Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Giá trị , vai trò của vật chất ý thức trong đời sống và trong việc rèn luyện sinh viên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.7 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................................1
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU...............................................................................................................................2
PHẦN II: NỘI DUNG......................................................................................................................................3
I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC................................................................3
1.Vật chất.....................................................................................................................................................3
1a) Định nghĩa vật chất................................................................................................................................3
1b) Các đặc trưng của vật chất....................................................................................................................3
2. Ý thức.......................................................................................................................................................4
2a) Kết cấu ý thức........................................................................................................................................4
2b) Nguồn gốc ý thức...................................................................................................................................5
2c) Bản chất ý thức......................................................................................................................................5
3.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.........................................................................................................6
II.VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI VIỆC HỌC VÀ HÀNH CỦA SINH VIÊN HIỆN
NAY..............................................................................................................................................................7
1.Những mặt tích cực..................................................................................................................................7
2.Mặt hạn chế..............................................................................................................................................7
3. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới nền giáo dục đại học....................................................................9
III.GIẢI PHÁP..............................................................................................................................................10
1.Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay..................................................................10
2.Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học Trong thời đại cách mạng công nghệ.......................................12
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................................15

1


PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU

Những thành tựu trong công cuộc đổi mới trong thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực
mới để nước ta bước vào một thời kì phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc công nghiệp


hoá và hiện đại hoá đãđược tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng
được mở rộng .Khả năng giữ vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng
thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy
quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội. Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên
do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc về các nước phát triển khiến cho các nuớc chậm phát
triển đứng trước một thách thức to lớn. Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao ,mà điểm xuất phát của
nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ môi trường cạnh tranh quyết liệt . Trước tình hình đó ,cũng
với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước,trong đóđ ổi mới kinh tế đóng vai trò then chốt, giữ vai trò chủ
đạo.Đồng thời đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách,bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị có mối quan hệ giữa vật chất và ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng vào mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị ,giúp cho công cuộc đổi mới của đất nước ngày càng giàu mạnh . Với ý nghĩa
đó, em đã chọn đề tài " Giá trị , vai trò của vật chất ý thức trong đời sống và trong việc rèn luyện
sinh viên hiện nay”

2


PHẦN II: NỘI DUNG
I.LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.Vật chất
1a) Định nghĩa vật chất
- “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”
- Lênin chỉ rõ rằng, để định nghĩa vật chất không thể theo cách thông thường vì khái niệm vật
chất là khái niệm rộng nhất. Để định nghĩa vật chất Lênin đã đối lập vật chất với ý thức hiểu vật
chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác ,vật chất tồn tại độc lập
với cảm giác,ý thức, còn cảm giác,ý thức phụ thuộc vào vật chất, phản ánh khách quan.
1b) Các đặc trưng của vật chất

-Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu của vật chất . Theo quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng ,vận động là sự biến đổi nói chung chứ không phải là sự
chuyển dịch trong không gian .Ăngghen cho rằng, vận động là một phương thức tồn tại vật
chất,là thuộc tính cố hữu của vật chất, gồm tất cả mọi sự thay đổi trong mọi quá trình diễn ra
trong vũ trụ.Vận động có 5 hình thức vận động chính là Cơ -Hoá- Lý -Sinh-xã hội. Các hình thức
vận động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ,một hình thức vận động này thực hiện là tác
động qua lại với những hình học thức vận động khác ,trong đó vận động cao bao gồm vận thấp
nhưng không thể coi hình thưc vận cao là tổng sốđơn giản các hình thức vận động thấp. Thế giới
khách quan bao giờ cũng tồn tại không ngừng không thể có vật chất không vận động ,tức vật chất
tồn tại .Vật chất thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình .Ăngghen nhận định rằng
các hình thức và các dạng khác nhau của vật chất ,chỉ có thể nhận thức được thông qua vận động
mới có thể thấy được thuộc tính của nó .Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô
trong hệ thống hành tinh khổng lồ. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể thống nhất có
kết cấu xác định gồm những bộ phận nhân tố khác nhau ,cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn
nhau gây ra nhiều biến đổi .
- Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong ,vận động vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất ,không thể có vận động bên ngoài vật chất .Nó không
3


do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được do đó nó dược bảo toàn cả số lượng lẫn chất
lượng.Khoa học đã chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nào dó của sự vật mất đi thì tất
yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế .Các hình thức vận động chuyển hoá lẫn
nhau còn vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại. Mặc dù vận động luôn ở trong quá trình
không ngừng ,nhưng điều đó không loại trừ mà còn bao hàm cả hiện tượng đứng im tương đối
,không có nó thì không có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật ,hiện tượng phong phú
vàđa dạng .Ăngghen khẳng định rằng khả năng đứng im tượng đối của các vật thể ,khả năng cân
bằng tạm thời là những điều kiện chủ yế u của sự phân hoá vật chất. Nếu vận động là biến đổi
của các sự vật hiệ n tượng thìđứng im là sựổn định ,là sự bảo toàn tính quy định sự vật hiệ n
tượng .Đứng im chỉ một trạng thái vận động ,vận động trong thăng bằng ,trong sựổn định tương

đối .Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình vận động trong phạ m vi sự vật
ổn định ,chưa biến đổi ,chỉ là tạm thời vì nó chỉ xẩy ra trong một thời gian nhất định.
2. Ý thức
2a) Kết cấu ý thức
-Kết cấu của ý thức cũng như vật chất có rất nhiều quan niệm vềý thưc theo các trường phái khác
nhau . Theo quan điểm của CNDVBC khẳng định rằng: Ý thức là đặc tính và là sản phẩm của
vật chất , là sự phản ánh khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động và ngôn ngữ .Mác
nhấn mạnh rằng tinh thần ý thức là chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào bộ óc con
người và được cải biến trong đó .Ý thức là một hiện tượng tâm lý xã hội có kết cấu phức tạp gồm
ý thức tri thức ,tình cảm ,ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất ,là phương thức tồn tại của ý
thức,vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận
thức và cải biến giới tự nhiên.Tri thức càng được tích luỹ con người càng đi sâu vào bản chất của
sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn ,tính năng động của ý thức nhờ đó mà tăng hơn .Việc
nhấn mạnh tri thức là yếu tố cơ bản quan trọng cóý nghĩa chống quan điểm đơn giản coi ý thức là
tình cảm,niềm tin…Quan điểm đó chính là bệnh chủ quan duy ý chí của niềm tin mù quáng.Tuy
nhiên, việc nhấn mạnh yếu tố tri thức cũng không đồng nghĩa với việc phủ nhận coi nhẹ yếu tố
vai trò tình cảm ý chí. Tự ý thức cũng là một yếu tố quan trọng mà CNDT coi nó là một thực thể
độc lập có sẵn trong cá nhân ,biểu hiện xu hướng về bản thân mình ,tự khẳng định cái tôi riêng
biệt tách rời xã hội .Trái lại CNDVBC tự ý thức là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình
thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài . Khi phản ánh thế giới khách quan con người tự phân
4


biệt mình ,đối lập mình với thế giới đó là sự nhận thức mình như là một thực thể vận động , có
cảm giác , tư duy có các hành vi đạo đức và vị trí xã hội .Mặt khác sự giao tiếp xã hội và hoạt
động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh theo các quy tắc
tiêu chuẩn mà xã hội đề ra .Ngoài ra văn hoá cũng đóng vai trò cái gương soi giúp cho con người
tựý thức bản thân
2b) Nguồn gốc ý thức
-Nguồn gốc tự nhiên :Ý thức ra đời là kết quả của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên cho tới

khi xuất hiện con người và bộóc .Khoa học chứng minh rằng thế giới vật chất nói chung và trái
đất nói riêng đã từng tồn tại rất lâu trước khi xuất hiện con người ,rằng hoạt động ý thức của con
người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý thần kinh bộ não người .Không thể tách rời ý thức ra
khỏi bộ não vì ý thức là chức năng bộ não ,bộ não là khí quản của ý thức .Sự phụ thuộc ý thức
vào hoạt động bộ não thể hiện khi bộ não bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ bị rối loạn .Tuy
nhiên không thể quy một cách đơn giản ý thức về quá trình sinh lý bởi vì óc chỉ là cơ quan phản
ánh .Sự xuất hiện của ý thức gắn liền sự phát triển đặc tính phản ánh ,nó phát triển cùng với sự
phát triển của tự nhiên .Sự xuất hiện của xã hộ loài người đưa lại hình thức cao nhất của sự phản
ánh ,đó là sự phản ánh ý thức luôn gắn liền với việc làm cho tự nhiên thích nghi với nhu cầu phát
triển của xã hội.
- Nguồn gốc xã hội : Sự ra đời của ý thức gắn liền hình thành với sự phát triển của bộ óc con
người dưới ảnh hưởng của lao động và giao tiếp QHXH. Lao động của con người là nguồn gốc
vật chất có tính xã hội nhằm cải tạo tự nhiên ,thoả mãn nhu cầu và phục vụ mục đích bản thân
con người. Nhờ nó mà con người và xã hội loài người mới hình thành và phát triển. Lao động là
phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người ,đồng thời ngay từ đầu đã liên kết con người
với nhau trong mối quan hệ khách quan, tất yếu; mối quan hệ này đến lượt nó nảy sinh nhu cầu
trao đổi kinh nghiệm và tổ chức lao động ,nhu cầu"cần phải nói với nhau một cái gì". Và kết quả
là ngôn ngữ ra đời
2c) Bản chất ý thức.
-Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức ,có thể thấy rõý thức có bản tính phản ánh ,sáng tạo và
bản tính xã hội . Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài ,là biểu thị nội dung
được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính của nó quy đinh
mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy kháh quan làm tiền đề ,bị nó quy định nội dung phản
5


ánh là thế giới khách quan. Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động ,trong hoạt động sáng
tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người vàđã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt
động đó .Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động nguyên xi
mà gắn liền với cải biến, quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin .Tính

sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp khái quát thế giới khách quan ở quá trình
chủ động ,tác động vào thế giới đó. Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhaukhông thể
tách rời, không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở của
sáng tạo. Đó là MQHBC giữa thu nhận xử lý thông tin, là sự thống nhất mặt khách quan chủ
quan của ý thức. Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động, hoạt động cải tạo thế giới của con
người. Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. Ý thức trước hết là
thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan về
mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội .Do đó ,ý thức xã hội hình thành và bị chi
phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó …ý thức của mỗi cá nhân mang trong
lòng nó ý thức xã hội . Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh trong
sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức ,ở quan hệ giữa nhân
tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người
3.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Lênin đã chỉ ra rằng,sự đối lập giữa vật chất vàý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt đối trong phạm vi
hạn chế: trong trường hợp này chỉ giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái
gì là cái có trước ,cái gì là cái có sau . Ngoài giới hạn đó thì không còn nghi ngờ gì nữa rằng sự
đối lập đó chỉ là tương đối .Như vậy để phân ranh giới giữa CNDV và CNDT , để xác định bản
tính và sự thống nhất của thế giới cần có sự đối lập tuyệt đối giữa vật chất và ý thức trong khi trả
lời cái nào có trước cái nào quyết định. Không như vậy sẽ lẫn lộn 2 đường lối cơ bản trong triết
học ,lẫn giữa vật chất và ý thức và cuối cùng sẽ xa rời quan điểm duy vật .Song sự đối lập giữa
vật chất và ý thức chỉ là sự tương đối như là những nhân tố ,những mặt không thể thiếu được
trong hoạt động của con người ,đặc biệt là hoạt động thực tiễn con người ,ý thức có thức có thể
cải biến được tự nhiên, thâm nhập vào sự vật, không có khả năng tự biến thành hiện thực, nhưng
thông qua hoạt động thực tiễn của con người,ý thức có thể cải tiến được ,thâm nhập vào sự vật
,hiện thực hoá những mục đích mà nó đề ra cho hoạt động của mình. Điều này bắt nguồn từ
chính ngay bản tính phản ánh sáng tạo và xã hội của ý thức và chính nhờ bản tính đó mà chỉ có
con người có ý thức mới có khả năng cải biến và thống trị tự nhiên , bắt nó phục vụ con người.
6



Như vậy tính tương đối trong sự đối lập giữa vật chất vàý thức thể hiện ở tính độc lập tương đối,
tính năng động của ý thức. Mặt khác , đời sống con người là sự thống nhất không thể tách rời
giữa đời sống vật chất và đời sôngs tinh thần trong đó những nhu cầu tinh thần ngày càng phong
phú vàđa dạng và những nhu cầu vật chất cũng bị tinh thần hoá. Khẳng định tính tương đối của
sự đối lập giữa vật chất và ý thức không có nghĩa là khẳng định cả hai yếu tố có vai trò như nhau
trong đời sống và hoạt động của con người .
II.VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VỚI VIỆC HỌC VÀ
HÀNH CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
1.Những mặt tích cực
-Người Việt ta cũng có tiếng là thông minh, hiếu học. Nền giáo dục Việt Nam ta mặc dù gặp
nhiều khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất trước, trong và sau chiến tranh, đãđạt được nhiều
thành tựu đáng tự hào. Ta đãđào tạo được một đội ngũ nghiên cứu khoa học khá và cống hiế n
quan trọng cho cộng đồng khoa học quốc tế có thể nói sinh viên Việt Nam khá thông minh, sáng
tạo, có khả năng tiếp nhận tri thức khá tốt.
2.Mặt hạn chế
- Sinh viên ta mắc "bệnh" thụ động trong học tập, sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phụ
lục cho chuyên môn của mình, mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên
lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảo.
Phần lớn sinh viên Việt Nam thiếu khả năng sáng tạo. Một kết quả nghiên cứu gần đây về tính
sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn của Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra
khá lớn gồm hàng ngà n sinh viên, chí có khoảng 20% sinh viên đặt hoặc vượt mức sáng tạo
trung bình của tụ giới. Như vậy có tới 80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức trung bình.
Đây là một thông tin sét đánh, buộc các nhà giáo dục học phải nghiêm túc xem lại phương pháp,
chương trình, cách tổ chức dạy và học trong các trường đại học của Việt Nam. "Lười đọc…." là
lời tự thú của nhiều sinh viên thời hiện đại. Khảo sát ngẫu nhiên một số sinh viên các trường đại
học, cao đẳng về việc đọc sách báo của họ, số đông đều ngắc ngứ rằng "có đọc" nhưng chỉ đọc
một số cuốn theo phong trào và chỉ xem sách chuyên ngành khi bị thúc bách về mặt bài vở, có
sinh viên sắp ra trường vẫn chưa một lần ghé thăm thư viện. Một số đông sinh viên ít đọc có
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nhưng nói chung họ rất thụ động trong việc học. Thụ
động bởi sinh viên chỉ đọc giảng viên yêu cầu thuyết trình một đề tài, viết một bài tiểu luận hoặc

7


khi được khuyến khích bởi một người khác về một cuốn sách hay nào đó, tức chỉ khi bị áp chế
hoặc được truyền cho niềm tin thì họ mới đổ xô đi đọc. Có quá nhiều sinh viên vừa học, vừa chơi
và cũng có quả nhiều sinh viên quên mọi thứ trên đời để học. Cả hai kiểu học như thể đều mang
lại những kết quả tiêu cực khác nhau. Một bên là sự hụt hẫng về kiến thức, thường xuyên đối mặt
với nguy cơ bị đuổi học còn bên kia lại là sự mệt mỏi, căng thẳng, những lo âu chồng chất trong
những năm học đại học khiến sức khỏe bị suy sụp, lạc lõng với những diễn tiến xung quanh xã
hội, lạ lẫm với những điều đang tác động đến cuộc sống hàng ngày…. Theo báo Tuổi trẻ ngày
3/10/2000 đã mời các thầy giáo đại học, các nhà quản lý, các sinh viên dự tọa đàm về "nâng cao
chất lượng đào tạo đại hạ" và đã có nhiều ý kiến của sinh viên thẳng thắn bức xúc: sinh viên
chúng tôi như những cố máy rỉ sét, chúng tôi vào lớp chép chính tả và sau đó trả bài thuộc lòng,
lắp ghép các kiến thức rời rạc. Học đối phó và thi đối phó để lấy cho được mảnh bằng, thể thôi
việc học với sinh viên là học, ghi, thì phải thuộc. Đa phần sinh viên mới chỉ học theo kiểu "học
vẹt" thiếu tính thực tiễn. Nhìn vào hiện trạng của các "sản phẩm" của nền giáo dục cao đẳng-đại
học hiện nay có thể thấy rằng, hình như xã hội "không mê" các sản phẩm này. Sở dĩ có thể nói
như vậy bởi vì qua một cuộc thống kê nho nhỏ về trình độ của những người tìm việc làm ởmột tờ
báo thành phố Hồ Chí Minh trong 3/2003 thấy được những con số quá giật mình về trình độ học
vấn của những ứng viên tìm việc. Cụ thể là trong tổng 115 ứng viên tìm việc, cóđến 62 người có
trình độĐại học tức chiếm 54%; có 24 người trình độ cao đẳng, tức 21% và số người có trình độ
trung cấp là 29 người chiếm 25%. Thế nhưng những con sốđó muốn nói với chúng ta điều gì?
Đó là sản phẩm của nền giáo dục "khoa cử". Tại sao có nhiều người có trình độ Đại học - Cao
đẳng phải đi tìm việc như thế: Theo lẽ thường tình người ta hay nghĩ rằng, có học vấn càng cao
càng có nhiều cơ hội có việc làm, thế nhưng nay câu chuyện hoàn toàn ngược lại: học vấn càng
cao càng phải đi tìm việc nhiều, càng thất nghiệp. Tại sao vậy? Có nhiều lý do nhưng có một lý
do đó là chất lượng của các lao động có trình độ đại học chưa đáp ứng được các nhu cầu của nền
sản xuất kinh tế công nghiệp tiên tiến. Hiện nay, bởi họ chỉ là sản phẩm của nền giáo dục "khoa
cử rất mạnh về học để thi nhưng kém về "học để làm" và "học để sáng tạo". Do đó mà từ lâu các
"sản phẩm" của nền giáo dục đại học của ta đã thường xuyên bị kêu ca là không đáp ứng được

yêu cầu của thực tiễn. Xét về trình độ thực tế của sinh viên tốt nghiệp thì quả là còn yếu kém,
một số ngành rất yếu. Về kiến thức, kỹ năng thực hành, tính chủ động sáng tạo, về khả năng diễn
đạt bằng nói hay viết sinh viên ta đều kém, tuy cá biệt có những người rất xuất sắc, nhưng số này
không nhiều cũng chẳng có gì lạ, vì nhiều nơi coi đại học là "học đại".
8


3. Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới nền giáo dục đại học
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định yêu cầu mới của nền giáo dục là:
chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người đều phải thực hiện
việc học tập suốt đời.
-Mấu chốt trong đổi mới sự nghiệp giáo dục Việt Nam mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
của Đảng khẳng định là "chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở - mô
hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,
ngành học, xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập,
thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo nhiều khả năng, cơ hội khác
nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục. Đây là cách đặt vấn đề giáo
dục với yêu cầu mới: chuyển từ chủ trương giáo dục cho mọi người sang chủ trương mọi người
đều phải thực hiện việc học tập suốt đời. Cách đặt vấn đề trên căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh
về sự học đồng thời căn cứ vào yêu cầu đổi mới giáo dục của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại. Đến thăm lớp nghiên cứu chính trị khóa I trường đại học nhân dân Việt Nam, chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: "Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời”. Suốt đời phải gắn liền lý luận
với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi biết hết rồi. Thế giới ngày ngày
đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân
dân. Khái niệm học tập suốt đời phải được hiểu khác trước thì nó mới có tác dụng như một chiếc
chìa khóa để giải quyết những vấn đề đặt ra trong những năm đầu của thế kỉ 21 như tăng trường
kinh tế nhanh, phát triển xã hội bền vững, xóa nghèo toàn diện, nghèo về tri thức, nhân văn, thu
nhập. Mô hình giáo dục mở trong văn kiện đại hội X của Đảng chính là mô hình gắn kết giáo dục
ban đầu và giáo dục liên tục thành một hệ thống trong đó tại bất cứ thời điểm nào và bất cứ
không gian nào, mỗi thành viên trong xã hội không phân biệt tuổi tác, giới tính, thành phần xã

hội, nghề nghiệp và địa vị xã hội đều có thể tiến hành việc học tập theo nhu cầu của cá nhân như
nâng cao học vấn, hoàn thiện tay nghề, lấp những lỗ hổng trong kiến thức quản lý, trau dồi văn
hóa lãnh đạo, tư tưởng đạo đức.
-Mô hình giáo dục lý tưởng ấy chính là mô hình xã hội học tập mà Đảng đã đề cập từ Đại hội IX
và khẳng định phải phát triển nó một cách tích cực trong những năm trước mắt. Việc thực hiện
được mô hình ấy hay không tùy thuộc rất nhiều vào việc khắc phục thái độ và quan niệm lỗi thời
hiện nay về giáo dục thường xuyên. Trong xã hội hiện đại, việc tổ chức hệ giáo dục thường
xuyên là để con người thực hiện việc học suốt đời. Giáo dục thường xuyên đáp ứng những thách
9


thức của một thế giới nhanh chóng thay đổi, nó mở ra sự đa dạng hóa hết sức rộng rãi đối với các
hình thức học tập để mọi tài năng đều được phát huy, những thất bại học đường sẽ bị hạn chế,
giúp con người có nhu cầu học, đặc biệt là thế hệ trẻ loại bỏ được cảm giác bị loại thản trong
cuộc sống xã hội và luôn nhìn thấy viễn cảnh phát triển của cá nhân mình. Để đáp ứng yêu cầu
đổi mới và phát triển hệ đại học mà Đại hội X của Đảng đã đề ra, chúng ta cần đánh giá cho
đúng vai trò của trường đại học trong thế giới hiện đại. Giáo dục đại học là một động lực mạnh
để phát triển kinh tế - một động lực mà giáo dục trung học không thể tạo ra được song cũng phải
thừa nhận rằng giáo dục đại học luôn là tiêu điểm của việc học trong xã hội. Trường đại học vừa
lưu giữ, vừa sáng tạo những tri thức, lại là một chuyển tải kinh nghiệm văn hóa và khoa học công nghệ cho các thế hệ theo học. Giáo dục thường xuyên phải gắn với cộng đồng, mục tiêu của
nó nhằm tạo nguồn nhân lực phục vụ những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của từng địa phương nên
cách tổ chức của nó thường bám chắc trong từng cộng đồng.
III.GIẢI PHÁP
1.Giải pháp nâng cao việc học và hành của sinh viên hiện nay
-Tạp chí Pháp đã viết: "Ai tự học mạnh nhất, người đó tích lũy được một tiềm năng sáng tạo dồi
dào nhất. Ngược lại, ai có nhu cầu sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý chí tự học cao
hơn"
-Tự học để tiếp cận với sáng tạo. Sinh viên phải luyện độ tìm tòi và kỹ năng ứng biến. Đó là tiêu
chí cần thiết để phân định sự thông thái của một chủ thể nhận thức đồng thời là chủ thể sáng tạo.
Trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi người được thể hiện chủ yếu bằng hành động, thay vì chỉ

dừng lại ở ý thức được thể hiện chủ yếu bằng sự đáp ứng những thử thách trong quá trình vận
dụng kiến thức thay vì chỉ quanh quẩn ở việc vun bồi kiến thức. Bởi vậy các chuyên gia
UNESCO đã có lý khi khẳng định: "người hiểu biết ít mà vận dụng nhiều (có hiệu quả) biểu hiện
một trí tuệ hơn hẳn một người biết nhiều mà vận dụng ít". Sinh viên không chỉ dừng lại ở mức
độ lĩnh hội, mà phải chuyển sang thái độ tìm tòi cách cải biến và cách ứng dụng sự lĩnh hội đó.
Đối với những người có thái độ học sáng tạo thì sự tìm tòi đó có thể là:
* Tìm hiểu nhu cầu xã hội hoặc nhu cầu khoa học đối với một sản phẩm nào đó.
* Tìm hiểu những ưu điểm vượt trội cùng với những khuyết tật lớn nhỏ của một sản phẩm.
* Tìm kiếm cách thức đi tới cải tiến sản phẩm, chủ yếu: hạn chế những khuyết tật đó.
10


* Tìm kiểm những hiểu biết mới nhất kết hợp với những kinh nghiệm cổ truyền cho việc giải
quyết vấn đề đó.
* Tìm hiểu mọi ý tưởng giản đơn cho việc phân tích và giải quyết một vấn đề phức tạp.
* Tìm hiểu những điều kiện khả thi và cách vượt lên khó khăn để thực hiện ý tưởng sáng tạo.
Như vậy thái độ tìm tòi trong khoa học và kỹ thuật tạo nên sự khai phá nhận thức khi tiếp cận
thông tin, giúp chủ thể nhận thức tự thể hiện và làm nên những cá tính sắc sảo khi vận dụng kiến
thức.
-Để sinh viên dễ dàng hơn trong việc tiếp thu kiến thức, phương pháp học thì phải đưa vào
chương trình học của sinh viên, những bài học từ thực tế. Thay đổi cách học theo kiểu trả bài, rồi
lịch học và lịch thi cứ dày đặc, đan xen lẫn nhau. Định hướng cho việc học của sinh viên là một
yêu cầu cực kỳ quan trọng, quan trọng không kém nữa là việc thiết lập một thời gian biểu hợp lý
cho sinh viên trong lúc học lẫn lúc thi. Muốn học, muốn hiểu sâu một chủ đề nào, điều quan
trọng nhất là phải tự mình chạm tới nó trước, phải tự mình khơi mở trước trong đầu, như gieo
mầm cho việc tiếp thu, thẩm thấu của mình. Bản chất của tự học là tự làm việc với chính mình
trước, nghiên cứu tài liệu, trao đổi với bạn bè theo cách học với nhóm và được thầy khởi
gợi,hướng dẫn. Có thể nói viết lại là cách tiếp thu tốt và truyền đạt lại cho người khác là một
cách hiểu nắm vấn đề tốt nhất. Điều này sinh viên trau dồi kỹ năng đọc và viết qua việc hướng
dẫn họ đọc mau, nắm vững các ý chính và viết gãy gọn, có phân tích, có chứng minh. Một trong

những vấn đề ta thường gặp ở Việt Nam là sinh viên học sinh ra trường chưa đủ khả năng sẵn
sàng để đảm nhận được các công tác, chức vụ mà đáng lẽ họ phải có khả năng ứng xử độc lập.
Vì vậy mà sinh viên phải phát triển cho mình khả năng phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề
cóóc thực tế, không định kiến, không câu nệ thành kiến. Muốn bắt kịp đà tiến của khoa học kỹ
thuật thì sinh mình cần thay đổi phương pháp học tập lấy người học làm trung tâm. Muốn được
như thế dĩ nhiên không chỉ cần có sự thay đổi tư duy của người học mà còn phải có sự thay đổi
phù hợp trong hệ thống giáo dục và đào tạo nước ta. Ngày nay công nghệ thông tin được công
nhân là một bộ phận không thể thiếu được trong giáo dục. Sinh viên tích vực tiếp cận, truy cập
Internet để có được những thông tin khoa học mới nhất hay có cơ hội trao đổi ý kiến với bạn bè
thế giới. Phải biết vận dụng những tri thức lĩnh hội được vào thực tế, không chỉ toàn là lý thuyết.
Vận dụng chúng vào sản xuất, nghiên cứu.

11


2.Kiến nghị về phát triển giáo dục đại học Trong thời đại cách mạng công nghệ
-Đại học có vai trò chỉ đạo trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới
và trong khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá yếu kém, tụt hậu còn xa hơn giáo dục phổ
thông. Trước đây ta xây dựng đại học theo mô hình Liên xô cũ, nay nền đại học đó không còn
thích hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, song những biện pháp sửa đổi, chắp vá và
thời gian qua đã phá vỡ tính hệ thống của nó, rốt cuộc tạo ra cảnh tượng lộn xộn không còn
chuẩn mực, khôn theo quy củ,tùy tiện và kém hiệu quả. Muốn thoát ra khỏi tình trạng này cần có
thời gian và một lộ trình hiện đại hóa thích hợp. Trước mắt để tạo điều kiện thuận lợi cho toàn bộ
công cuộc hiện đại hóa, nên tập trung chỉnh đốn một số khâu then chốt đang tác động tiêu cực
đến sự phát triển bình thường của đại học. Đồng thời xây dựng mới một đại học thực sự hiện đại,
làm hoa tiêu hướng dẫn và thúc đẩy sự đổi mới trong toàn ngành.
+

Trước hết cần phải cải cách mạnh mẽ việc thi cử và đánh giá, chuyể n toàn bộ việc học theo hệ


thống tín chỉ, thi kiểm tra nghiêm túc từng chặng trong suốt khoa học thay vì dồn hết vào một kì
thi tốt nghiệp nặng nề mà ít tác dụng. Về tuyển sinh đại học, cao đẳng nên bỏ kỳ thi hiện nay,
nặng nề, căng thẳng, tốn kém mà hiệu quả thấp để thay vào đó một kỳ thi nhẹ nhàng chỉ nhằm
mục đích sơ tuyển để loại những học sinh chưa đủ trình độ tối thiểu cần thiết theo học đại học.
Sau đó, việc tuyển chọn vào đại học nào do đại học ấy tự làm, chủ yếu dựa trên hồ sơ học THPT
và thẩm vấn hoặc thi nếu cần thiết.
+ Thứ hai là chấn chỉnh việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ Bằng thạc sĩ và tiến sĩ phải theo yêu cầu quốc
tế, không thể tùy tiện, đào tạo cẩu thả, chạy theo số lượng mà phải theo chất lượng, trình độ làm
tiêu chí hàng đầu. thạc sĩ và tiến sĩ là lực lượng lao động, khoa học cốt cán, nếu đào tạo dối trá,
trình độ quá thấp thì không chỉ tai hại cho giáo dục, khoa học mà còn ảnh hưởng tiê cực lâu dài
đến nhiều lĩnh vực họat động quan trọng khác, nhất là trong một xã hội còn quá chuộng bằng cấp
như chúng ta. Vì vậy cần chỉnh đốn từ gốc, rà soát lại để hạn chế chặt chẽ số vị, ngành được
phép đào tạo, đơn vị nào, ngành nào còn yếu thì kiên quyết dừng lại việc đào tạo trong nước để
gửi ra đào tạo ở nước ngoài và chuẩn bị thêm điều kiện. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, lập lại kỉ
cương, trật tự chống gian dối và cẩu thả trong việc đào tạo và cấp bằng. Đồng thời những cơ sở
đào tạo nào được phép đào tạo cần có đủ quyền chủ động từ việc tuyển nghiên cứu sinh lựa chọn
chương trình, của người hướng dẫn cho đến tổ chức phản biện bảo vệ và cấp bằng, để có thể tự
chịu trách nhiệm hoàn toàn trước xã hội về chất lượng đào tạo.

12


+ Thứ ba là chỉnh công tác chức danh GS, PGS. Đây là một trong những khâu then để đảm bảo
cho chất lượng đại học, nhưng trong một thời gian dài cho đến hiện nay, ở nước ta đã thực hiện
khá tùy tiện và còn quá nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân đóng góp vào sự trì trệ kéo
dài của Đại học chính là ở công tác này, thể hiện khá tập trung những chính sách nhân tài. Do đó
để mở đường hiện đại hóa đại học, cần sớm chấn chỉnh công tác chức danh GS, PGS, trước hết
cái tổ “Hội đồng chức danh GS” thành một hội đồng không trực tiếp công nhận các chức danh
mà chỉ xét duyệt hàng năm, định kì để công nhận những người đủ tư cách ứng xử vào các chức
danh GS, PGS ở các đại học và viện nghiên cứu. Hàng năm các Đại học và viện nghiên cứu công

bố như cần tuyển GS, PGS để bất cứ ai đã được công nhận “đủ tư cách” đều có thể dự tuyển.
+ Thứ tư là cải thiện chính sách sử dụng giảng viên đại học. Tình trạng phổ biến hiện nay ở các
Đại học là giảng viên dạy quá nhiều giờ (25-30 giờ mỗi tuần không phải là hiếm).Kể cả giờ dạy
trong trường, ngoài trường, dưới nhiều hình thức khác nhau, dạy “liên kết” ở các địa phương,
dạy tu luyện thi… do đó ngay ở các đại học lớn, cũng rất ít nghiên cứu khoa học và nhiều người
đã lâu không có thói quen cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ nhưng lại sản xuất đều đều cử
nhân, Thạc sĩ, thậm chí cả tiến sĩ. Trình độ GS, PGS của ta nói chung khá thấp so với quốc tế, cả
nước số GS đã được công nhận mới chiếm tỷ lệ 0,1% số PGS chưa tới 5%, trong toàn bộ số
giảng viên đã học. Nếu kể cả những người thực tế có năng lực nhưng chưa được công nhận GS,
PGS do cách tuyển chọn chưa hợp lý, đội ngũ giảng viên đại học vẫn còn yếu kém về trình độ và
số lượng mà tuổi tác lại khá cao đó là tình trạng không thể chấp nhận được cần có biện pháp cải
thiện nhanh.
+ Thứ năm là đổi mới các trường sư phạm và chính sách đào tạo giáo viên phổ thông. Cần
nghiên cứu lại chủ trương xây dựng những trường sư phạm trọng điểm vì theo kinh nghiệm các
nước, chỉ giáo viên mẫu giáo, tiểu học mới cần được đào tạo kỹ về nghiệp vụ sư phạm, còn giáo
viên THCS và THPT trở lên thì trước hết phải được đào tạo vững vàng về chuyên môn khoa học
rồi mới bổ túc kiến thức và kỹ năng sư phạm. Do đó, phải thay đổi cách đào tạo ở các trường sư
phạm, chú trọng nhiều hơn chuyên môn khoa học, đồng thời phải mở rộng đối tượng tuyển dụng
giáo viên phổ thông từ cá cử nhân hay thạc sĩ sau một khóa bổ túc ngắn hạn về nghiệp vụ sư
phạm. Các đại học sư phạm nên dần dần chuyển thành đại học đa ngành, trong đó có khoa sư
phạm (giáo dục) chuyên lo về nghiệp vụ giảng dạy và khoa học sư phạm.

13


+ Thứ sáu là xây dựng “mới” một đại học đa ngành hiện đại thành “hoa tiêu” cho cải cách đại
học sau này. Song song với những biện pháp cấp bách kể trên, cần bắt tay xây dựng ngay một đại
học đa ngành thật hiện đại theo chuẩn mực quốc tế và sánh kịp với các đại học tiên tiến nhất
trong khu vực, làm “hoa tiêu” cho toàn bộ công cuộc hiện đại hóa. Đại học cần xây dựng hoàn
toàn “mới” đại học này nghĩa là không phải ghép chung lại một số đại học đã sẵn có (theo kinh

nghiệm không thành công như đã làm tới nay) mà toàn bộ giảng viên và sinh viên tuyển vào đều
là “mới”. Lúc đầu không nhất thiết đủ hết mọi ngành và quy mô có thể hạn chế trong số mấy
trăm sinh viên nhưng đại học mới này phải được xây dựng theo đúng các chuẩn mực quốc tế về
mọi mặt. Cơ sở vật chất thiết bị, điều kiện ăn ở học tập của sinh viên, trình độ giảng viên.
+ Thứ bảy là tăng đầu tư cho đại học, đi đôi với chấn chỉnh việc sử dụng đầu tư, cần cải cách chế
độ lương và phụ cấp, đảm bảo cho giảng viên đại học một mức thu nhập phù hợp và năng suất
trình độ từng người để họ có thể dồn tâm lực vào nhiệm vụ chính trong giảng dạy và nghiên cứu
khoa học mà không phải lo toan, xoay xở cho đời sống quá nhiều, tạo mọi điều kiện cho họ có
thể cập nhật tri thức theo kịp khoa học công nghệ thế giới và khu vực.

KẾT LUẬN
Có thể nói trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò chủ đạo trong toàn bộ hệ
thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và khu vực, giáo dục đại học của ta còn quá
yếu kém, tụt hậu.

14


Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu hết các nước trên thế giới
đều giương cao khẩu hiệu “giáo dục là quốc sách hàng đầu và dành nhiều tâm sức để xây dựng
và phát triển giáo dục nhằm đào tạo cho xã hội lực lượng lao động có năng lực chuyên môn và
khả năng thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị trường về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn –
nghiệp vụ của thị trường.
Một nền giáo dục đại học chỉ được xem thành công khi nền giáo dục ấy đóng góp cho xã
hội những cá nhân có đầy đủ tri thức, đáp ứng được những nhu cầu về lao động trình độ cao và
nghiên cứu khoa học nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đất nước.
Vì vậy mà việc nghiên cứu quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, vận dụng thúc đẩy
việc học và hành của sinh viên hiện nay mang một ý nghĩa vô cùng to lớn có ý nghĩa thực tiễn
cao. Sinh viên phải có được phương pháp để tiếp thu tri thức thời đại, rồi vận dụng thật tốt những
tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng một xã hội ngày càng phồn vinh, tươi đẹp.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Giáo trình “ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin”- Nhà xuất bản chính
trị quốc gia.
-

Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam- Nhà xuất bản giáo dục.
Đảng cộng sản Việt Nam-Văn kiện Hội Nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa VII, NXB
chính trị quốc gia, H.1994

15


-

Nguyễn Trọng Chuẩn- Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế xã hội của nước ta đến
năm 2000, Tạp chí triết học số 4-1990

16



×