựu chiến binh ở xã có chức năng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền lợi chính đáng của cựu chiến binh ở địa phương. Hội có vai trò tham mưu
giúp cấp ủy Đảng và là lực lượng nòng cốt tập hợp, đoàn kết, vận động cựu
20


chiến binh thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội của cách mạng, của Hội;
tham gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ
viên chức nhà nước ở địa phương. Hội có các nhiệm vụ: tập hợp, đoàn kết, bồi
dưỡng, động viên cựu chiến binh; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính
quyền, chế độ, thực hiện Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã. tổ chức chăm lo và
giúp đỡ nhau nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi ích chính
đáng và hợp pháp của cựu chiến binh; góp phần giáo dục thế hệ trẻ; tham gia
hoạt động đối ngoại nhân dân.
3.1.4. Các vấn đề xã hội và tình hình thực hiện chính sách xã hội, an sinh xã
hội trên địa bàn xã.
- Trên địa bàn xã vũ chính tệ nạn xã hội diễn biến cũng hết
sức tinh vi và phức tạp, thông qua nhiều phương thức hoạt động khác nhau
mà các cấp, các ngành chức năng khó có thể kiểm soát được.
Hiện nay xã vũ chính đang bước vào quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, do vậy mà xã đang đứng
trước những khó khăn và thách thức lớn đó là sự phát triển cao của nền
kinh tế- xã hội đang đạt đến những đỉnh cao mới của văn minh, tệ nạn xã
hội lẽ ra phải ngày càng giảm nhưng trái lại nó vẫn phát triển và biểu hiện
dưới những hình thức đa dạng hơn, khác lạ hơn, khó trị hơn. Từ những
biểu hiện lẻ tẻ, rời rạc, các tệ nạn xã hội trở nên có tổ chức hơn như tệ nạn
ma tuý, mại dâm, cờ bạc…xảy ra liên tiếp làm ảnh hưởng rất lớn đến
đời sống, tâm lý và đe dọa sự sống của người dân ở trong địa phương và xã hội.

Thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên nhiều năm qua Đảng
bộ và Chính quyền xã vũ chính đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt
chẽ, đề ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn ngừa, đấu tranh ngăn
chặn chúng với mục đích đem lại cuộc sống hòa bình ấm no cho nhân dân.
- Tại xã vũ chính, vấn đề xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa
bàn xã luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, cấp thiết. Những năm qua, xã
đã chỉ đạo thực hiện tập trung, thống nhất các chương trình, dự án có liên quan
đến mục tiêu giảm nghèo nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội hỗ trợ
giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội có hiệu quả nhất. Đặc biệt là ưu tiên nguồn
lực đối tượng khó khăn nhất. Thực hiện xây dựng nông thôn mới để mọi người
dân thực sự được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Bởi vậy, công tác giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn
xã đã đạt được những kết quả tích cực. Nhiều hộ vượt qua ngưỡng đói nghèo,
một số hộ vươn lên khá giả Năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn là 11,16%, hộ
cận nghèo là 6,83%; năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn xã giảm xuống còn
6,42%, hộ cận nghèo là 6,37%. Đến cuối năm 2014, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn
xã giảm xuống còn 5,3% đến cuối năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo ước còn khoảng
21


4,7% theo chuẩn nghèo hiện tại. Bình quân giai đoạn 2011 - 2015, mỗi năm
giảm được gần 1,3%. Đặc biệt, trong giai đoạn qua đã giảm khoảng cách chênh
lệch hộ nghèo ở các các khu vực,thôn xóm.
Bên cạnh thành quả đạt được, kết quả giảm nghèo của xã vẫn chưa thật sự vững
chắc, vẫn còn xảy ra tình trạng tái nghèo. Công tác dạy nghề chưa thực sự gắn
với nhu cầu của thị trường; cho vay tín dụng ưu đãi chưa gắn với hỗ trợ và
hướng dẫn về sản xuất, khuyến nông một cách hiệu quả.người dân ở một số nơi
vẫn khó tiếp cận với dịch vụ y tế do chi phí khám chữa bệnh cao, đi lại khó
khăn, chất lượng khám chữa bệnh còn thấp…
3.2. Thực trạng hiểu biết, ý thức pháp luật của người dân và công tác

giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa
bàn xã .
Trong những năm gần đây ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân
dân từng bước được nâng lên, đồng bào đã có nhiều chuyển biến về mặt nhận
thức, ý thức được vai trò pháp luật đối với cuộc sống của mình. Công tác truyền
thông pháp luật kết hợp với nhiều cơ quan ban ngành khác đã triển khai một
cách nghiêm túc các kế hoạch, hình thức truyền thông phong phú chuyển tải kịp
thời các văn bản pháp luật đến với nhân dân đi vào cuộc sống để nhân dân cảnh
giác tránh xa tội lỗi.
Do một số bộ phận người dân còn khó khăn,mải lao động kiếm sống dẫn đến
không hiểu biết pháp luật là không thể tránh khỏi.. Mặc dù mấy năm gần đây đời
sống kinh tế có phần được cải thiện,song tỷ lệ đói nghèo vẫn còn cao, bên cạnh
đó tệ nạn xã hội như Ma tuý, mại dâm, cờ bạc, mê tín dị đoan và các vi phạm
pháp luật về hôn nhân gia đình, tranh chấp đất đai, vi phạm pháp luật giao thông
chưa giảm. Điều đáng báo động là tình trạng trẻ em chưa thành niên phạm tội
ngày càng nhiều, đặc biệt là các tệ nạn như mại dâm, vi phạm các quy định về
an toàn giao thông, cố ý gây thương tích … Có những đối tượng mặc dù nhận
thức được khá đầy đủ về sự nguy hiểm của hành vi của mình nhưng do hoàn
cảnh khó khăn, bị kích động, xuí giục nên vẫn phạm tội.
Bên cạnh đó việc truyền thông pháp luật lại còn có nhiều hạn chế do kinh
phí còn hạn hẹp, cán bộ còn thiếu, công tác chưa thực sự hiệu quả, ngay cả
những đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý có quy mô lớn, có kế hoạch từ trung ương
và có kinh phí hoạt động nhưng việc tổ chức cũng còn nhiều hạn chế dẫn đến
việc thông tin chuyển tải đến người dân quá chậm và không đạt hiệu quả. Tình
hình trên đây đòi hỏi ngành tư pháp cũng như những cơ quan hữu quan khác
phải nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, có cơ sở khoa học về thực trạng
22


phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp, có sự phối hợp đồng bộ giữa các

ngành, các cấp trong công tác này để đạt hiệu quả cao.
3.2.1. Những kết quả đạt được về công tác giáo dục, truyền thông
nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã.
Công tác truyền thông, phổ biến và giáo dục pháp luật tác động vào ý thức
đối tượng cần được phổ biến và giáo dục, nhằm nâng cao nhận thức, tác động
trực tiếp đến ý thức của đối tượng thông qua nhiều hình thức, biện pháp khác
nhau. Đó là, tạo ra sự quan tâm đối với pháp luật của người dân, từ chỗ không
để ý đến sự tồn tại của pháp luật, đối tượng được phổ biến, giáo dục bắt đầu
dành sự quan tâm của mình đối với pháp luật, đồng thời nâng cao sự hiểu biết về
pháp luật Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật để quản lý xã hội và cũng qua
các quy định của pháp luật người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật giúp cho đối tượng nhận thức được những
giá trị của pháp luật và biết sử dụng như một phương tiện hữu hiệu vào cuộc
sống hàng ngày, tạo được niềm tin của họ vào pháp luật. Từ đó có ý thức pháp
luật, văn hoá pháp luật và đạo đức, có ý thức phê phán, lên án những hành vi ,vi
phạm pháp luật. Khi đã có niềm tin, đối tượng sẽ biết tự điều chỉnh hành vi của
mình theo đúng các quy định của pháp luật, không những thế họ còn có ý thức
tuyên truyền niềm tin pháp luật cho một bộ phận đối tượng khác rộng hơn.
Giáo dục pháp luật còn là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai và thực hiện
pháp luật. Sự khẳng định vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, gắn với
quá trình không ngừng nâng cao ý thức và tính tích cực tham gia của mọi tầng
lớp nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật.
3.2.2. Những hạn chế về về công tác giáo dục, truyền thông nâng cao ý
thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã.
ý thức học tập, nghiên cứu pháp luật trong cán bộ đảng viên và quần
chúng còn thấp. Đồng thời hình thức, phương pháp tiến hành truyền thông, phổ
biến giáo dục pháp luật chưa cụ thể rõ ràng, còn lúng túng hạn chế về chiều rộng
và cả chiều sâu đến việc thiếu thu hút người nghe. Trình độ người dân còn hạn
chế, chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác truyền

thông, phổ biến giáo dục pháp luật. Chưa xây dựng được chương trình, kế
hoạch, biện pháp truyền thông, phổ biến giáo dục cho phù hợp. Cán bộ, báo cáo
viên của địa phương còn kiêm nhiệm công tác khác nên ít thời gian nghiên cứu
các văn bản pháp luật và đổi mới biện pháp thực hiện, dẫn đến hiệu quả tuyên
23


truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa cao . Công tác truyền thông thiếu
thường xuyên, không mang tính cập nhật, chỉ làm qua một lần, nội dung ít nhắc
đi nhắc lại nên việc nhận thức về chính sách pháp luật trong quần chúng nhân
dân dẫn đến hạn chế .Vì thế công tác truyền thông phổ biến giáo dục pháp luật
chưa mang lại hiệu quả cao. Các hình thức tổ chức và biện pháp truyền thông
phổ biến pháp luật đến các đối tượng còn nhiều bất cập về hình thức, nội dung,
phương pháp và thời gian, địa điểm truyền thông .
3.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác giáo dục, truyền thông nâng
cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã.
- yếu tố kinh tế : Yếu tố kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các điều
kiện, hoàn cảnh về kinh tế xã hội, hệ thống chính sách kinh tế, chính sách xã hội
và việc triển khai thực hiện, áp dụng chúng trong lĩnh vực xã hội. Nền kinh tế xã
hội phát triển năng động, bền vững sẽ là điều kiện thuận lợi cho hoạt động thực
hiện pháp luật, tác động tích cực tới việc nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức
pháp luật của tầng lớp xã hội. Ngược lại, nền kinh tế xã hội chậm phát triển,
kém năng động và kém hiệu quả sẽ có thể ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện
pháp luật của các chủ thể pháp luật. Yếu tố kinh tế là nền tảng của sự nhận thức
hiểu biết pháp luật và thực hiện pháp luật nên có tác động mạnh mẽ tới hoạt
động thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật.
- yếu tố tâm lý: Truyền thống trọng tình, duy tình của người dân được tạo nên từ
lối sống, từ tập tính sinh hoạt, sản xuất có từ lâu đời đã giúp cho người dân đoàn
kết tạo nên sức mạnh cộng đồng để xây dựng và bảo vệ cộng đồng trước sự khắc
nghiệt của thiên nhiên và các thế lực ngoại xâm, để tồn tại và phát triển và tạo ra

bản sắc văn hóa của dân tộc. Đây là một trong những thuận lợi tạo nên tính tự
nguyện cao của các chủ thể có liên quan trong quá trình thực hiện pháp luật. Tuy
nhiên, nó cũng chính là một yếu tố có khả năng tác động xấu đến quá trình thực
hiện pháp luật. Người ta dễ dị ứng với pháp luật, chỉ coi pháp luật là một giải
pháp không thể tránh được. Đạo đức là một loại quy phạm không thể thiếu trong
đời sống xã hội vì nó cũng là những chuẩn mực về cái thiện, cái ác, cái tốt, cái
xấu, về lương tâm, trách nhiệm hay bổn phận con người.
- yếu tố văn hóa- đời sống bao giờ cũng thuộc về một môi trường văn hóa- xã
hội nhất định gắn liền với một phạm vi không gian- xã hội nhất định, nơi các cá
nhân và cộng đồng người tổ chức các hoạt động sống, lao động, sinh hoạt, cùng
nhau tạo dựng, thừa nhân và chia sẻ các giá trị văn hóa, lối sống phong tục tập
quán, lễ nghi… Với những mặt, những khía cạnh biểu hiện của mình, cá yếu tố
24


văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thực hiện pháp luật
- Cùng với trình độ pháp luật, ý thức pháp luật của các chủ thể trong quan hệ
pháp luật là yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật
trên thực tế. Trong mối quan hệ giữa pháp luật và ý thức pháp luật thì ý thức
pháp luật là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hộivà ý
thức pháp luật là cơ sở bảo đảm cho việc áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp
luật.
3.2.4. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, truyền
thông nâng cao ý thức pháp luật của người dân trên địa bàn xã .
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm
pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật
của một bộ phận nhân dân còn hết sức hạn chế. Trong thời gian qua, việc truyền
thông pháp luật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các phương
tiện khác đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng
cao trình độ, ý thức pháp luật cho nhân dân thì những kết quả đó vẫn chưa tương

xứng. Chính vì vậy, việc nâng cao trình độ pháp luật cho nhân dân trong địa bàn
xã theo yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật hiện nay là vấn đề cấp thiết.Để
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân trong thời gian tới cần đề ra
một số giải pháp sau đây:
a/. Nâng cao năng lực hoạt động phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật các cấp:
- Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy Đảng, chính quyền đối với hoạt
động của Hội đồng, đặc biệt là giao nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trong từng năm
và cung cấp kinh phí đầy đủ, đảm bảo cho Hội đồng triển khai và hoàn thành
nhiệm vụ của mình.
- Số lượng các văn bản do trung ương và địa phương ban hành quá nhiều, do vậy
Hội đồng các cấp cần phải căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương tổ chức
hoạt động thường xuyên để chuyển tải kịp thời các văn bản đến với nhân dân.
Việc xây dựng tổ chuyên viên có đầy đủ năng lực về pháp luật để tham mưu cho
Hội đồng và trực tiếp triển khai các nhiệm vụ truyền thông, phổ biến đặt ra là
hết sức cần thiết.
b/. Tổ chức điều tra, khảo sát để biết được tình hình trong thực tế về trình độ
hiểu biết pháp luật của nhân dân:
Sự hiểu biết pháp luật của mỗi cá nhân khác nhau, sự hiểu biết đó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: nghề nghiệp, khu vực sống, trình độ văn hóa, giới tính... Vì
vậy, khảo sát, điều tra thực trạng trình độ hiểu biết pháp luật căn cứ vào các yếu
tố như vậy mới có thể xác định được nhu cầu cụ thể của từng nhóm đối tượng,
25


×