Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Liên hệ vận dụng nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8 đối với hoạt động thực tiễn của cá nhân.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.76 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Câu 1: Liên hệ vận dụng nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8 đối với
hoạt động thực tiễn của cá nhân
I.Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8
1. Nguyên nhân
2. Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ
3. Ý nghĩa
II. Liên hệ vận dụng vào hoạt động thực tế của cá nhân
1.Vận dụng vào thực tế trong phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam hiện nay
2.Vận dụng vào bản thân mỗi cá nhân sinh viên.
Câu 2: Thực hiện công bằng bình đẳng là một trong các yếu tố phát triển nguồn lực con
người. Hãy đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề này từ đó đề xuất những biện pháp nhằm
thực hiện tốt bình đẳng trong xã hội.
A.Phần mở đầu
B. Phần nội dung
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về vấn đề con người và nguồn lực con người
1.Quan niệm về con người:
2. Nguồn lực con người
3. Vai trò của nguồn lực con người
II. Thực hiện công bằng và bình đẳng trong phát triền nguồn lực con người
III. Vận dụng vào thực tiễn các biện pháp thực hiện công bằng xã hội Việt Nam ngày nay
C.Phần kết.


Câu 1: Liên hệ vận dụng nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong cách mạng
tháng 8 đối với hoạt động thực tiễn của cá nhân
I.Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ trong cách mạng tháng 8
1.Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan: Thắng lợi của Liên Xô và đồng minh trước phe phát xít.
- Nguyên nhân chủ quan : Có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là chủ tịch
Hồ Chí Minh.


=> Cần phải tạo thời cơ và sự nhạy bén chớp lấy thời cơ cách mạng của Đảng trong lãnh đạo
cách mạng.
2. Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ
- Từ lịch sử đấu tranh và thực tiễn cách mạng trên thế giới , các nhà kinh điển của Chủ nghĩa
Mác- Lênin đã chỉ ra rằng : Thời cơ của cách mạng chính là:
+ Kẻ thù của cách mạng ( giai cấp thống trị không thể thống trị nhân dân được như cũ
+ Nhân dân lao động không thể cam chịu ách áp bức bóc lột của giai cấp thống trị được như
trước nữa
+ Có một chính đảng ra đời và sẵn sàng lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc giành chính quyền
về tay nhân dân
-Từ đầu năm 1945, ở nước ta đã xuất hiện cả 3 điều kiện trên , đó là thời cơ của cách mạng
nhưng thời cơ đó chưa thực sự chin muồi vì nhiều lý do:
+ Đảng đã sẵn sàng
+ Nhân dân vô cùng cực khổ và hết lòng ủng hộ cách mạng
+Kẻ thù vẫn còn rất mạnh. Tuy có suy yếu nhưng lực lượng vẫn rất đông và đủ mạnh để chống
lại cách mạng.


 Vì vậy, Đảng đã nhận ra rằng phát động khởi nghĩa vào lúc này không thể đảm bảo chắc
chắn cho chúng ta giành thắng lợi. Đảng cần phải xác định được thời cơ chin muồi và
nhanh chóng chớp lấy thời cơ lãnh đạo nhân dân tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
-Trong bối cảnh tình hình cả ở thế giới và trong nước đều ủng hộ cho cách mạng Việt Nam.
+ Thất bại liên tiếp trên trường quốc tế
+Ngày 11/08/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng đồng minh vô điều kiện
+ Quân Nhật ở Đông Dương hoang mang cực độ, rối loạn tột cùng, chính phủ Trần Trọng Kim
thân Nhật ở Việt Nam cũng tỏ ra hoàn toàn tê liệt.
 Kẻ thù của cách mạng nước ta đã vô cùng suy yếu – tình thế cách mạng đã xuất hiện.
Đảng ta xác định lúc này thời cơ xuất hiện “ ngàn năm có một”, nếu không nhanh chóng
chớp lấy sẽ không thể có lần thứ 2.
-Thời cơ này chỉ diễn ra trong khoảng 2 tuần khi mà kẻ thù cũ đã hạ gục, kẻ thù mời chưa kịp tới

. Trước khi quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhât sẽ làm cho kẻ thù đông lên về số lượng
với vũ khí, trang thiết bị hiện đại, thì Đảng ta cần phải nhanh nhạy, chớp lấy thời cơ phát động
tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân => Đây là một nhận định hoàn toàn đúng
đắn thể hiện sự tài tình sáng suốt của Đảng và Bác Hồ.
=> Qua đây ta có thể thấy được, thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 bên cạnh sức mạnh
dân tộc, truyền thống yêu nước, sự chuẩn bị chu đáo và lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản
Việt Nam còn là nghệ thuật chớp thời cơ cách mạng mà Đảng và Bác đã vận dụng một cách linh
hoạt, sáng tạo khoa học quân sự của thế hệ cha ông đi trước kết hợp với đặc điểm tình hình thực
tế cách mạng.
3. Ý nghĩa
-Cách mạng tháng tám là một sự kiện lịch sử vĩ đại trong toàn bộ lịch sử đấu tranh cách mạng để
tự giải phóng của dân tộc Việt Nam. Nó đã kết thúc vẻ vang một quá trình vận động cách mạng
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản Đông
Dương, đồng thời mở ra một quá trình vận động cách mạng mới. Thắng lợi của cách mạng tháng
Tám là thắng lợi về chiến lược và sách lược cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn cách mạng vm. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đã dẫn tới nước Việt Nam


Dân chủ Cộng hoà ra đời, nhà nước công nông đầu tiên được thành lập ở Đông Nam Á, đây là
đỉnh cảo cách mạng trong khu vực Đông Nam Á, và trong phong trào giải phóng dân chủ thế
giới.
-Cuộc cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc năm 1945 là một cuộc cách mạng vô cùng nhân
đạo, thể hiện một chủ nghĩa dân tộc sáng suốt. Đó là một cuộc cách mạng tập hợp được tuyệt đại
bộ phận nhân dân cả nước, diễn ra nhanh chóng và ít đổ máu.
-Cách mạng tháng Tám thắngl ợi là do sự tác động, chuyển hoá, tổng hợp của nhiều yếu tố, trong
đó nghệ thuật tạo thời cơ và chớp thời cơ của Đảng là một nhân tố vô cùng quan trọng.
Cách mạng tháng Tám đã chọn đúng thời cơ, nắm bắt thời cơ và tận dụng những thuận lợi của
thời cơ. Chỉ trong vòng 20 ngày (15-8 đến 5-9) cách mạng Việt Nam đã có một bước ngoặt quyết
định, cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra rất nhanh, rất mạnh và rất gọn. Nếu sớm hơn thời gian đó, khi
phát xít Nhật chưa đầu hàng, hoặc muộn hơn thời gian đó. Khi quân Anh, Tưởng đã vào Đông

Dương thì tình hìh sẽ diễn biến phức tạp khôn lường.
-Chọn đúng thời cơ khởi nghĩa là vấn đề vô cùng quan trọng vì khởi nghĩa vũ trang; một hình
thức đặc biệt của đấu tranh vũ trang, chí thành công khi trước hết đã có thể “dựa vào một bước
ngoặt quyết định trong lịch sử của cuộc cách mạng đang lên. Khi mà tính tích cực của các bộ
phận tiên tiến trong nhân dân được biểu lộ cao hơn hết, khi mà những dao động trong hàng ngũ
địch và trong hàng vũ những người bạn mềm yếu do dự và không kiên quyết của cách mạng biểu
hiện ra mạnh hơn hết” (Lê-nin - Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa vũ trang). Chọn đúng thời cơ khởi
nghĩa còn hết sức quan trọng vì thời cơ đó có thể qua đi rất mau. Lênin trong buổi chiều ngày 2410-1917 đã viết rõ “Rõ ràng hơn ban ngày là hiện nay nếu khởi nghĩa chậm thì thật lá xuống
hố… lịch sử sẽ không tha thứ cho các nhà cách mạng, nếu chậm trễ, họ có thể thắng ngày hôm
nay (và nhất định sẽ thắng ngày hôm nay) nếu chậm đến ngày mai thì sẽ mất nhiều và có thể mất
hết…”.
II. Liên hệ vận dụng vào hoạt động thực tế của cá nhân
1.Vận dụng vào thực tế trong phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam hiện nay
- Trong Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã thành công trong việc chỉ đạo xây dựng lực lượng,
chủ động đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền; giờ đây vớinhững điều kiện chủ quan và
khách quan mới đang tạo ra thời cơ mới, Đảng ta khẳng định, cách mạng nước ta đang đứng


trước những thời cơ, vận hội mới thuận lợi chưa từng có, đồng thời cũng đang gặp những khó
khăn, thách thức lớn.
-Trước hết là những nhân tố thuận lợi: đó là chúng ta đang sống trong một thế giới hòa bình, ổn
định, phát triển và hội nhập. Về đối ngoại, uy tín và vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng
cao. Từ một nước không có tên trên bản đồ thế giới, sau 70 năm Việt Nam đã có quan hệ thương
mại với 230 tổ chức quốc tế, quốc gia và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ ngoại giao với 179
nước(9), trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới. Việt Nam đã đổi mới căn bản cả về thế và lực,
đang đứng trước những cơ hội to lớn.
-Về nguồn lực và triển vọng phát triển: Việt Namcó nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao
động chất xám trẻ dồi dào, đầy nhiệt huyết và tiềm năng sáng tạo. Đất nước ta đang ở thời kỳ
“Dân số vàng” với hơn 65 triệu người đang ở độ tuổi lao động. Để nắm bắt được thời cơ, chớp
thời cơtrong thời đại phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, thời đại văn minh tri

thức, Đảng ta chỉ ra rằng, ngoài quyết tâm chính trị, yếu tố con người, nguồn lực con người có tri
thức là yếu tố quyết định. Do đó,nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm
chủ khoa học công nghệ, chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là sức mạnh nội lực to
lớn của toàn dân tộc. Trên cơ sở phát huy nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực, tạo nên sức
mạnh tổng hợp phát triển đất nước
-Tuy nhiên, vấn đề nhận biết được thời cơ và chớp thời cơ để phát triển đất nước hoàn toàn
không dễ. Có thể thấy rằng, hiện nay việc sử dụng nguồn lao động ở Việt Nam vô cùng lãng phí,
kể cả nguồn lao động đã qua đào tạo; năng suất lao động của nước ta gần thấp nhất trong các
nước Đông Nam Á. Chi phí sản xuất trên giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh yếu. Việt
Nam có hơn 300 nghìn người đang độ tuổi lao động có trình độ cử nhân và thạc sỹ không có việc
làm, trong khi nhiều nhà máy, công ty sản xuất lại thiếu lao động. Đó là một nghịch lý hay là vấn
đề chúng ta chưa biết tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức của lịch sử ? Câu hỏi đó còn đang
chờ lời giải của các nhà hoạch định chính sách và sự cố gắng của cả hệ thống chính trị
-Bên cạnh những nhân tố thuận lợi là những thách thức to lớn. Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài
chính thế giới đã, đang và sẽ tiếp tục ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, sự biến đổi khí hậu toàn cầu, sự bùng nổ dân số, sự chênh lệch giàu nghèo, nạn tham


nhũng, sự cản trở phá hoại của các thế lực thù địch..., là những thách thức lớn đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta
=> Mặc dù hiện tại vẫn còn vô vàn khó khăn, nhưng có thể khẳng định rằng, nếu chúng ta biết
học tập, vận dụng sáng tạo bài học thành công về nhìn nhận thời cơ và chớp thời cơ giành thắng
lợi trong Cách mạng Tháng Tám 1945 của Hồ Chí Minh; nếu chúng ta biết phân tích, dự báo tình
hình trong nước và thế giới trên cơ sở khách quan, khoa học, để xác định được nhân tố thuận lợi
nảy sinh trong khó khăn thách thức (nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, nhân công rẻ, nhiều nước sẵn
sàng chuyển giao công nghệ mới...), nếu chúng ta quyết tâm, đoàn kết, tận dụng, tranh thủ được
thời cơ... chắc chắn sẽ vượt qua mọi thách thức, tiếp tục tiến lên, vững bước trên con đường đổi
mới.
2. Vận dụng vào bản thân mỗi cá nhân sinh viên.

-Bản thân là sinh viên kinh tế, trước thời điểm nền kinh tế đang khó khăn, mỗi năm hàng ngàn
cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp… trong khi trong nhiều nhà máy công ty thì thiếu lao động có tay
nghề cao, em nhận thức được rằng việc học đại học là rất cần thiết, nhưng học như thế nào thì đó
lại là điều mà mỗi chúng ta nên quan tâm, suy nghĩ.
- Không phải chỉ trong thời kỳ kháng chiến mới cần chớp thời cơ, mà đối với xã hội Việt Nam
ngày nay thì việc nắm bắt thời cơ lại là đều rất quan trọng, đặc biệt là sinh viên, cần nhận ra ưu
điểm và nhược điểm của mình để từ đó chọn hướng đi , ngành nghề cho bản thân mình một cách
đúng đắn để có thể phát huy được hết những điểm mạnh của bản thân , đóng góp sức mình cho
sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
-Vậy thì sinh viên chúng ta cần làm gì? Ngay từ bây giờ, khi đang ngồi trên ghế nhà trường, sinh
viên cần phải nhận thức được việc học và xác định được mục tiêu học tập rõ ràng:
+ bản thân chúng ta là sinh viên mà sinh viên lại giữ vai trò quan trọng, là nguồn lực chủ yếu,
chúng ta có một nhiệm vụ hay giữ một trọng trách hết sức nặng nề những người được đào tạo
thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, được tổ chức tốt về kiến thức văn hóa, chính trị, đạo đức, lối
sống....
+ Trước ngưỡng cửa của thế kỷ mới hứa hẹn nhiều đổi thay, cá nhân em đã có lần tự hỏi: Mình
đã chuẩn bị được những hành trang gì để hoà nhịp cùng bước tiến của thời đại, phải làm gì và
bằng cách nào để vươn lên làm chủ tri thức, làm chủ khoa học công nghệ tiên tiến, mở rộng tầm


nhìn, sự hiểu biết ở tầm cao thời đại nhằm biến những cơ hội và thử thách trong tương lai thành
cuộc thử nghiệm quan trọng chứng minh cho lòng can đảm và sự bứt phá vượt lên chính bản thân
mình. Để làm được điều đó, việc đầu tiên là cần nắm bắt thời cơ một cách phù hợp, biết được xã
hội cần gì, và chính mình có những gì?
+ Trong “vali” hành trang vào đời, cái gì đã được chuẩn bị tốt, cái gì chưa đầy đủ cần phải hoàn
thiện, cái gì cần thiếu thì bổ sung, đó là những vấn đề mà sinh viên hiện nay đều quan tâm .
Đương nhiên, mỗi thế hệ đều có yêu cầu, nội dung và cách thức chuẩn bị cho mình , và đều có
những hành trang cơ bản và chung nhất.
 Nhận thức được vị thế của mình trong xã hội, mỗi sinh viên chúng ta phải không ngừng
học hỏi, tiếp nhận kiến thức, xử lý thông tin, phải rèn luyện cả đức lẫn tài, tự tu dưỡng,

rèn luyện bản thân hay nói cách khác phải tự giáo dục về tri thức, phẩm chất, nhân cách
để sao cho xứng đáng với trọng trách mà xã hội giao phó, để xây dựng nên một đất nước
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.

Câu 2: Thực hiện công bằng bình đẳng là một trong các yếu tố phát triển
nguồn lực con người. Hãy đưa ra quan điểm cá nhân về vấn đề này từ đó đề
xuất những biện pháp nhằm thực hiện tốt bình đẳng trong xã hội.
A.Phần mở đầu
Bước vào thế kỷ thứ XXI, khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão ,
cùng với vấn đề hòa bình , toàn cầu hóa, bảo vệ mội trường.. ở một diện rộng khắp nơi trên
thế giới đang nổi lên vấn đề con người, trí tuệ con người và nguồn lực con người. Con người
là trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều nước trong đó có Việt Nam
Để phù hợp với đặc điểm phát triển của thời kỳ lịch sử đặc biệt này,Đảng và nhà nước ta đã
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Trong đó việc quan tâm đầu
tiên chính là phát triển nguồn lực con người. Và để làm được điều đó thì thực hiện công bằng
xã hội lại là một vấn đề quan trọng trong mọi thời đại, mọi thời kỳ đều cần phải giải quyết.
Quan điểm : “ Thực hiện công bằng bình đẳng là một trong những yếu tố phát triển nguồn
lực con người” là hoàn toàn đúng đắn trong xã hội Việt Nam ngày nay.
B.Phần nội dung


I.Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin về vấn đề con người và nguồn lực con người
1.Quan niệm về con người:
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, con người vừa là thực thể tự nhiên, vừa là thực thể xã hội, đồng
thời là chủ thể cải tạo hoàn cảnh.
Con người là một thực thể "song trùng" tự nhiên và xã hội, là sự kết hợp cái tự nhiên (sinh học)
và cái xã hội. Hai yếu tố này gắn kết với nhau, đan quyện vào nhau, trong cái tự nhiên chứa đựng
tính xã hội và cũng không có cái xã hội tách rời cái tự nhiên.
Con người trong quá trình tồn tại không chỉ tác động vào tự nhiên, làm biến đổi thế giới tự nhiên
mà con người còn quan hệ với nhau tạo nên bản chất người, làm cho con người khác với con vật.

"Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
-Con người không thể tồn tại được một khi tách khỏi xã hội. Chỉ trong xã hội con người mới có
thể trao đổi lao động, thông qua đó mà thoả mãn những nhu cầu trong cuộc sống, như ăn, ở, đi
lại v.v.. Trong xã hội thông qua quan hệ với người khác mà mỗi người nhận thức về mình một
cách đầy đủ hơn, trên cơ sở đó mà rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt, từng bước hoàn
thiện nhân cách.
- Quan niệm về con người xã hội chủ nghĩa:
Con người xã hội chủ nghĩa bao gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại và cả những con
người sinh ra trong xã hội mới. Con người sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mang những nét
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng, tác
phong, thói quen của xã hội cũ. Cho nên, quá trình xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là
quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc
hậu.
Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa là sản
phẩm của quá trình đó.
2.Nguồn lực con người
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực khoa học - công nghệ,
nguồn vốn, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là quyết định nhất, bởi lẽ những nguồn


lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát huy. Chúng ta biết
rằng, điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất lớn trong sự phát triển của một
quốc gia. Song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm năng, tự chúng là những khách thể bất động.
Chúng chỉ trở thành nhân tố "khởi động", và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con
người. Những nguồn lực khác ngày càng cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa
dạng và phong phú và có khả năng nội sinh không bao giờ cạn. Ngược lại nguồn lực con người
càng được sử dụng, lại càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Các lĩnh vực khoa học khác nhau, có thể hiểu nguồn lực theo những cách khác nhau, nhưng
chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố mà mỗi nhân tố đó có vai trò riêng nhưng có

mối quan hệ với nhau tạo nên sự phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó.
Từ cách hiểu như vậy, nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người có thể huy động,
sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội.
 Qua các ý kiến khác nhau có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố
thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội, v.v. tạo
nên năng lực của con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và trong những hoạt động xã hội
3. Vai trò của nguồn lực con người
Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội có được xây dựng thành công hay không, tuỳ thuộc vào việc chúng ta có phát
huy tốt nguồn lực con người hay không? Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa"
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế
Trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là lực lượng sản xuất và vai trò trong
quan hệ sản xuất.
Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất.
Ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, hàm lượng chất xám trong giá trị hàng
hoá ngày càng cao, thì vai trò của người lao động có trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lượng


sản xuất. V.I. Lênin đã chỉ ra: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động"
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị
Từ khi giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo toàn xã hội thì con người đã được giải phóng
khỏi áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, trở thành người làm chủ đất nước, nhân dân tự tổ chức
thành nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản, Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng,
nước ta phải đi đến dân chủ thực sự, "Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để
nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”

Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hoá
Dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời sống văn hóa xã
hội. Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do nhà nước quản lý nhằm phục vụ đắc lực cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao mức
hưởng thụ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động.
Mặt khác, quần chúng nhân dân lao động cũng là những người góp phần xây dựng nên những
công trình văn hoá, những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật.
Một khi, con người có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệ thuật, sẽ tham gia sáng tạo ra
những tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao như: những bộ phim hay, những điệu múa đẹp, những
tác phẩm văn học có nội dung phong phú, v.v.. Những công trình văn hóa, nghệ thuật như vậy dễ
đi vào lòng người, có tác dụng giáo dục đạo đức, góp phần hình thành nhân cách cho mỗi con
người trong xã hội.
Con người có văn hoá cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản văn hoá tinh thần
của đất nước, của nhân loại. Do vậy, nếu mỗi con người có ý thức, năng lực thực hiện tốt công
việc này, thì những giá trị văn hoá tinh thần, giá trị văn hoá vật chất của xã hội được bảo tồn, lưu
giữ, được nâng cao.
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội


Những vấn đề xã hội bao gồm: Vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng xã hội, thực hiện
xoá đói, giảm nghèo, . Muốn giải quyết tốt những vấn đề này, đòi hỏi chúng ta phải phát huy tốt
vai trò nguồn lực con người.
Giải quyết lao động việc làm là một vấn đề được từng gia đình, toàn xã hội chúng ta quan tâm, vì
có giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm mới phát huy được những thế mạnh của đất nước, mới
giải quyết tốt được những vấn đề xã hội khác. Song, muốn giải quyết tốt vấn đề lao động việc
làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao chất lượng nguồn lực con người từ nâng cao sức khoẻ, trình
độ học vấn, tay nghề, năng lực quản lý, tới ý thức chính trị cho người lao động.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Chính
sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy được trách nhiệm của mình,
cố gắng nỗ lực phấn đấu vươn lên, đồng thời được sự đồng tình ủng hộ của toàn xã hội, sự trợ

giúp của Nhà nước

II. Thực hiện công bằng và bình đẳng trong phát triển nguồn lực con người.
1.Bình đẳng giới tạo điều kiện tốt để phát triền nguồn nhân lực
- Thực hiện sự bình đẳng giới và công bằng xã hội, trước hết đề cập đếnnội dung cụ thể cần tiến
hành. Nội dung đó phụ thuộc vào môi trường sinh sống, làm việc cụ thể của từng giới, ở thành
phố khác ở nông thôn, ở đồng bằng khác ở miền núi, vùng dân tộc ít người. Môi trường sinh
sống chi phối những nhu cầu bức bách của mỗi giới, có cái chung, có cái riêng, có nhu cầu trước
mắt và nhu cầu lâu dài, toàn bộ.
-Để đảm bảo sự công bằng thực sự giữa nam và nữ, không chỉ cần tạo điều kiện, cơ hội như nhau
để nữ giới tham gia vào sân chơi bình đẳng mà khi cần thiết, phải có những ưu tiên cho giới
nữ, tạo cho họ những điều kiện, cơ hội thuận lợi hơn so với nam giới.Nếu thực hiện sự bình đẳng
một cách máy móc sẽ là bất công với giới nữ, vì giới nam vốn có những điều kiện chủ quan và
khách quan thuận lợi hơn giới nữ.
-Việc tuyển người đi đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ của một cơ quan xí nghiệp, nếu cứ nêu lên
những tiêu chuẩn lựa chọn nam cũng như nữ thì chắc chắn rất ít phụ nữ đạt yêu cầu để được đi
học, một phần do trình độ, chức vụ công tác thấp hơn nam, một phần do họ bận con cái không đi
học tập trung thời gian dài được, nếu không có sự giúp đỡ cần thiết. Do đó, cần chú ý ưu tiên
nữ, linh hoạt trong tiêu chuẩn lựa chọn họ đi học, chú ý nữ còn trẻ chưa lập gia đình, hoặc chị em


có con đã lớn, điều kiện gia đình có thể đi học được, hay chấp nhận phụ nữ mang con nhỏ đi học.
Nhìn chung, phụ nữ phải gánh nặng công việc gia đình bên cạnh sự tham gia công tác như
chồng. Những lúc họ chưa có con hay không có con nhỏ, họ tập trung tư tưởng tập trung hơn.
Nếu đặt một tỷ lệ ngang bằng nam nữ, với những tiêu chuẩn lựa chọn giống nhau với nam và nữ
thì nhiều khi không đủ số phụ nữ được đào tạo và là một sự không công bằng với giới nữ.
Sự bình đẳng về giới và công bằng xã hội hỗ trợ cho nhau, nhưng không thay thế nhau.
-Chúng ta đặt sự công bằng về giới trong sự công bằng chung của xã hội. Công bằnggắn
với công minh, đó là những thành tố trung tâm của chiến lược phát triển xã hội có hiệu quả nhất.
Có công bằng thực sự mới giúp cho xã hội tăng trưởng một cách toàn diện và vững bền. Công

bằng xã hội lớn hơn thì hoạt động kinh tế có hiệu quả nhiều hơn, giảm xung đột xã hội, tăng
niềm tin trong lòng người dân, cả nam và nữ
 Nước ta đang xây dựng một xã hội dân chủ và tự do, công bằng và bình đẳng. Thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ chính là một nội dung quan trọng nhằm đảm bảo sự công bằng,
dân chủ, tự do cho cả hai giới, nam và nữ ngang quyền nhau về mọi phương diện như yêu
cầu của Hiến pháp nước ta. Đó là tạo lập sự công bằng giữa hai giới một cách cơ
bản và toàn diện nhất, thiết lập cơ sở quan trọng nhất và bền vững cho sự phát triển tốt
đẹp, hài hoà gữa hai giới, trong gia đình và ngoài xã hội.
2. Công bằng xã hội trong phát triển nguồn nhân lực
- Vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội được đề cập trong tất cả các văn kiện chính thức của Đại

hội XI của Đảng và thể hiện những nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về bề rộng cũng như bề sâu
của vấn đề quan trọng này. Cuộc sống xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cả về lý luận và
thực tiễn, song nhận thức và hành động trong lãnh đạo và quản lý còn có khoảng cách không nhỏ
so với những gì đang đặt ra trong thực tiễn. Bài viết nhỏ này mong muốn gợi mở một vài suy
nghĩ góp phần nghiên cứu về lĩnh vực này.
- Được sống đầy đủ về vật chất, tinh thần và công bằng là khát vọng từ xa xưa đã được đặt ra từ
rất sớm trong lịch sử loài người. Con người phải đấu tranh không ngừng với thiên nhiên, với mọi
chế độ áp bức, bóc lột, hy sinh bao nhiêu xương máu cũng vì mục đích cao cả nhưng rất thiết
thực, bình dị đó. Mác, Ăng ghen, Lê nin, Hồ Chí Minh đề ra học thuyết và tư tưởng của các ông,
cũng là nhằm giải phóng con người, thực hiện mục tiêu hạnh phúc và công bằng cho con người.


Chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh cũng là nhằm giải phóng con
người. Cương lĩnh (bổ sung và phát triển năm 2011) đã khẳng định ''Chính sách xã hội đúng đắn,
công bằng là động lực mạnh mẽ, phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc''1.
- Để giải phóng con người theo nghĩa đầy đủ của nó, chẳng những phải tăng trưởng kinh tế mà
phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia có mức độ tăng
trưởng kinh tế cao, có thu nhập bình quân đầu người lớn, có đời sống vật chất sung túc, nhưng lại

không có công bằng xã hội, con người không được thực sự tự do và giải phóng mà còn đầy rẫy
sự bất công. Kết quả tăng trưởng kinh tế đã mang lại những món lợi nhuận kếch sù cho những
tập đoàn tư bản độc quyền lũng đoạn, và cuộc sống rất cao cho một thiểu số người, trong khi nạn
đói và thất nghiệp vẫn gia tăng cùng với hàng loạt vấn đề xã hội suy thoái có thể làm lung lay
nền móng xã hội, dẫn tới những xung đột xã hội làm đảo lộn cả chế độ chính trị. Trong hoàn
cảnh nước ta, xác định mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như thế nào
cho đúng đắn, vẫn là một vấn đề bức xúc cần phải được tiếp tục nghiên cứu đầy đủ để có được
những giải pháp phù hợp với thực tế đất nước.
-Một chính sách xã hội tiến bộ và công bằng phải là một chính sách đạt được những yêu cầu sau
đây:
+ Một là, bảo đảm tái sản xuất sức lao động cho xã hội (bằng các chính sách phân phối thu nhập
cho mọi đối tượng, đào tạo, giáo dục, bảo vệ sức khỏe, bảo hộ và bảo hiểm lao động... nâng cao
dân trí, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế hiện nay và chuẩn bị một đội ngũ lao động cho
những bước phát triển cho tương lai của đất nước.
+ Hai là, bảo đảm cơ sở và những điều kiện cơ bản cho đời sống vật chất và tinh thần (bao gồm
cả văn hoá, khoa học, nghệ thuật...) đạt tới trình độ ngày càng cao cho thế hệ người Việt Nam
hôm nay và mai sau, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước.
+ Ba là, hướng dẫn tiêu dùng lành mạnh, vừa phát triển kinh tế, vừa bảo vệ tinh hoa truyền
thống của dân tộc, làm cho mọi ngươi vừa biết làm giàu hợp pháp, đồng thời biết hưởng thụ
thành quả lao động chính đáng của thành mình làm ra. Trên cơ sở đó hình thành một lối sống
Việt Nam vừa hiện đại, hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, vừa bảo vệ và phát triển những giá


trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, tạo nên một xã hội lành mạnh, văn minh, ổn định, làm môi trường
ưu việt cho sự tăng trưởng kinh tế.
-Người xưa có câu: ''Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân
không yên''. Người Việt Nam vốn có truyền thống đùm bọc, đoàn kết, coi trọng sự công bằng,
coi trọng mối quan hệ êm thấm trong cộng đồng, trong đó lòng dân yên ổn mà không sợ thiếu,
không sợ nghèo.Truyền thống đó phải được kế thừa và nhận thức trong điều kiện mới. Nền kinh
tế phải đủ, phải giàu, phải tăng trưởng để trên cơ sở đó mà thực hiện công bằng và yên dân.

Người ta không thể phân phối cái gì mà người ta không có, không thể thực hiện công bằng yên
dân trên một cơ sở nghèo đói, thiếu thốn. Trên cơ sở năng suất thấp, thu nhập quá ít ỏi, không có
sản phẩm thặng dư thì sự công bằng sẽ trở thành sự cào bằng, sự yên dân trở thành sự yên phận.
Như thế thì không thể có động lực, và khi đã không có động lực thì sẽ không có sự phát triển .

III. Vận dụng vào thực tiễn Việt Nam
1.Thực tiễn Việt Nam
-Vấn đề công bằng xã hội ở Việt Nam, tuy đã được thực hiện trên cơ sở kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa với nguyên tắc phân phối theo lao động gắn liền với cống hiến
cho Tổ quốc, nhưng hiện nay, trong xã hội còn tồn tại nhiều bất công chưa giải quyết được.
-Trước hết là sự phân phối theo lao động. Ở Việt Nam, nhiều vùng ruộng đất còn manh mún
chưa thể sản xuất lớn được; một số nhà máy, xí nghiệp do người nước ngoài đầu tư, vốn
liếng trong nước còn ít ỏi. Điều đó hạn chế rất lớn năng lực sáng tạo của nhiều người Việt
Nam. Để phân phối một cách công bằng, trong tất cả các lĩnh vực xã hội cần có một hệ chuẩn
mực đủ sức điều chỉnh nhanh nhạy và đúng hướng các bất công xảy ra trong lao động. Điều
này chưa được thực hiện tốt ở Việt Nam. Trong xã hội, tuy là phân phối theo lao động, nhưng
đang xảy ra những bất công bất khả kháng. Nhiều nghề lao động đơn giản lại có thu nhập lớn
hơn nhiều lần lao động phức tạp. Nhiều lĩnh vực lao động trí óc lại hưởng thụ thấp hơn lao
động chân tay. Nhiều sản phẩm lao động trí óc phức tạp vẫn chưa có thị trường. Nhiều người
ở vùng xa, vùng sâu chưa được hưởng phúc lợi xã hội như ở các thành phố; mức sống, chế
độ giáo dục, chăm sóc y tế ở nông thôn còn cách biệt với thành phố.


-Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa. Nhiều vấn đề công
bằng xã hội đã được đặt ra. Có những nơi lấy đất của dân làm nhà máy thủy điện, nhưng
nhân dân ở chính nơi ấy lại chưa được hưởng thành quả của công nghiệp hóa. Nhiều người bị
mất đất vì đô thị hóa mà vẫn chưa có công ăn, việc làm.
-Vấn đề công bằng trong giáo dục và y tế vẫn còn là một nỗi nhức nhối chung của xã hội.
Tuy giáo dục và y tế đã được xã hội hóa, nhưng những cơ hội để hưởng các thành quả ấy còn
phụ thuộc vào thu nhập của nhân dân. Một bộ phận nhân dân còn thu nhập thấp, cơ hội được

hưởng chế độ giáo dục và y tế cao là rất hiếm hoi. Chế độ lương của nhà nước còn bất hợp lý
so với thu nhập ngoài nhà nước và sự tăng giá của thị trường. Người hưởng lương hưu, người
già yếu, bệnh tật còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Hiện nay, ở Việt Nam đang có một nguy cơ làm mất cân bằng xã hội là nạn tham nhũng và
sự can thiệp của một số thế lực phản động. Chúng đã biến trắng thành đen, phá hoại sự ổn
định xã hội, đảo lộn sự phân phối theo lao động
=> Vì vậy cần có những biện pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề về công bằng và bình đẳng
trong phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam
2. Biện pháp
-Công bằng xã hội chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Muốn có công bằng xã hội phải tiến hành
rất nhiều giải pháp, phải có một hệ thống những giải pháp hữu hiệu, khả thi.
- Trước mắt, để có được tiến bộ và công bằng xã hội, cần phải xem xét một cách khách quan và
nghiêm túc vấn đề phân phối thu nhập trong xã hội. Tính công bằng trong phân phối thu nhập
trước hế átt quyết định bởi việc thực hiện nguyên tắc ''hưởng theo lao động”. Nguyên tắc hưởng
theo lao động không cho phép dành những khoản thu nhập lớn cho bất cứ đối tượng nào không
có đóng góp lao động cho xã hội (bao gồm lao động trí óc và lao động chân tay).
-Những đóng góp lớn phải được hưởng thu nhập lớn, được xã hội tôn vinh và là nội dung hàng
đầu của chuẩn mực xã hội. Vấn đề phân phối thu nhập đang là vấn đề bức xúc hiện nay trong xã
hội, nó là lĩnh vực đang dung dưỡng những thói hư tật xấu và những ung nhọt của xã hội, đang
che giấu những mưu toan xấu vị lợi ích cá nhân vị kỷ của những con người nhân danh tổ chức,
những tập đoàn người...


- Vì vậy, để thực hiện được tư tưởng đúng đắn của Cương lĩnh về tiến bộ và công bằng xã hội,
rất cần thiết phải có chủ trương, giải pháp và những con người tương xứng có thể kiểm soát được
lĩnh vực phân phối thu nhập trong xã hội ta hiện nay, mổ xẻ thực trạng bất công trong phối hợp
thu nhập, phanh phui các hình thức biến tướng của nó và truy tìm căn nguyên của thực trạng ấy.
Mọi việc được công khai minh bạch, được giám sát và phản biện.
=> Đó là cách tốt nhất để giải bài toán tiến bộ và công bằng xã hội hiện nay, thực hiện được tư
tưởng công bằng xã hội của Hồ Chí Minh.


C. Phần kết luận

“Thực hiện công bằng bình đẳng là một trong các yếu tố phát triển nguồn lực con người”đó luôn là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xã hội Việt Nam ta.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vấn đề công bằng bình đẳng là một trong những vấn đề cấp bách được đặt ra. Muốn xã hội phát
triển một cách bền vững hơn thì việc đầu tiên cần làm đó là giải quyết các vấn đề vầ công bằng
bình đẳng trong xã hội để hướng tới phát triển nguồn lực con người, hướng tới một xã hội phát
triển toàn diện, dân chủ, công bằng, văn minh.


Tài liệu tham khảo:
-

Giáo trình “ Đường lối cách mạng của đảng cộng sản Việt Nam”-Nhà xuất bản chính trị

-

quốc gia
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam- Nhà xuất bản giáo dục
Đảng cộng sản Việt Nam-Văn kiện Hội Nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa VII, NXB

-

chính trị quốc gia, H.1994
Nguyễn Trọng Chuẩn- Nguồn nhân lực trong chiến lược kinh tế xã hội của nước ta đến
năm 2000, Tạp chí triết học số 4-1990




×