Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12( Qua khảo sát tại trường THPT Nguyễn Trãi, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.36 KB, 107 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

LÊ THỊ VÂN ANH

KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH
VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC
MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
(QUA KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI,
THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA)

Chuyên ngành: Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn Chính trị
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học:

TS. TRẦN VIẾT QUANG

NGHỆ AN - 2013


2

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ
của nhiều tổ chức, nhiều thầy cô giáo cũng như các đồng nghiệp. Với tình cảm
chân thành nhất, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:


Ban Giám hiệu trường Đại học Vinh, Phòng Sau đại học, Ban Chủ nhiệm
Khoa Giáo dục Chính trị cùng tất cả các Thầy cô giáo tham gia giảng dạy lớp Cao
học khóa 19 chuyên ngành Lý luận và phương pháp giảng dạy bộ môn Chính trị
trường Đại học Vinh, Ban Giám hiệu trường THPT Nguyễn Trãi – Thành phố
Thanh Hóa cũng như tổ chuyên môn, đồng nghiệp trong nhà trường, gia đình và
các bạn cùng lớp Cao học đã tạo điều kiện giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất, sâu sắc nhất đến TS. Trần
Viết Quang – Thầy giáo đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi trong thời gian học
tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An , tháng 10 năm 2013
Tác giả

Lê Thị Vân Anh


3

MỤC LỤC
Trang
A.
B.

MỞ ĐẦU...................................................................................................6
NỘI DUNG.............................................................................................12

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỦA VIỆC KẾT HỢP
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12.................12


1.1. Cơ sở lý luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12.......................12
1.2. Thực trạng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn
đề trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT Nguyễn
Trãi, Thành phố Thanh Hóa....................................................................36
Kết luận chương 1............................................................................................44
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP THUYẾT
TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO
DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG NGUYỄN
TRÃI, THÀNH PHỐ THANH HOÁ.............................................................44

2.1. Chuẩn bị thực nghiệm...............................................................................46
2.2. Nội dung thực nghiệm...............................................................................47
2.3. Kết quả thực nghiệm.................................................................................70
Kết luận chương 2............................................................................................74
CHƯƠNG 3. QUY TRÌNH VÀ GIẢI PHÁP KẾT HỢP PHƯƠNG PHÁP
THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY
HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12 Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG NGUYỄN TRÃI, THÀNH PHỐ THANH HÓA.............76

3.1. Quy trình vận dụng phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề
trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12........................................76


4

3.2. Một số giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu
vấn đề trong dạy học môn giáo dục công dân lớp 12 .............................87
Kết luận chương 3............................................................................................98

C.
D.
E.

KẾT LUẬN..........................................................................................100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................103
PHỤ LỤC.............................................................................................107


5

NHỮNG CHỮ VIẾT VẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

Phương pháp dạy học:

PPDH

Phương pháp truyền thống:

PPTT

Phương pháp hiện đại:

PPHĐ

Trung học phổ thông:

THPT

Sách giáo khoa:


SGK

Sách giáo viên:

SGV

Công nghệ thông tin:

CNTT

Giáo dục công dân:

GDCD

Ủy ban Nhân dân:

UBND

Ban Giám hiệu:

BGH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa:

CNH, HĐH


6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hội nhập quốc tế, giáo
dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng ngày càng có vị trí và tầm quan
trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới. Do vậy, giáo dục phổ
thông cần phải đổi mới một cách căn bản và toàn diện, trong đó đổi mới phương
pháp dạy học có vai trò hết sức đặc biệt. Luật Giáo dục 2005 chỉ những quan điểm
cơ bản về phương pháp giáo dục phổ thông: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện, kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh ”.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên phải nắm vững và phải biết vận
dụng linh hoạt các phương pháp dạy học. Thực tế cho thấy, không có bất kỳ một
phương pháp dạy học nào được xem là tối ưu, hoàn hảo nhất. Mỗi một phương
pháp đều có những ưu điểm và hạn chế riêng. Đồng thời, có những hạn chế của
phương pháp này lại được khắc phục bởi phương pháp khác. Bởi vậy, kết hợp giữa
các phương pháp trong dạy học nói chung, kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề nói riêng là đòi hỏi tất yếu trong quá trình dạy học.
Môn GDCD trong nhà trường phổ thông có vai trò rất quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách học sinh; giáo dục cho học sinh ý thức và hành
vi của người công dân; góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm
chất, năng lực cần thiết của công dân trong xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Môn GDCD lớp 12 trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về quyền và nghĩa
vụ của công dân trong một số lĩnh vực cơ bản qua đó giúp học sinh bước vào cuộc
sống đỡ bỡ ngỡ hơn và thích ứng nhanh với đời sống xã hội hơn, thực hiện một
cách chủ động cả quyền và nghĩa vụ của công dân.


7


Để thực hiện được mục tiêu chương trình GDCD lớp 12 người giáo viên phải
tích cực đổi mới phương pháp, đặc biệt phải biết kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học. Vì vậy trong thời gian qua các trường
THPT trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa nói chung và trường THPT Nguyễn Trãi
nói riêng trong quá trình giảng dạy đã tiến hành kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học GDCD thông qua một số tiết dạy, qua
đó chất lượng giờ dạy đã từng bước được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân khác nhau nên việc kết hợp hai phương pháp này trong dạy học môn
GDCD lớp 12 ở các trường THPT hiện nay còn có những hạn chế nhất định, do đó
môn học chưa thực sự lôi cuốn được học sinh, chưa phát huy được tính tích cực của
học sinh, chưa thực hiện tốt được mục đích, yêu cầu đề ra.
Từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12 (Qua
khảo sát tại Trường THPT Nguyễn Trãi, Thành phố Thanh Hóa)” làm đề tài
luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử, đã từng xuất hiện những nhà tư tưởng rất coi trọng vai trò của
người học, xem người học là chủ thể trong quá trình học, và tiêu biểu cho những
nhà tư tưởng đó là Khổng Tử - nhà giáo dục vĩ đại. Vấn đề đổi mới PPDH lấy
người học làm trung tâm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học cũng đã và đang được các nhà nghiên cứu, các nhà quản lí giáo dục trên thế
giới và Việt Nam bàn đến, đặc biệt là trong những năm gần đây.
Từ những năm cuối của thế kỉ XX, phương pháp dạy học nói chung và dạy
học môn GDCD nói riêng được nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục trong nước và
nước ngoài quan tâm nghiên cứu. Vấn đề phương pháp thuyết trình và phương
pháp dạy học nêu vấn đề cũng được đề cập trong nhiều sách, tạp chí, luận văn.
Trên thế giới đã có rất nhiều nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Có
thể kể ra một số tên tuổi tiêu biểu như: L.V.Reebroa, P.M. Erdonier hay I.F.



8

Khalarmov… Trong đó, I.F. Khalarmov – nhà giáo dục Xô Viết vĩ đại đã để lại cho
chúng ta một công trình khoa học có giá trị là “Phát huy tính tích cực của học sinh
như thế nào” (gồm 2 tập). Trong tác phẩm này ông đã chỉ ra rằng: “Tri thức trở
thành kiến thức thực sự khi HS chiếm lĩnh nó bằng sức lao động, sáng tạo của
mình” [45; 13].
Trong cuốn Những cơ sở của dạy học nêu vấn đề, V.Ôkôn, nhà xuất bản
Giáo dục năm 1976. Cuốn sách này đã đúc kết những kết quả tích cực của chương
trình thực nghiệm về dạy hoc nêu vấn đề, kích thích học sinh tích cực chủ động tìm
tòi, giải quyết vấn đề và đạt được kiến thức một cách vững vàng . I.I.Lecne đã phân
tích bản chất dạy học nêu vấn đề, cơ sở, tác dụng và phạm vi áp dụng phương pháp
nêu vấn đề trong cuốn Dạy học nêu vấn đề.
Ở Việt Nam, có nhiều công trình đề cập đến các phương pháp dạy học trong
quá trình giảng dạy môn GDCD nhằm góp phần đạt kết quả cao trong các giờ dạy
gồm các phương pháp truyền thống và phương pháp đổi mới như: Vương Tất Đạt,
Phương pháp dạy học môn giáo dục công dân Nhà xuất bản Hà Nội, năm 1994;
Nguyễn Cảnh Toàn – Lê Khánh Bằng, Thái Duy Tuyên, Phương pháp dạy học
truyền thống và đổi mới, Nhà xuất bản Giáo dục năm 2008; Nguyễn Cảnh Toàn,
Học và cách dạy học, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2004; Vũ Văn
Tạo, Dạy – học giải quyết vấn đề, một hướng đổi mới phương pháp giáo dục, đào
tạo, huấn luyện, Trường quản lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội năm 1996; Trần Thị
Minh, Kết hợp phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp tích cực để
nâng cao hiệu quả dạy học môn GDCD, 2006; “ Đổi mới dạy học môn đạo đức và
GDCD” của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân ( Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội năm
1998; “Góp phần dạy tốt, học tốt môn GDCD ở trường THPT” do tác giả Nguyễn
Đăng Bằng chủ biên ( Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội năm 2001)…
Các công trình trên đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề
phương pháp dạy học; quan hệ giữa PPTT và PPHĐ trong dạy học môn GDCD, từ

đó giúp giáo viên định hướng phương pháp dạy học phù hợp đối với nội dung từng


9

bài nhằm giúp người dạy vận dụng linh hoạt các phương pháp trong quá trình dạy
học.
Xung quanh vấn đề vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn
Giáo dục công dân cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu như: Nguyễn Thị Hồng
Thư, Vận dụng phương pháp nêu vấn đề để dạy tốt phần “Công dân với các vấn đề
chính trị - xã hội” chương trình Giáo dục công dân lớp 11 trung học phổ thông;
Mai Phú Bình, Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần Công dân
với các vấn đề chính trị - xã hội, chương trình Giáo dục công dân lớp 11, năm
2008; Nguyễn Vinh Quang, Sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học phần
“Công dân với kinh tế” chương trình giáo dục công dân lớp 11 trung học phổ
thông, năm 2009.
Liên quan đến phương pháp thuyết trình có các công trình tiêu biểu như:
Luận văn Cao học của tác giả Lê Thị Lan, năm 2011; Kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp đàm thoại trong dạy học phần “Công dân với việc hình
thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học” môn Giáo dục công dân lớp 10
(Qua khảo sát tại Trường THPT Tam Nông, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp),
Luận văn Cao học của tác giả Nguyễn Thế Diễn, năm 2012; “Sử dụng phương
pháp thuyết trình và phương pháp xêmina trong đổi mới phương pháp dạy học sinh
học ở trường CĐSP” của Ths Phan Thị Loan, Trường CĐSP Quảng Trị. Luận văn
Cao học của tác giả
Các công trình trên đã đề cập đến bản chất, vai trò, quy trình, giải pháp vận
dụng phương pháp thuyết trình và phương pháp dạy học nêu vấn đề trong dạy một
số phần của môn GDCD ở trường THPT giúp cho hoạt động dạy và học đạt kết quả
cao hơn.
Tuy nhiên, vấn đề kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu

vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12 (qua khảo sát tại trường THPT Nguyễn
Trãi, Thành phố Thanh Hóa), thì chưa công trình nào nghiên cứu một cách có hệ


10

thống và cụ thể. Các công trình của các tác giả trong và ngoài nước tạo cơ sở lý luận
để tác giả tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu, thực hiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phương
pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề, luận văn đề xuất quy trình và giải
pháp kết hợp hai phương pháp trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT.
3.2. Nhiệm vụ
- Chỉ ra sự cần thiết kết kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng kết hợp phương pháp thuyết trình với phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở Ttrường THPT Nguyễn Trãi,
Thành phố Thanh Hóa.
- Thực nghiệm sư phạm kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12 tại Trường THPT Nguyễn Trãi,
Thành phố Thanh Hóa.
- Đề xuất quy trình và giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu việc kết hợp phương pháp thuyết trình với phương pháp
nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12.
- Đề tài tập trung khảo sát, thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Nguyễn
Trãi, Thành phố Thanh Hóa.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và


11

đổi mới giáo dục; nội dung, chương trình môn học GDCD; lý luận dạy học và
phương pháp giảng dạy môn GDCD.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp thống kê và điều tra xã hội
học; phương pháp thực nghiệm sư phạm, v.v..
6. Giả thuyết khoa học
Nếu đề ra được quy trình và các giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình
với phương pháp nêu vấn đề một cách khoa học, phù hợp sẽ góp phần nâng cao
được chất lượng dạy học môn GDCD lớp 12 trong điều kiện hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp
phương pháp thuyết trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD nói
chung và dạy học chương trình GDCD lớp 12 nói riêng.
- Đề tài góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD ở trường THPT;
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên GDCD, cũng
như sinh viên ngành chính trị tại các trường Đại học, Cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc kết hợp phương pháp thuyết
trình với phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12.
Chương 2: Thực nghiệm sư phạm kết hợp phương pháp thuyết trình với

phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn
Trãi, Thành phố Thanh Hoá.
Chương 3: Quy trình và giải pháp kết hợp phương pháp thuyết trình với
phương pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Nguyễn
Trãi, Thành phố Thanh Hoá.


12

NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC KẾT HỢP
PHƯƠNG PHÁP THUYẾT TRÌNH VỚI PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ
TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
1.1. Cơ sở lý luận của việc kết hợp phương pháp thuyết trình và phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học môn GDCD lớp 12
1.1.1. Lý luận về phương pháp thuyết trình và phương pháp nêu vấn đề
1.1.1.1. Phương pháp thuyết trình
* Khái niệm phương pháp thuyết trình:
Thuyết trình là một trong những phương pháp dạy học truyền thống được
thực hiện trong hệ thống các nhà trường đã từ lâu và hiện nay mặc dù có một số
người cho rằng phương pháp này không còn phù hợp tuy nhiên đây vẫn là một
trong những phương pháp có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học và vẫn
được sử dụng khá phổ biến hầu hết ở tất cả các bộ môn đặc biệt là các môn khoa
học xã hội nói chung và môn GDCD nói riêng.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm và cách hiểu về phương pháp thuyết trình.
Có thể đưa ra một số quan niệm
“Thuyết trình là dùng lời nói của giáo viên để thuyết minh, trình bày một
vấn đề có tính lý luận, nhằm: truyền đạt, thông báo, bày tỏ nội dung khoa học nào
đó. Thuyết trình nhằm mục đích: truyền đạt kiến thức, thông báo hoặc lý thuyết hóa

nội dung khoa học” [9 ,27].
“ Thuyết trình là phương pháp giáo viên dùng lời nói để trình bày, giải thích
nội dung bài học một cách có hệ thống lôgíc, theo chủ đích nhất định, nhờ vậy
người học sẽ tiếp thu bài giảng một cách có ý thức” [12; 58].
Có thể hiểu phương pháp thuyết trình là học sinh tiếp thu hệ thống tri thức
đó từ giáo viên và xử lý tùy theo tính chủ thể của người học và yêu cầu của người
dạy. Đây chính là hình thức giáo viên dùng lời nói để thuyết minh, trình bày một


13

vấn đề có tính lý luận nhằm truyền đạt, thông báo, giải thích, bày tỏ nội dung nào
đó một cách lôgíc theo một chủ đích nhất định mà giáo viên muốn truyền tải đến
học sinh qua đó học sinh tiếp thu được bài giảng một cách có ý thức. Vì vậy đặc
điểm nổi bật của phương pháp này là tính thông báo – tái hiện. Phương pháp này đã
chỉ rõ tính chất thông báo bằng lời của thầy và tính chất tái hiện khi lĩnh hội tri thức
của trò. Đối với phương pháp này thì thầy nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa,
chuẩn bị bài giảng và trực tiếp điều khiển thông báo luồng thông tin tri thức đến
trò. Trò tiếp nhận những thông tin đó bằng việc nghe, nhìn cùng tư duy theo lời
giảng của thầy sau đó hiểu, ghi chép và ghi nhớ.
Đối với môn GDCD phương pháp thuyết trình giữ vai trò rất quan trọng,
trong dạy học giáo viên chỉ truyền thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản và thiết
thực song để học sinh có thể lĩnh hội được những tri thức trừu tượng của môn học
này một cách có hệ thống đòi hỏi giáo viên giảng dạy những nội dung cơ bản trong
SGK, mặt khác còn mở rộng có giới hạn tri thức sao cho học sinh tiếp thu tri thức
liên tục. Có thể thấy những kiến thức đến với trò theo phương pháp pháp này gần
như đã được thầy chuẩn bị sẵn để trò thu nhận do vậy hoạt động của trò tương đối
thụ động. Phương pháp thuyết trình chỉ cho phép người học đạt đến trình độ tái
hiện của sự lĩnh hội tri thức. Do đó theo hướng hoạt động hóa người học, cần hạn
chế bớt phương pháp thuyết trình thông báo – tái hiện mà tăng cường phương pháp

thuyết trình giải quyết vấn đề. Giáo viên đưa học sinh vào tình huống có vấn đề rồi
học sinh tự giải quyết vấn đề đặt ra. Theo hình mẫu đặt và giải quyết vấn đề mà
giáo viên trình bày, học sinh được học thói quen suy nghĩ lôgíc, biết cách phát hiện
vấn đề, đề xuất giả thuyết, thảo luận, làm thí nghiệm để kiểm tra các giả thuyết nêu
ra.
Thuyết trình kiểu đặt và giải quyết vấn đề thuần túy do giáo viên trình bày
cũng đã có hiệu quả phát triển tư duy của học sinh. Nếu được xen kẽ vấn đáp, thảo
luận một cách hợp lý thì hiệu quả sẽ tăng thêm. Giáo viên có thể đặt một số câu hỏi


14

có vấn đề để học sinh trả lời ngay tại lớp hoặc trao đổi ngắn trong nhóm từ 2 – 4
người ngồi cạnh nhau trước khi giáo viên đưa ra câu trả lời.
Có nhiều kiểu thuyết trình như: thuyết trình kiểu thuật truyện; thuyết trình
nêu vấn đề; thuyết trình kiểu mô tả, phân tích; thuyết trình kiểu nêu vấn đề có tính
giả thuyết; thuyết trình kiểu so sánh, tổng hợp; thuyết trình kiểu kết hợp các
phương tiện CNTT.
Phương pháp thuyết trình thể hiện dưới hình thức giảng giải, giảng thuật và
diễn giảng phổ thông.
Giảng thuật là một trong những phương pháp thuyết trình trong đó có yếu tố
miêu tả, trần thuật. Giảng thuật không chỉ được sử dụng trong các môn khoa học xã
hội – nhân văn mà còn cả trong những bộ môn khoa học tự nhiên. Nó được sử dụng
khi miêu tả những thí nghiệm, hiện tượng hoặc trình bày cuộc đời, sự nghiệp của
nhà bác học lỗi lạc; những thành tựu nổi tiếng trong khoa học công nghệ… Trong
giảng thuật giáo viên có thể trích những đoạn văn, thơ ngắn, những câu nói hay
những đoạn trích từ các tác phẩm văn học, các văn kiện lịch sử…để làm cho bài
giảng thêm sinh động, diễn cảm, giàu hình ảnh. Cũng có thể kết hợp sử dụng các
phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học để minh họa cho việc trình
bày của mình. Cũng có thể đặt những câu hỏi nhằm thu hút sự chú ý, định hướng sự

lắng nghe hoặc kích thích tích cực cũng như để kiểm tra hiệu quả việc lĩnh hội tri
thức của học sinh.
Giảng giải là một hình thức của phương pháp thuyết trình, là phương pháp
dạy học trong đó giáo viên dùng lời nói để giải thích cho học sinh và dùng những
luận cứ, số liệu để chứng minh một sự kiện, một hiện tượng, quy tắc, định lý, định
luật, công thức, nguyên tắc trong các môn học. Giảng giải chứa đựng các yếu tố
phán đoán, suy lý nên có nhiều khả năng phát triển tư duy lôgíc của học sinh.
Trong quá trình dạy học giảng giải thường kết hợp với giảng thuật. Giảng giải
thường được sử dụng khi giảng những tri thức mới.


15

Diễn giảng phổ thông là một trong những phương pháp thuyết trình trong đó
tri thức được tiếp thu theo hệ thống lôgic chặt chẽ gồm khối lượng kiến thức lớn, là
phương pháp nhằm trình bày một vấn đề hoàn chỉnh có tính chất phức tạp, trừu
tượng và khái quát trong một thời gian tương đối dài. Thông qua lời giảng của giáo
viên diễn giảng thường được áp dụng với những bài có nội dung tri thức phức tạp,
khó tưởng tượng và có tính khái quát hóa cao.
Cấu trúc lôgíc của phương pháp thuyết trình: Khi dùng phương pháp thuyết
trình để trình bày vấn đề nào đó cũng phải trải qua 4 bước đó là đặt vấn đề phát
biểu vấn đề, giải quyết vấn đề và kết luận rút ra từ vấn đề đó. Cụ thể:
Đặt vấn đề là bước đầu tiên nhằm thông báo vấn đề dưới dạng chung nhất,
tổng quát nhất, có phạm vi rộng để kích thích sự chú ý ban đầu của học sinh, tạo
tâm thế bắt đầu làm việc và định hướng nghiên cứu.
Phát biểu vấn đề là ngay khi thông báo vấn đề nghiên cứu giáo viên nêu ra
những câu hỏi cụ thể hơn, thu hẹp nhằm vạch ra phạm vi những vấn đề cần phải
xem xét tạo nhu cầu của học sinh đối với kiến thức gây hứng thú học tập đồng thời
vạch ra nội dung và dàn ý cần nghiên cứu.
Giải quyết vấn đề là bước này có thể tiến hành theo lôgíc quy nạp hay lôgíc

diễn dịch trong đó:
- Lôgíc quy nạp là con đường nhận thức từ sự kiện, hiện tượng đến cái
chung, cái khái quát; từ những trường hợp cụ thể đến quy luật, khái niệm, nguyên
tắc. Theo lôgíc quy nạp có thể có 3 cách trình bày thứ nhất là quy nạp phân tích
từng vấn đề đặt ra ở bước phát triển vấn đề tương đối độc lập với nhau vì vậy có
thể giải quyết từng vấn đề sau đó rút ra kết luận rồi chuyển sang giải quyết vấn đề
khác; thứ hai là quy nạp phát triển tức là nêu vấn đề được giải quyết theo lối móc
xích nghĩa là giải quyết xong từng vấn đề thì kết luận rút ra sẽ lại làm tiền đề cho
việc giải quyết vấn đề tiếp theo; thứ 3 là quy nạp song song đối chiếu là nêu vấn đề
đặt ra phải giải quyết chứa đựng những mặt tương phản, đối lập.


16

- Lôgic diễn dịch là con đường nhận thức từ nguyên lý chung đến cái cụ thể.
Theo lôgic diễn dịch, bắt đầu đưa ra các kết luận sơ bộ khái quát sau đó tiến hành
giải quyết có thể theo 3 cách: phân tích từng phần, phân tích phát triển, phân tích so
sánh – đối chiếu.
Kết luận là bước kết thúc việc trình bày vấn đề. Nó đưa ra sự kết tinh dưới
dạng xúc tích, chính xác những khái quát bản chất của vấn đề đưa ra xem xét. Kết
luận chính là câu trả lời cô đọng cho những câu hỏi đã được nêu lên ở bước 1, 2.
Cách đặt vấn đề và cách phát biểu vấn đề có thể tiến hành bằng cách thông
báo tái hiện hoặc có tính vấn đề. Cách giải quyết vấn đề có thể bằng lôgíc quy nạp
hay lôgíc diễn dịch điều đó chứng tỏ cấu trúc của phương pháp thuyết trình đã phản
ánh mặt bên trong và mặt bên ngoài của phương pháp dạy học nói chung và
phương pháp thuyết trình nói riêng.
Phương pháp thuyết trình có những ưu điểm và hạn chế:
+ Ưu đểm của phương pháp dạy học thuyết trình trong dạy học ở bậc THPT:
Đây là phương pháp dễ thực hiện, không đòi hỏi bất cứ một phương tiện dạy
học nào đối với giáo viên mà vẫn cung cấp được lượng kiến thức lớn tới học sinh.

Từ đó học sinh nắm một cách cơ bản nội dung mà giáo viên truyền đạt trên lớp.
Với cách diễn đạt lưu loát, rõ ràng, dễ hiểu phù hợp với lôgic nhận thức và trình độ
của học sinh. Sử dụng phương pháp này cho phép giáo viên truyền đạt những nội
dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp, chứa đụng nhiều thông tin mà học sinh tự
mình không dễ dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc. Trong một khoảng thời gian
ngắn ( 1 tiết học ) giáo viên có thể chuyển tải đến học sinh một khối lượng thông
tin cần thiết, cô đọng theo một cấu trúc lôgic chặt chẽ, phản ánh nội dung môn học
mà giáo viên đã chắt lọc được từ kho tàng tri thức của nhân loại. Đây là điểm
mạnh của phương pháp thuyết trình mà những phương pháp khác không dễ gì có
được. Thông tin trong SGK mà học sinh đọc thường lạc hậu hơn so với sự phát
triển hiện tại của những tri thức này trong thực tế. Do đó nếu sử dụng phương pháp
thuyết trình tốt sẽ cung cấp cho học sinh những thông tin cập nhật, chưa kịp trình


17

bày trong SGK từ những nguồn tài liệu khác nhau mà học sinh phải mất nhiều thời
gian, công sức mới tìm hiểu và tổng hợp được.
Phương pháp thuyết trình giúp cho học sinh nắm được hình mẫu về tư duy
lôgic, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để
diễn đạt những vấn đề khoa học một cách chính xác, rõ ràng, xúc tích thông qua
cách trình bày của giáo viên. Ngoài ra các bài thuyết trình còn cung cấp cho người
học khuôn mẫu về phương pháp nhận thức, phương pháp tổng hợp, phân tích, cấu
trúc tài liệu học tập, giúp học sinh có được phương pháp tự học. Bên cạnh đó
thuyết trình là hình thức giao tiếp trực tiếp giữa giáo viên và học sinh vì vậy khi
thuyết trình giáo viên có thể thường xuyên thay đổi các biện pháp, thủ thuật thuyết
trình và điều chỉnh nội dung tri thức cho phù hợp với nội dung bài học và đặc biệt
là phù hợp với đối tượng học sinh.
Phương pháp thuyết trình còn tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tác động
mạnh mẽ đến tư duy, tình cảm của học sinh qua việc trình bày tài liệu với giọng

nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp và diễn cảm. Trong thực tế học sinh rất khó định
hướng khi tìm hiểu và nghiên cứu SGK, tài liệu môn học vì vậy bài thuyết trình của
giáo viên có thể giúp cho học sinh định hướng và nhận thức khi đọc tài liệu. Với
phương pháp thuyết trình giáo viên sử dụng ngôn ngữ, hành động, cử chỉ cùng các
thao tác sư phạm có tác dụng lôi cuốn, kích thích người học tập trung chú ý, phát
triển tư duy, lĩnh hội tri thức một cách có hệ thống và có ý thức. Phương pháp
thuyết trình giúp người dạy không chỉ sử dụng ngôn ngữ nói của mình tác động
trực tiếp đến học sinh mà với tư cách mẫu mực cùng với những cử chỉ thể hiện thái
độ, niềm tin, phẩm chất, nhân cách của người dạy từ đó sẽ có tác động mạnh mẽ
đến tâm tư, tình cảm, suy nghĩ và giúp người học hành động đúng đắn hơn.
Phương pháp thuyết trình tạo điều kiện phát triển năng lực chú ý và kích
thích tính tích cực tư duy của học sinh vì có như vậy học sinh mới hiểu được lời
giảng của giáo viên và mới ghi nhớ được bài học.


18

Thông qua phương pháp thuyết trình giáo viên có thể truyền đạt một khối
lượng kiến thức khá lớn cho nhiều học sinh trong cùng một thời gian, vì vậy đảm
bảo tính kinh tế cao, phù hợp với điều kiện có số đông người học nhưng cơ sở vật
chất còn thiếu.
Tuy nhiên phương pháp thuyết trình cũng như các phương pháp khác không
phải là phương pháp tối ưu và duy nhất vì vậy trong quá trình dạy học bên cạnh
những ưu điểm thì phương pháp này cũng có một số hạn chế nhất định, cụ thể:
+ Hạn chế của phương pháp dạy học thuyết trình trong dạy học ở bậc THPT:
Sử dụng phương pháp thuyết trình làm cho học sinh tiếp thu kiến thức một
cách thụ động vì đây là phương pháp thông tin một chiều học sinh chỉ thực hiện
nhiệm vụ lắng nghe, ghi chép tức là chỉ chủ yếu sử dụng thính giác cùng với tư duy
tái hiện do đó làm cho học sinh nhanh mệt mỏi, nhàm chán. Vì vậy sử dụng phương
pháp này sẽ hạn chế khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh. Kiến thức từ

một chiều do đó kiến thức của giáo viên vững hay không có ảnh hưởng lớn đến
chất lượng giờ dạy quyết định thành công hay thất bại của bài giảng dẫn đến học
sinh lười suy nghĩ, ỷ lại giáo viên không chịu suy nghĩ để đưa ra các quan điểm về
nội dung bài học của bản thân. Khi sử dụng phương pháp này giáo viên sẽ thu
được ít thông tin phản hồi từ phía học sinh vì vậy khó có thể nắm bắt được học sinh
hiểu bài hay không. Sử dụng phương pháp thuyết trình thường xuyên sẽ làm cho
học sinh thiếu tính tích cực trong việc phát triển ngôn ngữ nói.
Phương pháp thuyết trình thiếu điều kiện cho phép giáo viên chú ý đầy đủ
đến trình độ nhận thức cũng như kiểm tra đầy đủ sự lĩnh hội tri thức của từng học
sinh. Học sinh sẽ lưu trữ được rất ít thông tin dẫn đến mức độ hiểu bài của người
học không cao bởi vì với phương pháp này giáo viên sẽ ít đưa ra câu hỏi cho học
sinh do đó ít có khả năng rèn trí thông minh cho học sinh. Nếu nội dung thuyết
trình giáo viên chủ yếu dựa vào sách giáo khoa hoặc tài liệu học sinh có sẵn thì dẫn
đến lãng phí thời gian vì học sinh có thể tìm hiểu những nội dung đó thông qua việc
tự học ở nhà.


19

Với những hạn chế nhất định như trên thì trong quá trình giảng dạy để phát
huy tích cực khắc phục hạn chế giáo viên nên kết hợp phương pháp thuyết trình với
một số phương pháp cũng như kỹ thuật dạy học và phương tiện dạy học phù hợp để
giờ dạy đạt kết quả cao hơn. Vậy phương pháp nào sẽ khắc phục được hạn chế của
phương pháp thuyết trình, theo tôi nghĩ đó là phương pháp nêu vấn đề.
1.1.1.2. Phương pháp nêu vấn đề
* Khái niệm phương pháp dạy học nêu vấn đề: Phương pháp dạy học nêu
vấn đề còn gọi là phương pháp dạy học giải quyết vấn đề xuất hiện từ rất lâu đời,
nó được nghiên cứu từ những năm 70 của thế kỷ XIX. Từ trước đến nay có rất
nhiều quan điểm khác nhau về phương pháp này. Hiện nay nhiều nhà khoa học vẫn
tiếp tục nghiên cứu và đưa ra nhiều quan niệm về phương pháp dạy học nêu vấn đề.

Thuật ngữ “ Dạy học nêu vấn đề ” xuất phát từ thuật ngữ “ Orixtic “ hay còn
gọi là phương pháp phát kiến, tìm tòi. Phương pháp này còn có tên gọi là “Dạy học
phát hiện và giải quyết vấn đề ”. Vào những năm 50 của thế kỷ XX, xã hội bắt đầu
phát triển mạnh đôi lúc xuất hiện mâu thuẫn trong giáo dục đó là mâu thuẫn giữa
yêu cầu giáo dục ngày càng cao, khả năng sáng tạo của học sinh ngày càng nhiều
song tổ chức dạy học còn lạc hậu. Chính vì những lý do trên phương pháp dạy học
nêu vấn đề chính thức ra đời.
Nhà giáo dục học Ba Lan V.Ôkôn cho rằng: “ Dạy học nêu vấn đề là toàn bộ
các hoạt động như tính chất tình huống có vấn đề, biểu đạt các vấn đề, chú ý giúp
đỡ cho học sinh những điều cần thiết để giải quyết vấn đề, kiểm tra cách giải quyết
đó và cuối cùng là quá trình hệ thống hóa và củng cố các kiến thức tiếp thu được”
[47; 103].
“ Dạy – học nêu vấn đề là một kiểu dạy học trong đó giáo viên đưa sinh viên
vào các tình huống có vấn đề giúp học tự lực và sáng tạo giải quyết các vấn đề đặt
ra, qua đó mà nắm được tri thức mới; đồng thời phát huy được tính tích cực sáng
tạo. Như vậy trong dạy học nêu vấn đề giáo viên không cung cấp cho sinh viên
những tri thức có sẵn như trong dạy học thuyết trình mà nêu cho sinh viên một vấn


20

đề cần phải giải quyết và tạo ra những điều kiện giúp cho sinh viên tự lực giải
quyết trên cơ sở những mối liện hệ giữa cái đã cho và cái cần biết, giữa điều đã biết
và điều chưa biết” [33, 189].
Dạy học nêu vấn đề là một tư tưởng về phương pháp dạy học. Tư tưởng này
đã được làm quen với các thầy giáo ở nước ta vào những năm 60,70 của thế kỷ
trước. Theo PGS, TS Nguyễn Ngọc Bảo, “ Dạy học nêu vấn đề là hình thức dạy học
dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách thức hoạt động một cách
sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có những nét cơ bản của
sự tìm tòi khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự giác và năng lực sáng tạo và hình

thành cơ sở thế giới quan khoa học cho họ” [7, 41].
Trong những năm qua, phương pháp dạy học nêu vấn đề là phương pháp
được nhiều người đánh giá là có hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học đặc biệt
là ở các bậc THPT, Cao đẳng, Đại học. Sử dụng phương pháp này góp phần kích
thích tính chủ động, tích cực, sáng tạo và tăng cường độ làm việc của cả giáo viên
và đặc biệt là của học sinh trong suốt giờ học. Đây là hình thức dạy học mà trong
đó người giáo viên tìm mọi biện pháp để đưa học sinh vào các tình huống có vấn đề
từ đó hướng dẫn, giúp đỡ học sinh phát huy tính sáng tạo, tính tích cực cá nhân để
giải quyết các vấn đề do giáo viên đặt ra nhằm đạt mục đích cuối cùng là giúp học
sinh nắm được các tri thức mới hoặc cách thức hành động khi họ tích cực tham gia
vào quá trình dạy học nêu vấn đề. Thực tế cho thấy trong công cuộc đổi mới
phương pháp dạy học, phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những
phương pháp tích cực, chủ đạo được sử dụng trong các nhà trường nói chung.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phương pháp dạy học nêu vấn đề tuy
nhiên chúng đều giống nhau về bản chất và có thể định nghĩa như sau: Phương
pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp dạy học mà ở đó giáo
viên là người tạo ra tình huống mâu thuẫn, tình huống có vấn đề, tổ chức, điều
khiển học sinh dẫn dắt học sinh vào trạng thái tâm lí phải tìm tòi, khám phá phát
hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề thông qua đó


21

lĩnh hội tri thức, phát triển trí tuệ và thái độ học tập cũng như có kỹ năng, kĩ xảo
nhằm đạt được mục tiêu dạy học. Như vậy dạy học nêu vấn đề là phương pháp dạy
học không phải giáo viên cung cấp cho học sinh những tri thức có sẵn như trong
dạy học thuyết trình mà giáo viên đưa ra một số vấn đề cần giải quyết và tạo điều
kiện giúp cho học sinh tự giải quyết trên cơ sở những kiến thức đã biết và kiến thức
chưa biết. Quá trình suy nghĩ, thảo luận, giải đáp là điều kiện tốt nhất kích thích
tính năng động sáng tạo, sự độc lập suy nghĩ thông qua đó học sinh dần dần tiếp thu

kinh nghiệm hoạt động sáng tạo từ đó hình thành cách học tập và làm việc mới.
Trong quá trình học giáo viên vừa là người cung cấp thông tin, truyền đạt kiến thức
bằng cách nêu vấn đề vừa là người kích thích tư duy, tự giác, sáng tạo của học sinh
đồng thời tạo bầu không khí dân chủ giữa thầy và trò để đạt hiệu quả cao trong học
tập.
Phương pháp nêu vấn đề là phương pháp dựa trên quy luật của sự lĩnh hội tri
thức và cách thức hoạt động một cách sáng tạo có những nét cơ bản của sự tìm tòi
khoa học. Bản chất của nó là tạo nên một chuỗi những tình huống có vấn đề và điều
khiển học sinh giải quyết những vấn đề đó. Vì vậy mà nó đảm bảo cho học sinh
lĩnh hội vững chắc những cơ sở khoa học, phát triển năng lực tu duy sáng tạo và
hình thành cơ sở thế giới quan khoa học của họ.
Qua các định nghĩa khác nhau của các tác giả trong và ngoài nước về
phương pháp dạy học nêu vấn đề là việc tổ chức quá trình dạy và học bằng cách tạo
ra tình huống có vấn đề trong dạy học, tạo ra ở người học nhu cầu phát hiện và giải
quyết các vấn đề nảy sinh, lôi cuốn, yêu cầu người học phải tự lực trong hoạt động
nhận thức.
Tùy theo nội dung kiến thức của từng bài giảng, trình độ năng lực tiếp thu
của đối tượng học sinh để giáo viên vận dụng phương pháp nêu vấn đề ở những
hình thức khác nhau, cụ thể có các hình thức sau:
Trình bày nêu vấn đề: Đây là mức độ thấp nhất trong dạy học nêu vấn đề,
hình thức này được sử dụng khi cần phải truyền thụ kiến thức trừu tượng và khái


22

quát cao hoàn toàn mới đối với học sinh, những thuật ngữ khoa học mà học sinh đã
từng được nghe nhưng chưa có một chút hiểu biết gì về chúng. Bản chất của việc
trình bày có tính vấn đề chính là ở chỗ giáo viên đặt ra vấn đề, tự mình giải quyết
vấn đề đó nhưng đồng thời chỉ ra con đường mâu thuẫn thực sự vừa sức cho học
sinh, vạch ra tiến trình suy nghĩ của học sinh khi vận động theo con đường giải

quyết đó. Chức năng của phương pháp này là giáo viên chỉ ra những mâu thuẫn
nhận thức và giải quyết một cách khoa học những vấn đề còn học sinh kiểm tra tính
đúng đắn của sự vận động đó, theo dõi có suy nghĩ lôgíc sự vận động đó khi đã
nắm vững giai đoạn giải quyết những vấn đề hoàn chỉnh. Khi sử dụng phương pháp
này giáo viên có thể sử dụng lời nói, suy lý lôgic, đọc bài khóa, những đồ dùng trực
quan, những phương tiện kỹ thuật tùy thuộc vào nội dung, bằng cách nào và hoạt
động tổ chức nào được nhận thức nhờ vào chúng.
Tìm tòi bộ phận (từng phần) hay phương pháp Oristic: Đây là phương pháp
dạy học dưới sự chỉ đạo của giáo viên nhằm giúp học sinh tự lực thực hiện từng
phần, từng bước trong việc giải quyết một vấn đề đặt ra vì trong mỗi bài giảng bao
gồm nhiều mục, mỗi mục lại bao gồm nhiều mục nhỏ. Các đề mục và các mục có
liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một bài giảng trọng vẹn với kết cấu lôgic xác
định nhờ vậy mà dần dần giúp cho học sinh tự lực giải quyết một vấn đề hoàn chỉnh.
Việc thực hiện phương pháp này có thể đòi hỏi học sinh tự tìm ra cách chứng minh;
tự rút ra những kết luận từ những sự kiện đã trình bày hoặc nêu lên giả thuyết… Có
thể sử dụng theo các phương án khác nhau như: chia nhỏ các nhiệm vụ học tập phức
tạp thành một loạt những nhiệm vụ nhỏ vừa sức từ đó tiến gần đến giải quyết nhiệm
vụ chính một cách dễ dàng. Có thể áp dụng phương án xây dựng một loạt các câu hỏi
có liên hệ với nhau mà mỗi câu hỏi đó đòi hỏi học sinh không chỉ tái hiện những tri
thức của mình mà còn phải tiến hành tìm tòi, suy nghĩ và được sử dụng chủ yếu
trong hình thành khái niệm, định luật, định lý thuộc lĩnh vực khoa học tương ứng.
Nêu vấn đề toàn bộ (toàn phần): Đây là hình thức có mức độ cao nhất trong
phương pháp dạy học nêu vấn đề. Ở hình thức này dưới sự hướng dẫn, dẫn dắt


23

khéo léo của giáo viên học sinh sẽ tự mình giải quyết toàn bộ một vấn đề nêu ra
trong bài giảng.
Phương pháp nêu vấn đề có những ưu điểm và hạn chế:

+ Ưu điểm của phương pháp dạy học nêu vấn đề: Trong những năm gần đây
đổi mới phương pháp dạy học là một trong những yêu cầu quan trọng trong đó phương
pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp dạy học hiện đại, việc áp
dụng phương pháp này đã thu được rất nhiều kết quả trong quá trình giảng dạy vì nó có
nhiều ưu điểm, cụ thể:
Sử dụng phương pháp nêu vấn đề tức là học sinh được đặt vào tình huống có vấn
đề chứ không phải được thông báo dưới dạng tri thức có sẵn vì vậy sẽ giúp học sinh
phát huy tính tich cực, chủ động, tự giác tham gia các hoạt động học, tự mình tìm ra tri
thức cần học chứ không phải được giáo viên giảng một cách thụ động, học sinh là chủ
thể sáng tạo ra hoạt động học qua đó học sinh không những được học nội dung học tập
mà còn được học con đường và cách thức tiến hành dẫn đến kết quả đó hay nói cách
khác học sinh học được cách phát hiện và giải quyết vấn đề. Sử dụng phương pháp này
cũng không hạn chế việc đặt ra các nhiệm vụ, ràng buộc, gắn kết học sinh vào một cấu
trúc với vấn đề bỏ ngỏ mà ở đó chưa có cách tiếp cận hoặc giải pháp. Học sinh học một
cách có chủ định. Học sinh đóng vai trò như là người đặt ra các câu hỏi, kế hoạch và
mục đích cho chính mình. Tức là giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, gợi mở còn học
sinh là người chủ động tìm tòi, giải quyết vấn đề và thông qua đó lĩnh hội được kiến
thức do chính mình phát hiện ra nên khi sử dụng phương pháp này sẽ đảm bảo học sinh
nắm được tri thức một cách vững chắc, sáng tạo, linh hoạt đồng thời nắm được cả
phương pháp tự học… từ đó tạo sự nhiệt tình, hứng thú cho học sinh trong quá trình học
tập đồng thời có tác dụng ghi nhớ kiến thức lâu hơn.
Phương pháp dạy học nêu vấn đề là tổ chức cho học sinh học trong một tình
huống nhất định, tạo một môi trường giúp học sinh làm việc với các loại vấn đề có liên
quan và sử dụng trong tương lai, các kiến thức và kỹ năng giúp học sinh giải quyết các


24

vấn đề đó dưới sự hướng dẫn của giáo viên học sinh được trực tiếp làm việc với các tri
thức khoa học, tự mình nghiên cứu, tách các nội dung học tập thông qua các tình huống.

Bên cạnh đó khi giáo viên sử dụng phương pháp này giúp khuyến khích học sinh
làm việc cùng nhau trong giải quyết vấn đề và phát triển sản phẩm của họ. Học sinh
cộng tác với các thành viên trong nhóm, trao đổi kiến thức, học tập lẫn nhau, điều chỉnh
hành vi của mình trên cơ sở đó để hình thành và phát triển các kỹ năng của bản thân họ.
Sử dụng phương pháp trên còn giúp tăng cường khả năng độc lập suy nghĩ, phát
triển tư duy sáng tạo, kĩ năng vận dụng kinh nghiệm của mình và của người khác vào
việc giải quyết các vấn đề học tập và trong các lĩnh vực khác nhau. Phát triển cho học
sinh kĩ năng thích ứng trong các tình huống khác nhau đây chính là mục tiêu của dạy
học hiện đại. Từ đó học sinh tin tưởng vào khả năng của bản thân mình trong việc giải
quyết các tình huống học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó còn
giúp tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các thành viên trong nhóm qua việc cùng
nhau nghiên cứu và giải quyết tình huống.
Khi sử dụng phương pháp này giúp cho sinh viên thu được những kiến thức tốt
nhất, cập nhật nhất…có thể bao phủ toàn bộ các trường hợp và các bối cảnh thường gặp
trong cuộc sống, giúp học sinh tự giác, chủ động cũng như có động cơ học tập và tinh
thần trách nhiệm cao trong học tập.
Ngoài ra khi sử dụng phương pháp này còn giúp cho học sinh khơi dậy tư duy và
khả năng điều tra khoa học. Đây là một công việc giúp rèn luyện khă năng bước đầu
làm quen với phương pháp nghiên cứu khoa học của một sinh viên trong tương lai đối
với học sinh THPT và kể cả trong trương lai về sau.
Sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học làm cho giáo viên như là một
huấn luyện viên thông qua quá trình giải quyết vấn đề qua đó giáo viên mô tả, huấn
luyện, cung cấp những chỉ dẫn cần thiết mặt khác khuyến khích sinh viên độc lập đặt ra
mục tiêu và ra quyết định.
Ngoài ra khi sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề còn góp phần quan trọng
trong việc phát triển năng lực cơ bản của người lao động đó là năng lực nhận thức, năng


25


lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo. Trong một xã hội đang phát triển nhanh chóng
theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì phát hiện sớm và giải quyết hợp lý những
vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là một năng lực bảo đảm sự thành đạt trong cuộc sống ở
bất kể lĩnh vực nào.
Kết quả của dạy học nêu vấn đề là kiến thức, kĩ năng được hình thành ở học
sinh một cách sâu sắc, vững chắc nhưng quan trọng hơn là học sinh biết cách chủ
động chiếm lĩnh tri thức và đánh giá được kết quả học tập của bản thân mình và của
người khác. Thông qua đó các năng lực cơ bản được hình thành trong đó có năng
lực vận dụng tri thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn một cách linh hoạt và sáng
tạo.
+ Hạn chế của phương pháp dạy học nêu vấn đề: Tuy nhiên sử sụng phương
pháp dạy học vấn đề trong quá trình dạy học bên cạnh những ưu điểm cũng không tránh
khỏi những hạn chế, cụ thể:
Để giáo viên có thể tìm kiếm từng loại vấn đề phù hợp với nội dung từng phần,
từng bài không phải là dễ dàng mà đòi hỏi giáo viên phải có thời gian, có kinh nghiệm
chuyên môn và trình độ chuyên môn cũng như am hiểu các vấn đề thực tế sâu rộng đặc
biệt là những vấn đề liên quan đến bộ môn.
Ở những lớp cấp dưới, lớp học sinh đông không thể áp dụng được phương pháp
này vì cùng một nội dung dạy học so với sử dụng phương pháp khác thì phương pháp
dạy học nêu vấn đề cần nhiều thời gian hơn, nhiều điều kiện hơn đối với giáo viên và
phải trang bị nhiều cơ sở vật chất hơn cho phòng học thì tiết học mới có hiệu quả. Giáo
viên khó chủ động về mặt chương trình, kế hoạch và thời gian. Phương pháp này nếu
giáo viên không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước và không có nhiều khả năng trong quản
lý lớp tốt rất dễ rơi vào trường hợp thiếu thời gian, không đúng chủ đề từ đó đưa ra kết
luận về vấn đề cần nghiên cứu không chính xác. Không có tiêu chí để phân nhóm giải
quyết vấn đề.
Sử dụng phương pháp này đòi hỏi năng lực tổ chức, cố vấn, trọng tài và ứng xử
với các kiểu nhân cách người học của giảng viên. Đòi hỏi hành vi chuyên nghiệp của



×