Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học Quận 11, Tp.Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 109 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Giáo dục sức khỏe ( GDSK) cho học sinh đã được tổ chức y tế thế giới
(WHO) và quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) quan tâm từ những năm
đầu của thập kỷ 70 thế kỷ trước. Nhất là sau khi tuyên ngôn Alma – Ata ra
đời với khẩu hiệu “Sức khỏe cho mọi người đến năm 2000”[3] thì việc giáo
dục sức khỏe ở các trường học trên Thế giới được triển khai mạnh mẽ “Hãy
giúp 1 tỷ trẻ em học về sức khỏe”[23].
Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của tồn xã hội. Vì
vậy, đầu tư cho sức khỏe chính là quan tâm cho sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai"[3], đó là khẩu hiệu thể
hiện vai trị của trẻ em, những người chủ tương lai. Để những người chủ
tương lai quản lý tốt đất nước sau này, trẻ em cần được học tập tốt, trở thành
những người có tri thức, "vừa hồng, vừa chuyên". Muốn học tập tốt cần có
sức khỏe tốt. Sức khỏe - trạng thái thoải mái về thể chất, tâm thần và xã hội là điều kiện tiên quyết, là vốn quý, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp học
tập của các em.
Học sinh tiểu học đang ở lứa tuổi lớn và phát triển về nhiều mặt vì vậy
để có được thế hệ tương lai khỏe mạnh thì cơng tác chăm sóc và giáo dục sức
khỏe cho trẻ phải được quan tâm đầy đủ. Thực tế cho thấy, nhiều bệnh lý ở
tuổi trưởng thành có ngun nhân từ việc khơng được chăm sóc và giáo dục
sức khỏe tốt từ tuổi học đường như: suy dinh dưỡng, cận thị, cong vẹo cột
sống, bướu cổ, một số bệnh tim mạch, tiêu hóa, bệnh lây truyền qua đường
tình dục và các bệnh truyền nhiễm,....[23]
Quan tâm tới vấn đề này, từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã có những
chính sách, chủ trương để thực hiện cơng tác giáo dục và bảo vệ sức khỏe cho
học sinh. Dựa trên cơ sở pháp lý, Điều 6 và điều 13, Luật bảo vệ sức khỏe


2



nhân dân và cơ sở chính trị là Nghị quyết TW4, khoá 7 của Đảng về những
vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Từ đó,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 37/CP ngày 20/6/1996 định hướng chiến
lược trong thời gian 1996-2000 là tiến hành xã hội hố cơng tác chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong đó: "Ngành giáo dục đưa nội dumg giáo dục
sức khỏe vào chương trình chính khóa của các trường phổ thơng, giáo dục
học sinh về nếp sống văn minh, nếp sống vệ sinh, khuyến khích học sinh tham
gia vào các họat động giữ gìn sức khỏe cho bản thân và gia đình mình". Tiếp
theo là Quyết định số 401/2009/QĐ-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2009 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phịng, chống bệnh, tật học đường
trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Thực hiện Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ, Liên Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Y tế đã
xây dựng Chương trình phối hợp số 993/CTr-BYT-BGDĐT ngày 16 tháng 11
năm 2012 giữa Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo về bảo vệ, giáo dục và
chăm sóc sức khỏe trẻ em, học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục thuộc
hệ thống giáo dục quốc dân, giai đoạn 2012 – 2020[23].
Hiện nay, cơng tác chăm sóc sức khỏe trẻ em nói chung, học sinh nói
riêng đã có những điều kiện thuận lợi để thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế,
việc triển khai GDSK trong Nhà trường Tiểu học hiện nay chưa đạt hiệu quả,
chất lượng như mong đợi, có nhiều bất cập. Cơ sở vật chất các nhà trường
chưa đảm bảo; thư viện còn thiếu các tài liệu, phương tiện phục vụ giảng dạy
GDSK; Đội ngũ giáo viên chưa được tập huấn bài bản, giáo viên chưa có
được nhiều các biện pháp phù hợp để thực hiện nội dung GDSK; các cấp các
ngành địa phương vẫn chưa quan tâm kịp thời. Chính vì vậy, việc GDSK và
bảo vệ sức khỏe cho học sinh tiểu học là rất quan trọng, hình thành cho các
em kiến thức và kỹ năng ban đầu về chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình


3


và xã hội, xây dựng cho các em thái độ, hành vi cư xử đúng để bảo vệ sức
khỏe cho cá nhân và cộng đồng là cần thiết.
Tuy nhiên, đến nay dù nhận được nhiều quan tâm của các ngành, các
cấp nhưng chưa có hoặc có ít các cơng trình nghiên cứu và đề xuất các biện
pháp GDSK cho học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn vấn đề nghiên cứu là
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe cho học sinh
Tiểu học Quận 11 – Thành phố Hồ Chí Minh”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm nâng cao chất lượng GDSK cho học sinh tiểu học Quận 11,
Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
3.1. Khách thể nghiên cứu:
- Quá trình giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
- Các biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học sinh tiểu học Quận
11 – Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Giả thuyết khoa học:
- Có thể nâng cao chất lượng GDSK cho học sinh tiểu học Quận 11 –
Thành phố Hồ Chí Minh nếu đề xuất được một số biện pháp có cơ sở khoa
học và có tính khả thi.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu:
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề GDSK cho học sinh tiểu học.
5.2. Tìm hiểu thực trạng GDSK cho học sinh tiểu học Quận 11 – Thành
phố Hồ Chí Minh.


4


5.3. Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng GDSK cho học sinh
tiểu học Quận 11 – Tp.Hồ Chí Minh.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài được thực hiện có phạm vi nghiên cứu ở 3 trường Tiểu học trên
địa bàn Quận 11 – Tp.Hồ Chí Minh.
7. Phương pháp nghiên cứu:
- Để hoàn thành các nhiệm vụ trên của đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết
hợp các phương pháp sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, cụ thể hóa
các tài liệu lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Quan sát: các hoạt động của giáo viên, nhân viên và học sinh trường
tiểu học về thực hiện công tác GDSK.
- Điều tra thực trạng (bằng bảng câu hỏi) công tác GDSK trong các
trường Tiểu học thuộc địa bàn Quận 11, Tp.Hồ Chí Minh.
- Phỏng vấn: Cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên các trường tiểu học
về các biện pháp GDSK đã sử dụng
7.3. Phương pháp thực nghiệm:
- Đây là phương pháp được sử dụng để kiểm chứng hiệu quả của các
biện pháp GDSK đã đề xuất cho học sinh tiểu học.
7.4. Phương pháp thống kê toán học:
- Sử dụng toán thống kê để xử lí số liệu thu được về phương diện định
lượng và mặt định tính.
8. Đóng góp của luận văn:


5

- Đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe cho

học sinh tiểu học trên địa bàn Quận 11.
9. Cấu trúc luận văn:
- Ngoài phần mở đầu, kết luận - kiến nghị và tài liệu tham khảo, luận
văn có 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Thực trạng giáo dục sức khỏe cho học sinh các trường Tiểu
học Quận 11 – Tp. Hồ Chí Minh.
Chương 3. Một số biện pháp giáo dục sức khỏe học cho học sinh tiểu
học.
10. Nội dung cụ thể của các chương:


6

Chương 1: Cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
1.1.1. Trên thế giới:
Hiện nay, sức khỏe toàn cầu đang bị ảnh hưởng bởi ba xu hướng: dân
số lão hóa, đơ thị hóa nhanh chóng khơng có kế hoạch, và tồn cầu hóa. Điều
này dẫn đến tỷ lệ ngày càng tăng của bệnh không lây nhiễm và các nguy cơ
của gây ra bệnh tật đã trở thành một vấn đề toàn cầu ảnh hưởng đến cả các
quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Gần 45% gánh nặng bệnh tật cho người
lớn ở những nước này hiện là do bệnh không lây nhiễm[30]. Nhiều quốc gia
thu nhập thấp và trung bình đang bắt đầu phải chịu gánh nặng kép của các
bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm và hệ thống y tế ở những nước
này đang phải đối phó với các chi phí bổ sung để điều trị cả hai.
Theo nhà giáo dục người Anh John Loche (1632-1704) cho rằng: “Tinh
thần lành mạnh trong một thân thể khỏe mạnh”[3]. Đó là định nghĩa ngắn gọn
nhất mà đầu đủ nhất về hạnh phúc trên đời này. Người có được hai cái lợi đó
thì khơng cịn mong mỏi gì nữa. Chính câu nhận định ấy mà ta thấy được vị

trí quan trọng của sức khỏe đối với con người.
Nhiều cơng trình nghiên cứu đã chứng minh cho thấy sức khỏe của thế
hệ trẻ là nhân tố hết sức quan trọng có ảnh hưởng đến khả năng học tập, sáng
tạo và sự phát triển năng khiếu của họ đang học ở trường cũng như tương lai
sau này.
Từ thế kỷ 19 nhiều nước ở Châu Âu đã có những chủ trương và
phương pháp thực hiện chăm sóc sức khỏe cho học sinh trong các trường
học. Năm 1877, tác giả Babinski đã cho xuất bản cuốn sách giáo khoa về vệ
sinh học. Tác giả Breslauer, Herman Cahn từ năm 1864 đã nghiên cứu sự
tăng nhanh bệnh cận thị trường học có liên quan đến chiếu sáng[23].


7

Đến thế kỷ 20 đã có sự hợp tác chặt chẽ giữa bác sĩ trường học với các
trung tâm phòng chống dịch bệnh và đã đánh dấu một bước tiến bộ theo lối
dự phòng. Năm 1981, Vermer Kneist, viện vệ sinh xã hội Cộng hịa dân Chủ
Đức đã cơng bố mơ hình xây dựng y tế trường học.
Năm 1973, Edith Ockel Nghiên cứu về gánh nặng trẻ em trong học tập
và chỉ rõ những em có hiệu suất học tập thấp có sự diễn biến vế huyết áp và
tần số mạch khác với trẻ em trung bình và đã đề xuất cải thiện sức khỏe nhằm
nâng cao hiệu suất học tập.
Năm 1995, Tổ chức Y tế thế giới đã xây dựng sáng kiến y tế trường
học toàn cầu (Global school Health Intiatives) nhằm đẩy mạnh cơng tác chăm
sóc sức khỏe cho học sinh[23].
Để thúc đẩy cơng tác chăm sóc sức khỏe, bên cạnh việc đẩy mạnh các
công tác y tế trường học, các nhà nghiên cứu cũng nhận thức rằng phải đẩy
mạnh công tác giáo dục sức khỏe cho học sinh từ khi các em bước vào
ngưỡng cửa nhà trường. Đặc biệt, học sinh tiểu học thuộc tuổi trẻ đang lớn
nhanh và phát triển về mọi mặt vì vậy muốn có thế hệ tương lai khỏe mạnh

phải chú ý từ lứa tuổi này. Trên thực tế đa số bệnh ở tuổi trưởng thành đều bắt
nguồn từ tuổi học đường như: suy dinh dưỡng, cận thị, cong vẹo cột sống,
bướu cổ, các bệnh về tim mạch, tiêu hóa, bệng lây qua đường tình dục,...và
các bệnh truyền nhiễm. Nhiệm vụ giáo dục sức khỏe là công tác quan trọng
hàng đầu trong sự nghiệp giáo dục sức khỏe cho thế hệ trẻ và quan trọng
ngang với các công tác khác của nhà trường tiểu học nhằm thực hiện khẩu
hiệu:
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai”.
Các chương trình sức khỏe trong nhà trường có thể cùng một lúc làm
giảm các vấn đề y tế chung, làm tăng hiệu quả của hệ thống giáo dục và vì
vậy làm tiến bộ nền y tế cơng cộng, giáo dục và sự phát triển xã hội. “Nếu cơ


8

thể trẻ em khỏe mạnh thì sẽ có lợi thế nhất trong mọi thời cơ của học tập tốt,
sẽ có một đời sống đầu đủ, hạnh phúc và đóng góp xây dựng cho tương lai đất
nuớc”. (WTO 1998)[3].
Tuyên ngôn Alma-ata (1998) là một văn kiện quốc tế về chăm sóc sức
khỏe ban đầu và theo tổ chức y tế thế giới: “Trường học giáo dục sức khỏe là
nơi trong đó cả về lời nói lẫn việc làm đều có hoạt động hổ trợ và cam kết
thúc đẩy sức khỏe tòan diện cho tất cả mọi thành viên trong cộng đồng nhà
trường từ tình cảm, xã hội, thể chất đến các vấn đề đạo đức”[23].
1.1.2. Ở Việt Nam:
Việt Nam trong giai đoạn mở cửa, cơng nghiệp hóa, đơ thị hóa phải
cùng lúc đối phó với mơ hình bệnh tật của các nước đang phát triển cũng như
đã phát triển, nhiều loại bệnh và nhiều vấn đề xã hội đặt ra liên quan đến tình
trạng sức khỏe của cá nhân và cộng đồng. Trường học là nơi giáo dục toàn
diện cho thế hệ trẻ cho nên làm tốt công tác giáo dục sức khỏe cũng có nghĩa
là làm tốt các nội dung giáo dục khác như: đức, trí, thể mỹ, lao động. Một

trường học giáo dục sức khỏe là một trường học có những hoạt động đặt ưu
tiên hàng đầu vào việc tạo ra mơi trường có ảnh hưởng tốt nhất cho sức khỏe
học sinh, giáo viên và cả cộng đồng ở bên ngồi nhà trường. Trường học là
nơi có thể có những can thiệp nhằm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe và phịng
bệnh có hiệu quả thơng qua các hoạt động truyền thơng giáo dục sức khỏe,
thực hiện các chính sách sức khỏe và dịch vụ sức khỏe.
Nhiều cơng trình nghiên cứu về sức khỏe học sinh trong các trường học
lần lượt được nghiên cứu. Tác giả Trần Văn Dần và cộng sự (1998) nghiên
cứu cho thấy tỉ lệ cận thị ở học sinh tiểu học là 9,6 %, tỷ lệ học sinh cận thị ở
Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cao như nhau[7]. Năm 2005, Tác giả Trần
Văn Dần và cộng sự Đào Thị Mùi nghiên cứu tình hình cong vẹo cột sống ở
học sinh Hà Nội ở các cấp là 18,9% các nguy cơ chủ yếu là do bàn ghế không


9

đúng chuẩn và tư thế ngồi sai của học sinh, sự thiếu hụt về kiến thức, thực
hành phòng tránh bệnh cong vẹo cột sống học đường của học sinh còn rất
thấp. Năm 2008, sau đánh giá thử nghiệm biện pháp phòng tránh cong vẹo cột
sống cho học sinh trường tiểu học Cổ Bi trong 2 năm học 2005-2006 và 20062007 cho kết quả tư thế ngồi học sai của học sinh tiểu học là vấn đề bức xúc
nhất[15]. Cho tới nay tại Việt Nam, mặc dù có nhiều nghiên cứu về y tế
trường học nhưng chủ yếu tập trung vào tình hình sức khỏe học sinh, tìm hiểu
về bệnh tật học đường[4], tai nạn thương tích và một số yếu tố ảnh hưởng như
nghiên cứu của tác giả Trần Văn Dần, nghiên cứu về cong vẹo cột sống của
Vũ Đức Thu, Chu Văn Thăng, Trần Thị Dung, Trần Công Huấn,…Tất cả
chưa thật sự đi sâu vào vấn đề chăm sóc và giáo dục sức khỏe cho sinh từng
cấp học cụ thể.
Sau hội nghị Alma Ata, ngành Y tế Việt Nam cũng đã xác định để giáo
dục sức khỏe (GDSK) ở vị trí số 1 trong 10 nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban
đầu của tuyến y tế cơ sở. Chính vì thế mà nước ta đã và lần lượt ban hành các

văn bản cụ thể hướng dẫn công tác chăm sóc và giáo dục sức khỏe cho học
sinh.
Thơng tư liên bộ Y tế và Giáo dục số 32/ TTLB ngày 27/02/1964 đã
hướng dẫn công tác vệ sinh trường học. Trong thời kỳ chiến tranh leo thang ra
miền Bắc, các trường học phải sơ tán ra miền núi, nông thôn, Bộ Y tế đã tiến
hành điều tra sức khỏe, bệnh tật của 20 000 học sinh ở 13 tỉnh thành trong 2
năm học 1966- 1967 và 1967-1968. Trước tình hình bệnh tật của học sinh gia
tăng, Chính phủ đã ban hành chỉ thị 46/TTG ngày 02/ 06/1969 giao trách
nhiệm cho các ngành các cấp phải giữ gìn và nâng cao sức khỏe học sinh.
Năm 1973 có thơng tư liên bộ 09/LB/YT- GD ngày 07/06/1973 hướng dẫn y
tế trường học, trong đó có phân cấp việc khám chữa bệnh và quản lý sức khỏe
học sinh từ tuyến y tế xã đến các bệnh viện thành phố. Đến năm 1982 có


10

thông tư liên bộ 13/LB/YT- GD ngày 09/06/1982 về việc đẩy mạnh công tác
vệ sinh trường học. Nhưng tiếc rằng sau khi ban hành còn thiếu sự chỉ đạo
phù hợp với tình hình mới của đất nước. Cuối thập kỷ 80, với tài trợ của
UNICEF, môn học giáo dục sức khỏe đã được thí điểm giảng dạy ở một số
trường tiểu học và đến năm 1996 sức khỏe được coi là môn học bắt buộc
trong 9 môn ở bậc tiểu học. Đến nay, mặc dù môn sức khỏe đã được tích hợp
lồng ghép trong mơn tự nhiên xã hội ở lớp1, 2, 3 và khoa học ở lớp 4, 5
nhưng vấn đề giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học vẫn là mơn học hết sức
cần thiết.
Chính việc lần lược ban hành các quy định trên đã chứng tỏ việc giáo
dục sức khỏe cho trẻ trong trường học là một việc làm hết sức cần thiết trong
thời đại ngày nay.
Trường học phải tổ chức tốt dạy tốt chương trình giáo dục sức khỏe
theo đúng quy định như thực hiện đầy đủ các quy chế, tiêu chuẩn vệ sinh do

Bộ Y tế và Bộ Giáo dục – Đào tạo ban hành. Trong các họat động của trường
học như giảng dạy, học tập, lao động,.. phải đảm bảo các yêu cầu hợp lý, an
tịan và hiệu quả. Sinh hoạt giải trí phải có nề nếp, điều độ, phù hợp với sức
khỏe, độ tuổi, giới tính. Xây dựng trường học là một điển hình về mơi trường
“Xanh - Sạch - Đẹp”…[23]. Trong tất cả các vấn đề trên việc giáo dục sức
khỏe cho học sinh tự biết chăm sóc sức khỏe cho bản thân, gia đình, cộng
đồng là một điều khơng kém phần quan trọng.
Như vậy, vấn đề GDSK cho học sinh các trường phổ thơng nói chung
và các trường tiểu học nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Tuy nhiên, các tài liệu chỉ đưa ra các nội dung và phương pháp giảng
dạy chứ chưa đề cập đến việc nâng cao chất lượng giảng dạy vấn đề này đi
vào chiều sâu và có chất lượng. Trên cơ sở kế thừa và phát huy các mội dung
nghiên cứu về giáo dục sức khỏe, chúng tôi vận dụng nghiên cứu vào việc đề


11

xuất “ Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục sức khỏe cho học
sinh tiểu học Quận 11, TP Hồ Chí Minh”.
1.2. Một số khái niệm cơ bản:
1.2.1. Sức khỏe:
Theo Tổ chức Y tế thế giới: "Sức khỏe là một trạng thái thoải mái
toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không chỉ là khơng có bệnh
hay thương tật”.[3] Sức khỏe là vốn q nhất của mỗi người, là nhân tố cơ
bản trong toàn bộ sự phát triển của xã hội. Có nhiều yếu tố tác động đến sức
khỏe của mỗi người: yếu tố xã hội, văn hố, kinh tế, mơi trường và yếu tố
sinh học như di truyền, thể chất. Muốn có sức khỏe tốt phải tạo ra môi trường
sống lành mạnh và địi hỏi phải có sự tham gia tích cực, chủ động của mỗi cá
nhân, gia đình và cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ và nâng cao sức khỏe.
Như vậy có thể hiểu sức khỏe gồm 3 mặt[31]:

1.2.1.1.Sức khỏe thể chất:
Thể hiện một cách tổng quát sự sảng khoái và thoải mái về thể chất.
càng sảng khoái, thoải mái, càng chứng tỏ là người khỏe mạnh. Cơ sở của
sự sảng khoái, thoải mái về thể chất là:
- Sức lực: Khả năng hoạt động của cơ bắp mạnh, có sức đẩy, sức kéo,
sức nâng cao do đó làm cơng việc chân tay một cách thoải mái như mang vác,
điều khiển máy móc, sử dụng cơng cụ.
- Sự nhanh nhẹn: Khả năng phản ứng của chân tay nhanh nhạy, đi lại,
chạy nhảy, làm các kỹ thuật, thao tác nhẹ nhàng, thoải mái
- Sự dẻo dai: Làm việc hoặc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên
tục mà không cảm thấy mệt mỏi.
- Khả năng chống đỡ được các yếu tố gây bệnh: ít ốm đau, nếu có bệnh
cũng nhanh chóng khỏi, chóng hồi phục.


12

- Khả năng chịu đựng được các điều kiện khắc nghiệt của mơi trường:
chịu nóng, lạnh, thời tiết thay đổi đột ngột.
Cơ sở của các điểm vừa nêu chính là trạng thái thăng bằng của mỗi hệ
thống và sự thăng bằng của 4 hệ thống: tiếp xúc, vận động, nội tạng và điều
khiển cơ thể.
1.2.1.2.Sức khỏe tinh thần:
Là hiện thân của sự thỏa mãn vể mặt giao tiếp xã hội, tình cảm và tinh
thần. Thể hiện ở sự sảng khối, cảm giác dễ chịu, cảm xúc vui tươi, thanh
thản; ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời; ở những quan niệm sống tích cực,
dũng cảm, chủ động; ở khả năng chống lại những quan niệm bi quan, lối sống
không lành mạnh.[3]
Có thể nói: Sức khỏe tinh thần là nguồn lực để sống khỏe mạnh; là nền
tảng cho chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin

và hiệu quả với mọi thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khỏe tinh thần
cho ta khí thế để sống năng động, để đạt được mục tiêu đặt ra trong cuộc sống
và tương tác với người khác với sự tơn trọng và cơng bằng. Sức khỏe tinh
thần chính là biểu hiện của nếp sống lành mạnh, văn minh, có đạo đức. Cơ sở
của sức khỏe tinh thần là sự thăng bằng và hài hòa trong hoạt động tinh thần
giữa lý trí và tình cảm.
1.2.1.3.Sức khỏe xã hội:
Là sự hòa nhập của cá nhân với cộng đồng. Như Mác nói: “Con người
là sự tổng hịa các mối quan hệ xã hội”. Sức khỏe xã hội thể hiện ở sự thoải
mái trong các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa thành viên: gia đình, nhà
trường, bạn bè, xóm làng, nơi cơng cộng và cơ quan. Nó thể hiện sự được
chấp nhận và tán thành của xã hội. Càng hòa nhập với mọi người, được mọi
người đồng cảm, yêu mến càng có sức khỏe tốt và ngược lại. Cơ sở của sức
khỏe xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền lợi cá nhân với hoạt


13

động và quyền lợi xã hội, của những người khác; là sự hịa nhập giữa cá nhân,
gia đình và xã hội.[3]
Ba mặt sức khỏe trên liên quan chặt chẽ với nhau. Nó là sự thăng bằng,
hài hịa của tất cả những khả năng sinh học, tâm lý và xã hội của con người.
Nó là cơ sở quan trọng của hạnh phúc con người. Cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã nói : “Sức khỏe là sức sống, là lao động sáng tạo, là tình yêu và
hạnh phúc”.
1.2.2. Giáo dục và giáo dục sức khỏe:
1.2.2.1.Giáo dục:
Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần
có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.[21]

Như vậy, có thể nói giáo dục là q trình tổ chức có ý thức, hướng tới
mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của
người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hồn thiện
nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngồi, góp phần
đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.
Theo từ “Giáo dục” tiếng Anh là “Education” vốn có gốc từ tiếng La
Tinh “Educare” có nghĩa “làm bộc lộ ra”. Có thể hiểu “Giáo dục là quá trình,
cách thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục”.
Theo nghĩa rộng, giáo dục bao gồm việc dạy và học và đơi khi nó cũng
mang ý nghĩa như là quá trình truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy
luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo dục là nền tảng cho sự truyền
thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác[25]. Giáo dục là phương
tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mọi cá
nhân, đánh thức trí tuệ của mọi người. Nói một cách khác, giáo dục được hiểu
là quá trình hình thành và phát triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các


14

hoạt động từ bên ngồi: từ nhà trường, gia đình, xã hội, từ môi trường tự
nhiên và môi trường nhân tạo.Ví như, ảnh hưởng của các hoạt động đa dạng
nội khóa, ngoại khóa của nhà trường, ảnh hưởng của lối dạy bảo, nếp sống
trong gia đình, ảnh hưởng của vở kịch, những cuốn phim, những tin tức trên
màn hình, ảnh hưởng của những cuốn sách báo, tạp chí,…
Theo nghĩa hẹp, giáo dục được hiểu như là quá trình tác động tới thế hệ
trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức và hành vi nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng,
động cơ, thái độ và những thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội.
Theo đó, giáo dục trước hết là sự tác động của nhân cách này tới
nhân cách khác, tác động của những nhà giáo dục đến người được giáo
dục cũng như tác động của những người được giáo dục với nhau[20]. Để

giáo dục nhân cách con người, cần được xây dựng môi trường nhà trường,
môi trường xã hội lành mạnh, đồng thời cần duy trì, tân tạo mơi trường tự
nhiên và sáng tạo ra mơi trường nhân tạo có tính thẩm mỹ cao.
1.2.2.2.Khái niệm về giáo dục sức khỏe:
Có nhiều định nghĩa về GDSK và định nghĩa đầu tiên có từ năm 1943.
Cho đến nay việc định nghĩa GDSK vẫn chưa hoàn chỉnh, thống nhất.
“Giúp quần chúng đạt được sức khỏe bằng chính nổ lực của họ”Badgly
1975;
“Một hoạt động nhằm vào các cá nhân để đưa đến việc thay đổi hành
vi”WHO, 1977;
“…bao gồm những hoạt động nhằm thông tin, động viên và giúp đỡ
quần chúng chấp nhận và duy trì những hành vi có lợi cho sức
khỏe…”Taskforce on HE, NY 1976;
“…là sự kết hợp toàn bộ các kinh nghiệm rèn luyện có kế hoạch nhằm
thúc đẩy sự thích nghi một cách tự nguyện những hành vi dẫn tới sức khỏe
“L.W Green, 1980;[2]


15

“…là một quá trình nhằm giúp nhân dân tự thay đổi những hành vi có
hại cho sức khỏe để chấp nhận thực hiện những hành vi tăng cường sức
khỏe”Bộ Y tế (1993);
GDSK là “một nghề nghiệp tận dụng các tiến trình giáo dục sức khỏe
và nâng cao sức khỏe để đẩy mạnh hành vi sức khỏe và thay đổi các điều kiện
ảnh hưởng đến hành vi này cũng như các điều kiện ảnh hưởng đến sức khỏe”.
Bruce G.Simons-Morton, Walter H.Greene, Nell Gottlieb (1995);[1]
Giáo dục sức khỏe (GDSK) là một trong những nhiệm vụ quan trọng
trong cơng tác chăm sóc sức khỏe, góp phần giúp mọi người đạt được tình
trạng sức khỏe tốt nhất. Sức khỏe là vốn quí nhất của mỗi người, là nhân tố cơ

bản trong toàn bộ sự phát triển của xã hội.
Giáo dục sức khỏe là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch,
bằng nội dung và phương pháp khoa học của các nhà giáo dục, các
phương tiện truyền thơng đến tình cảm, lý trí của con người nhằm thay đổi
hành vi, thói quen sức khỏe có hại thành hành vi có lợi cho sức khỏe cá
nhân và cộng đồng.[3]
Thông tin

Người làm GDSK

Đối tượng GDSK

Đáp ứng

Giáo dục sức khỏe làm thay đổi hành vi sức khỏe: từ việc thay đổi nhận
thức, thái độ bảo vệ và tự bảo vệ sức khỏe cá nhân và tập thể, đến niềm tin, từ
đó hình thành những kỹ năng thích hợp.


16

1.2.3.Bản chất của quá trình giáo dục sức khỏe
GDSK là tác động có mục đích, có kế họach đến tình cảm, lý trí của con
người nhằm thay đổi hành vi sức khoẻ có hại thành những hành vi sức khoẻ
có lợi cho cá nhân và cộng đồng[3].
a) Giáo dục sức khỏe làm thay đổi hành vi sức khỏe[3]: thay đổi hành
vi sức khỏe, tạo lập hành vi có lợi cho sức khỏe là bản chất quyết định trong
GDSK. Giáo dục sức khỏe là một q trình truyền thơng: bao gồm những tác
động tương hỗ thông tin hai chiều giữa người GDSK và đối tượng được
GDSK. Chính đối tượng giáo dục cũng giúp cho người làm GDSK kịp thời

điều chỉnh mục tiêu, nội dung và phương pháp GDSK cho thích hợp nhằm
làm thay đổi hành vi sức khỏe cũ có hại để hình thành hành vi sức khỏe mới
có lợi cho sức khỏe. Đây là điều mong muốn của người làm giáo dục sức
khỏe. Như vậy, GDSK là một quá trình khép kín được khái qt hố như sơ
đồ sau:

Vấn đề sức khỏe

Mục tiêu GDSK

Nội dung GDSK

Đối tượng chính

Đánh giá kết quả

b) Giáo dục sức khỏe là một quá trình tác động tâm lý:
Đối tượng GDSK sẽ đạt kết quả tốt trong những điều kiện tâm lý sau:
- Thoải mái thể chất cũng như tinh thần, tức là phải có sức khỏe tránh
được các yếu tố tác động từ bên trong và bên ngoài ảnh hưởng bất lợi tới việc
tiếp thu, thay đổi hành vi sức khỏe.
- Nhận thức rõ được lợi ích thiết thực của việc thực hiện mục tiêu học
tập, từ đó định hướng đúng đắn mọi hành động để dẫn đến sự thay đổi hành vi


17

sức khỏe. Được khuyến khích để nâng cao tính tích cực, chủ động tham gia
vào quá trình làm thay đổi hành vi sức khỏe của bản thân và cộng đồng.
- Kinh nghiệm của mỗi cá nhân cần được khai thác và vận dụng vào

thực tế để kiểm nghiệm tác dụng, lợi ích cho từng việc làm.
- Người được GDSK cần được biết về kết quả thực hành của bản thân
thông qua việc đánh giá và tự đánh giá để không ngừng tự hoàn thiện các
hành vi. “Giáo dục sức khỏe chủ yếu là giúp người dân thay đổi các hành
vi sức khỏe theo kế hoạch”[3]. Dưới đây là các bước của quá trình thay đổi
hành vi:
+ Bước 1. Nhận ra vấn đề: Muốn cho một cá nhân hay cộng đồng nào
đó thay đổi hành vi cũ có hại cho sức khỏe và thực hành các hành vi có lợi
cho sức khỏe thì việc đầu tiên cần thực hiện là người làm giáo dục sức khỏe
phải cung cấp kiến thức, thông tin, động viên, giải thích cho các cá nhân hay
mọi người trong cộng đồng nhận ra và hiểu vấn đề của họ. Bước này có thể
thực hiện bằng cách cung cấp các thông tin qua các phương tiện thông tin đại
chúng, nêu ra các ví dụ minh hoạ, gặp gỡ người dân trong cộng đồng để nghe
họ nói về vấn đề của họ, thảo luận trực tiếp với họ để giúp họ hiểu rõ và quan
tâm đến vấn đề của chính họ, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các bước sau
của quá trình thay đổi hành vi. Sẽ khơng có chuyển biến nếu như cá nhân,
cộng đồng chưa có kiến thức để nhận vấn đề của họ.
+Bước 2. Quan tâm đến hành vi mới: Tiếp theo khi đã có kiến thức
về vấn đề sức khỏe nào đó thì nghĩa là họ phải tin là nó có giá trị thiết thực,
cần thiết và giúp ích cho sức khỏe và đời sống của họ. Ví dụ làm cho cộng
đồng nhận ra bệnh tiêu chảy là bệnh nguy hiểm đặc biệt với trẻ em dưới 5
tuổi, làm cho họ tin là các con em họ có thể bị mắc tiêu chảy nếu họ duy trì
các hành vi cũ. Họ cũng phải tin là bệnh tiêu chảy có thể phịng tránh được thì


18

họ sẽ khơng phịng ngừa nó dù họ có được giáo dục bao nhiêu về bệnh tiêu
chảy.
+Bước 3. Áp dụng thử nghiệm các hành vi mới: nhờ có kiến thức và

thái độ quan tâm đến hành vi mới của người dân cộng với các yếu tố khác của
các hoàn cảnh cụ thể và mơi trường xung quanh họ có thể thử áp dụng các
hành vi mới. Giai đoạn này cần sự hỗ trợ của những người khác.
+Bước 4. Đánh giá kết quả thử nghiệm hành vi mới: Thường sau khi
áp dụng các hành vi mới mọi người sẽ đánh giá kết quả thu được, tìm ra
những khó khăn thuận lợi để đi đến bước cuối cùng là duy trì hay từ chối
hành vi mới.
+Bước 5. Khẳng định: Khi phân tích kết quả đạt được của việc thử
nghiệm hành vi mới, người dân sẽ đi đến quyết định thực hiện hay từ chối.
Nếu họ thu được kết quả tốt, khơng có khó khăn gì đặc biệt thì họ tiếp tục duy
trì hành vi mới. Nếu họ chưa hiểu, gặp khó khăn, thiếu sự hỗ trợ thì họ đi đến
phủ nhận hành vi mới. Và nếu như họ phủ nhận thì cán bộ giáo dục sức khỏe
lại phải giúp họ quay trở lại các bước trên. Người làm giáo dục sức khỏe cần
phải hiểu trình tự các bước thay đổi hành vi sức khỏe trên, nó có vai trị khá
quan trọng vì ở các giai đoạn khác nhau của quá trình thay đổi hành vi lại có
những tác động hỗ trợ khác nhau cho thích hợp với q trình đó. Ví dụ nếu
đối tượng thiếu hiểu biết chưa nhận ra vấn đề thì cần phải cung cấp các thơng
tin, nếu đối tượng có thái độ chưa đúng thì cần hỗ trợ tâm lý, trực tiếp thảo
luận với đối tượng để họ có niềm tin. Giai đoạn thử nghiệm cần giúp họ
những kỹ năng nhất định. Dựa trên những cơ sở tâm lý này, người giáo dục
phải lựa chọn phương pháp, phương tiện truyền thông giáo dục sức khỏe phù
hợp cho từng đối tượng để GDSK đạt hiệu quả tối ưu nhất.
1.2.4. Chất lượng giáo dục sức khỏe:
1.2.4.1.Chất lượng:


19

Chất lượng phạm trù triết học biểu thị những thuộc tính bản chất của sự
vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật để phân biệt nó với

các sự vật khác (theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam). Tiêu chuẩn
ISO9000:2000 đưa ra định nghĩa về chất lượng: “Chất lượng là khả năng của
tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá trình để đáp ứng các
yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan”[26]. Chất lượng là khái
niệm bao hàm nhiều yếu tố. Nó được định nghĩa không những là sự phù hợp
với mục tiêu mà cịn chứa đựng trong đó tính có thể tin cậy được, tính bền
vững, tính thẩm mỹ. Chất lượng cịn được định nghĩa khác nhau từ những góc
nhìn khác nhau. Trong giáo dục, các yêu cầu đối với học sinh cũng được định
nghĩa trong các mối quan hệ đa chiều. Như vậy, trong giáo dục, chất lượng
thường được định nghĩa như sự phù hợp với mục tiêu. Chất lượng được xem
là một đích tới ln thay đổi, phụ thuộc vào các mục tiêu của một hệ thống
giáo dục cụ thể. Nói cách khác, “ Chất lượng là sự đáp ứng với mục, và mục
tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.”[31]
Hiện nay, chất lượng giáo dục ở Việt Nam được xem là sự đáp ứng
mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục của
Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
1.2.3.2.Chất lượng của quá trình giáo dục sức khỏe:
Chất lượng là sự đáp ứng mục tiêu của GDSK. Chất lượng giáo dục sức
khỏe là sự đáp ứng các mục tiêu giáo dục sức khỏe làm cho cá nhân và cộng
đồng hiểu được bản chất của quá trình giáo dục sức khỏe và các yếu tố ảnh
hưởng đến sức khỏe từ đó sửa đổi những thói quen có hại, tạo lập cho mình
các hành vi có lợi cho sức khỏe bản thân và cộng đồng. Chất lượng giáo dục
sức khỏe thể hiện ở việc đem lại cho các cá nhân đó kiến thức, nhận thức về
tầm quan trọng của sức khỏe, thái độ và kỹ năng xây dựng một lối sống lành


20

mạnh, thể hiện ở tính tự nguyện và tự giác thay đổi hành vi sức khỏe của

chính mình.
1.2.3.3.Chất lượng của quá trình giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học:
Chất lượng giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học là kết quả của các hoạt
động truyền thông, hướng dẫn, giảng dạy các nội dung và phương pháptrong
nhà trường để học sinh tự chăm sóc và bảo vệ, nâng cao sức khỏe, phòng
ngừa bệnh tật, sửa đổi tập quán, thói quen có hại cho sức khỏe. Thơng qua
GDSK, chúng ta giúp học sinh và gia đình hiểu rõ các hành vi của mình và
biết được các hành vi đó có ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe.
Học sinh sẽ tự tạo ra và bảo vệ sức khỏe bản thân và cộng đồng bằng chính nổ
lực và hành động của cá nhân. Học sinh tự chịu trách nhiệm và quyết định lấy
những hành động và biện pháp bảo vệ sức khỏe của mình. Học sinh biết sử
dụng các dịch vụ y tế có thể giải quyết các nhu cầu sức khỏe và các vấn đề
sức khỏe của bản thân.
1.2.4. Biện pháp giáo dục sức khỏe:
1.2.4.1.Biện pháp:
Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Biện pháp là phương pháp giải
quyết một vấn đề cụ thể nào đó”. “Biện pháp là cách thức giải quyết cho một
nội dung, một vấn đề nào đó đạt hiệu quả”[20]. Như vậy có thể hiểu biện
pháp là cách thức, phương pháp để thực hiện giải quyết một vấn đề nào đó
cịn vướng mắc, chưa đạt hiệu quả như mong đợi.
1.2.4.2. Biện pháp giáo dục:
Theo bachkhoatoanthu.gov.vn: Biện pháp giáo dục là cách thức tổ chức
nội dung giáo dục nhằm tác động đến tinh thần người học hoặc nhóm người
học làm cho họ có được những phẩm chất năng lực theo yêu cầu đã định.
Biện pháp giáo dục là cách thức tác động một cách có hệ thống đến sự phát


21

triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần

có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
1.2.4.3.Biện pháp giáo dục bảo vệ sức khỏe:
Dựa trên khái niệm chung về biện pháp và biện pháp giáo dục, chúng tôi
đưa ra khái niệm về biện pháp giáo dục sức khỏe như sau:
Biện pháp giáo dục sức khỏe là cách thức tổ chức nội dung giáo dục
sức khỏe cho học sinh nhằm hình thành ở các em nhận thức, thái độ và hành
vi đúng đắn về sức khỏe. Biện pháp giáo dục sức khỏe là cách thức tổ chức
thong qua các hoạt động giáo dục nhằm giúp con người có được sự hiểu biết,
kĩ năng và giá trị tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển con người hoàn
thiện trong một xã hội bền vững. Các biện pháp thực hiện phải nhằm vào việc
vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào gìn giữ, bảo vệ, chăm sóc nâng cao
sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật, sửa đổi tập quán, thói quen có hại cho sức
khỏe, xây dựng lối sống lành mạnh có lợi cho sức khỏe. Từ đó, giúp cho mọi
đối tượng tự nguyện, tự giác thay đổi hành vi sức khỏe có lợi cho cá nhân và
cộng đồng.
1.3.Giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học.
1.3.1. Mục đích, yêu cầu của giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học:
1.3.1.1. Mục đích:
Giáo dục sức khỏe (GDSK) là các họat động hướng dẫn, truyền thông,
giảng dạy các nội dung và phương pháp để chăm sóc, bảo vệ, nâng cao sức
khỏe, phịng ngừa bệnh tật, sửa đội tập qn, thói quen có hại cho sức khỏe,
xây dựng lối sống lành mạnh có lợi cho sức khỏe[3]. Giáo dục sức khỏe nhằm
giúp mọi người:
- Tự tạo ra, bảo vệ và nâng cao sức khỏe của cá nhân và cộng đồng
bằng chính những hành động và nổ lực của cá nhân.


22

- Tự chịu trách nhiệm và quyết định lấy những hoạt động và biện pháp

bảo vệ sức khỏe của mình.
- Tự giác chấp nhận và duy trì lối sống lành mạnh, từ bỏ những thói
quen tập quán có hại cho sức khỏe cá nhân và cộng đồng.
- Biết sử dụng các dịch vụ y tế có thể được giải quyết các nhu cầu sức
khỏe và các vần đề của cá nhân và cộng đồng.
Tóm lại, mục đích của giáo dục sức khỏe là giúp mọi đối tượng tự
nguyện, tự giác thay đổi hành vi sức khỏe của chính mình.
Trên cơ sở đó mục đích của việc giáo dục sức khỏe cho học sinh là:
- Học sinh hiểu biết về những vấn đề sức khỏe và nhu cầu về sức khỏe
của bản thân các em.
- Xây dựng lối sống lành mạnh, khoa học thông qua những biểu hiện
đúng đắn trong quan niệm về sức khỏe và thái độ sống để học sinh có thể lựa
chọn cách nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của bản thân.
- Cải tiến môi trường sức khỏe trường học và gia đình.
- Thúc đẩy vai trò học sinh trong việc phổ biến những hiểu biết về sức
khỏe cho gia đình và cộng đồng, tích cực ủng hộ, hưởng ứng các chương trình
sức khỏe được thực hiện ở địa phương.
1.3.1.2. Yêu cầu:
Nội dung chương trình GDSK ở trường học phải được gắn liền với nội
dung chăm sóc sức khỏe ban đầu của Nhà nước được tiến hành ở địa phương.
Phương pháp giảng dạy phải trên nguyên tắc “Mọi người cùng tham gia”, học
sinh được hướng dẫn thực hành các kỹ năng, hành vi sức khỏe lành mạnh.[3]
Để chọn ra một phương pháp giảng dạy giảng dạy hiệu quả, giáo viên
cần lưu ý:
- Sự thích hợp của vấn đề.
- Hấp dẫn đối với học sinh.


23


- Thích hợp đối với lứa tuổi và lớp học.
- Mức độ khuyến khích học sinh tham gia bằng những họat động và
công việc thực tế của họ.
- Thời gian và phương tiện có thể được.
- Sự phù hợp với năng khiếu và khuynh hướng của giáo viên.
- Đáp ứng nhu cầu địa phương.
1.3.2. Nội dung giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu học:
Giáo dục sức khỏe là một bộ phận hữu cơ, không thể tách rời của hệ
thống y tế là một chức năng nghề nghiệp bắt buộc của mọi cán bộ y tế và của
mọi cơ quan y tế từ trung ương đến cơ sở. GDSK cũng là một chỉ tiêu hoạt
động quan trọng của cơ sở y tế[23].
Giáo dục sức khỏe là một hệ thống các biện pháp Nhà nước, xã hội và
y tế, nghĩa là phải xã hội hố cơng tác này, nhằm lơi cuốn mọi ngành, mọi
giới, mọi tổ chức xã hội cùng tham gia, trong đó ngành y tế làm nịng cốt và
tham mưu.
Nguyên tắc chọn nội dung giáo dục sức khỏe: Dựa vào mục đích
GDSK đã xác định và kiến thức y học mà chúng ta có, những người làm
GDSK vạch ra những nội dung cần phải giáo dục phù hợp với đối tượng,
trong đó cần phân định rõ:
- Những gì phải biết: Phải giới hạn được chủ đề , tránh mở rộng miên
man và đưa ra nhiều thông tin một lúc. Những thông tin phải biết là những
thông tin mà đối tượng khi được biết họ có thể tiếp thu và thực hiện được.
- Những gì cần biết (thơng tin hổ trợ): Giúp cho đối tượng hiểu biết
nhiều hơn, có liên quan mật thiết đến các vấn đề cần được giáo dục.
- Những gì nên biết: Giúp cho đối tượng nắm vững chủ đề và có thể
giải đáp một số câu hỏi, thắc mắc của người khác.


24


- Lựa chọn nội dung GDSK: sau khi đã có một tập hợp những kiến
thức và kỹ năng cần thiết phục vụ cho mục tiêu GDSK, những người làm
GDSK cần biết lựa chọn các thơng tin thích hợp để sọan thành “Một bài giáo
dục sức khỏe ” cụ thể, đáp ứng yêu cầu của một bài viết.
Những nội dung chủ yếu của giáo dục sức khỏe cho học sinh tiểu
học: Nội dung GDSK phải xuất phát từ thực tiễn và phù hợp với lứa tuổi, với
những kiến thức mà các em học được ở từng cấp học, bậc học.[31]
1.3.2.1.Vệ sinh cá nhân:
Cần giáo dục cho học sinh biết thực hành các hành vi vệ sinh cá nhân
có lợi cho sức khỏe, khắc phục, loại bỏ các thói quen mất vệ sinh, có hại cho
sức khỏe. Vệ sinh cá nhân bao gồm: vệ sinh thân thể, vệ sinh trang phục…
1.3.2.2.Vệ sinh môi trường:
Cần giáo dục cho học sinh hiểu biết rõ về các nguy cơ gây bệnh có khi
tổn hại đến tính mạng con người như khơng khí và nước ơ nhiễm, phân rác
không được xử lý, các côn trùng trung gian truyền bệnh phát triển.
Vệ sinh môi trường bao gồm: vệ sinh gia đình, vệ sinh trường học, vệ
sinh học tập, vệ sinh trong lao động, luyện tập thể thao phù hợp với lứa tuổi,
giới tính để phịng tránh bệnh tật, tai nạn thương tích thường gặp và nâng cao
sức khỏe cho mỗi cá nhân.
1.3.2.3.Dinh dưỡng và vệ sinh ăn uống:
Cải tiến bữa ăn, dinh dưỡng hợp lý. Đảm bảo vệ sinh an tồn lương
thực thực phẩm. Phịng tránh ngộ độc thức ăn và các bệnh do rối loạn dinh
dưỡng (suy dinh dưỡng, béo phì, bướu cổ, thiếu máu). Đảm bảo vệ sinh ăn
uống.
1.3.2.4.Phòng chống dịch bệnh và các vấn đề xã hội:
Có những hiểu biết về các bệnh lây truyền thành dịch, các bệnh lây
truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS.Phòng chống các vấn đề xã hội như:


25


mại dâm; ma túy; nghiện thuốc lá; rượu bia; xâm hại cơ thể;…Phát hiện các
yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe theo từng lứa tuổi, giới tính, cấp bậc
học.
1.3.2.5.Rèn luyện lối sống:
Cần giáo dục cho học sinh biết tạo nên lối sống, nếp sống văn hóa, có
thói quen văn minh, lịch sự, khắc phục những thói quen, lối sống khơng lành
mạnh, lạc hậu, có hại cho sức khỏe và chất lượng cuộc sống của con người.
Biết vận dụng kỹ năng sống để ứng phó với những thử thách hàng ngày
của cuộc sống nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho cá nhân, gia đình và
cộng đồng.
Để GDSK cho học sinh đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải được sự quan tâm
của chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội và các bậc phụ huynh, đồng
thời phải xây dựng môi trường nhà trường trở thành “Trường học nâng cao
sức khỏe” để học sinh có điều kiện thực hiện tốt các nội dung GDSK mà nhà
trường đã truyền thụ.
1.3.3. Phương pháp và hình thức giáo dục sức khỏe:
1.3.3.1 Phương pháp giáo dục (PPGD):
PPDH là cách thức hoạt động của giáo viên, được thực hiện trong
quá trình dạy học để tác động đến người học và việc học của họ nhằm
hướng dẫn họ học tập và giúp họ đạt mục tiêu học tập. [19]
Mỗi mơ hình lí luận dạy học, PPDH đều có những điểm mạnh, điểm
hạn chế nhất định. GDSK có chất lượng thể hiện ở các tiêu chí về kiến thức,
thái độ và hành vi, trong đó chủ yếu là hành vi. Để đạt được điều đó phương
pháp dạy học và giáo dục đóng vai trị quan trọng. Phương pháp dạy học cũng
như giáo dục phải huy động đến mức tối đa sự tham gia đóng góp của học
sinh vào họat động học tập và thực tiễn bảo vệ sức khỏe. Quán triệt tư tưởng



×