Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

Giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc cho đoàn viên thanh niên Thành phố Vinh tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (627.12 KB, 136 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học vinh

NGUYN VN TIN

GIáO DụC CáC GIá TRị VĂN HóA TRUYềN THốNG DÂN TộC
CHO ĐOàN viên THANH NIÊN THàNH PHố VINH - TỉNH NGHệ
AN trong giai đoạn HIệN NAY

luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục


2

nghÖ an - 2013


1

Bộ giáo dục và đào tạo
trờng đại học vinh

NGUYN VN TIN

GIáO DụC CáC GIá TRị VĂN HóA TRUYềN THốNG DÂN TộC
CHO ĐOàN viên THANH NIÊN THàNH PHố VINH - TỉNH NGHệ
AN trong giai đoạn HIệN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và PPDH bộ môn giáo dục Chính trị
Mã số: 60.14.10


luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục

Ngời hớng dẫn khoa học:

TS. BI VN DNG


2

nghÖ an - 2013
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, hoàn thiện luận văn, tác giả đã
nhận được sự quan tâm, động viên của các tổ chức và các bạn bè đồng nghiệp.
Tác giả xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Văn Dũng đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ để tác giả hoàn thành luận văn của mình.
Tác giả xin chân thành cảm ơn CN Khoa Giáo dục Chính trị, giáo viên
chủ nhiệm, các giáo viên trường Đại học Vinh và tập thể các anh chị em lớp
Cao học 19 - Lý luận và Phương pháp giảng dạy học bộ môn Chính trị đã tận
tình giúp đỡ quan tâm tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn BGH, Trưởng, phó các khoa phòng,
các anh chị em đồng nghiệp cùng các bạn học sinh, sinh viên đã giúp đỡ
động viên tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Tỉnh Đoàn Nghệ An, Thành Đoàn Vinh,
đồng cảm ơn tới các Đoàn phường, xã trên địa bàn thành phố và phụ cân đã
giúp đỡ, tạo mọi điều kiện tốt nhất để tác giả được thực tế khảo sát, điều tra
và tham gia các hoạt động đoàn tại địa phương để hoàn thành luận văn này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng vẫn còn những thiếu sót không thể tránh
khỏi, tác giả mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cùng các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 10 năm 2013

Tác giả

Nguyễn Văn Tiến


3

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU------------------------------------------------------------------------------------6
1. Lý do chọn đề tài-------------------------------------------------------------------6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài---------------------9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ------------------------------------15
4. Phạm vi nghiên cứu---------------------------------------------------------------16
5. Phương pháp nghiên cứu------------------------------------------------------16
6. Giả thuyết khoa học-------------------------------------------------------------16
7. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn---------------------------17
8. Cấu trúc của luận văn----------------------------------------------------------17
B. NỘI DUNG---------------------------------------------------------------------------------18
Chương

1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN -------------18
1.1. Tổ chức Đoàn trong công tác giáo d ục các giá tr ị v ăn
hóa truyền thống dân tộc cho Đoàn viên thanh niên-------18
1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề
giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống-------------------------41

Kết luận chương 1--------------------------------------------------------------------56
Chương
THỰC
VĂN

2
TRẠNG

HÓA

THANH

CỦA

TRUYỀN

NIÊN

VIỆC
THỐNG

THÀNH

PHỐ

GIÁO
DÂN

DỤC
TỘC


VINH

-

CÁC
CHO
TỈNH

GIÁ

ĐOÀN
NGHỆ

TRỊ
VIÊN
AN

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY-------------------------------------------------------58
2.1. Điều kiện địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội tại Thanh
̀ phô ́
Vinh - Tinh
̉
Nghệ An trong giai đoan
̣ hiên
̣ nay --------------------58
2.2. Tình hình giao
́ duc
̣ cac
́ giátrị văn hoa

́ truyên
̀ thông
́
dân tôc
̣ cho đoàn viên thanh niên Th ành ph ố Vinh trong
thời gia qua------------------------------------------------------------------------------62
Kết luận chương 2--------------------------------------------------------------------79


4
Chương

3

PHƯƠNG HƯƠNG
́
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO
ĐOÀN

VIÊN

THANH

NIÊN

THÀNH

PHỐ


VINH

-

TỈNH NGHỆ AN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY--------------------------------80
3.1. Phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục các giá trị văn hóa truyền th ống dân tộc cho Đo àn
thanh niên Thành phố Vinh trong giai đoạn hiện nay-------80
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc cho đoàn
viên thanh niên Thành phố Vinh trong giai đoạn hiện nay
----------------------------------------------------------------------------------------------------97
Kết luận chương 3-------------------------------------------------------------------122
C. KẾT LUẬN-------------------------------------------------------------------------------125
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO-------------------------------------------127
E. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN- - - -134


5
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CLB

Câu lạc bộ

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

ĐTVN


Đoàn viên thanh niên

GS

Giáo sư

GTVHTTDT

Giá trị văn hóa truyền thống dân tộc

HSSV

Học sinh sinh viên

LHPN

Liên hiệp phụ nữ

Nxb

Nhà xuất bản

TDTT

Thể dục thể thao

TTN

Thanh thiếu niên


UBND

Ủy ban nhân dân

VHVN

Văn hóa văn nghệ


6
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần
rất lớn vào thế hệ trẻ nói chung, đoàn viên thanh niên (ĐVTN) nói riêng, liệu
chúng ta có thể giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi thế hệ trẻ mà đặc
biệt là ĐVTN bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị truyền
thống dân tộc (GTTTDT). Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta
đã chuẩn bị "hành trang" gì cho họ. Điều kiên quyết và không thể thiếu đó là
"các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc", những truyền thống đáng tự hào
của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã giúp chúng ta "hòa
nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất gốc", trọng truyền
thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho thế hệ trẻ
Việt Nam nói chung và ĐVTN Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh
của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Văn hóa là sản phẩm xã hội được hình thành trong chính các hoạt động
sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần của xã hội loài người nói chung, sự
khác nhau về văn hóa là do các hoạt động sản xuất khác nhau quy định, tạo ra
sự khác nhau về văn hóa giữa các dân tộc, vùng miền và cộng đồng dân cư
hay trong chính từ chủ thể con người riêng biệt. Bên cạnh đó, văn hóa đến với

mọi dân tộc thông qua con đường giao lưu về kinh tế, chính trị, xã hội, chiến
tranh v.v.. Với đặc tính của mình văn hóa luôn vận động, phát triển lan tràn
phổ biến, hòa quyện, pha tạp lẫn nhau để tạo nên sự đa dạng văn hóa. Sự lai
tạp đó đặt ra cho mỗi dân tộc, vùng miền và từng chủ thể văn hóa sự tiếp thu
có chọn lọc một cách phù hợp giữa các giá trị truyền thống và cái mới ngoại
lại. Trong đó phải biết giữ gìn các GTVHTTDT, bản sắc văn hóa của riêng
mình và tiếp thu sự du nhập đó trên tinh thần tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.


7
Những di sản thuộc giá trị văn hóa truyền thống (GTVHTTDT), bản sắc văn
hóa dân tộc là nét độc đáo của đất nước, là tài sản vô cùng quý giá nói lên tầm
vóc, bề dày lịch sử, chiều sâu của mỗi quốc gia, dân tộc. Giữ gìn được các
GTVHTTDT trong giai đoạn hiện nay là điều kiện để mỗi quốc gia, dân tộc
tồn tại với tư cách là một dân tộc độc lập.
Trong sự du nhập đó Việt Nam cũng tiếp nhận một cách nhanh chóng,
đặc biệt là thế hệ trẻ. Nhưng cách tiếp thu đó góp phần tích cực thể hiện rõ
trong toàn cảnh từ ăn, ở, mặc đến các hoạt động sản xuất vật chật, tinh thần và
trong quy cách ứng xử xã hội nói chung và nhân cách từ con người nói riêng
là không thể chối cãi. Song, bên cạnh mặt tích cực thì chính sự du nhập và
tiếp thu ồ ạt, không chọn lọc và sự quản lý của nhà nước thiếu chặt chẽ đã
mang lại sự tiêu cực nhất định, làm mài mòn các GTVHTTDT và du nhập các
văn hóa ngoại lai không phù hợp với văn hóa dân tộc gây phản cảm lớn và
ảnh hưởng tới sự phát triển xã hội nói chung.
Bởi thế, trong hoạt động của mình và các yêu cầu của thời đại đặt ra
với ngành giáo dục là phải làm sao đào tạo ra những con người phát triển toàn
diện, có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học
công nghệ, có đủ sức cạnh tranh trong quá trình phân công lao động quốc tế.
Phát triển giáo dục toàn diện là biện pháp tốt nhất để phát huy và làm trường
tồn những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc, phong phú thêm những tinh hoa

văn hoá của nhân loại. Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là phát triển nhân
cách, phát huy và phát triển hệ thống giá trị của dân tộc. Mục tiêu của phát
triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí làm cơ sở đào tạo nhân lực, là nguồn gốc
để đào tạo và bồi dưỡng nhân tài trên nền tảng nhân cách tốt đẹp, làm giàu
thêm “nguyên khí Quốc gia”. Đảng ta đã xác định lấy nhiệm vụ phát huy
nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo


8
đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Để các chủ trương của Đảng và nhà nước áp dụng vào giáo dục các
GTVHTTDT kết hợp với tiếp thu văn hóa quốc tế để làm giàu, phong phú văn
hóa dân tộc là điều cần thiết hiện nay đặc biệt đối với tầng lớp ĐVTN, chủ
nhân tương lai của đất nước phải được quan tâm đặc biệt góp phần không nhỏ
trong việc mở rộng kiến thức, tư tưởng, tình cảm, năng lực, nâng cao thể lực,
thể chất, tinh thần, góp phần phát triển toàn diện nhân cách cho thế hệ trẻ mà
trọng tâm là ĐVTN.
Thực trạng về công tác giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN ở Thành
phố Vinh hiện nay đang được chính quyền địa phương và các nhà nghiên cứu
giáo dục hết sức quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu. Là thành phố
nằm trong trọng điểm quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội khu vực Bắc
Trung Bộ, trong đó xây dựng đồng bộ giáo dục chất lượng cao cung ứng lao
động cho khu vực miền trung và Tây Nguyên. Để đạt được các mục tiêu đó,
vấn đền giáo dục ĐVTN là điều kiện tiên quyết có tính quan trọng nhất. Là
thành phố có truyền thống cách mạng và truyền thống hiếu học, song nhiều
yếu tố văn hóa ngoại lai du nhập đã làm nhiều bạn trẻ thành Vinh rơi vào suy
thoái đạo đức, lối sống, đánh mất các giá trị tốt đẹp mà cha ông đi trước đã

vun đắp, xây dựng. Thay vào đó, các bạn ĐVTN nếu đước định hướng giáo
dục tốt thông qua công tác đoàn thì đa số vẫn giữ gìn được bản sắc văn hóa
truyền thống dân tộc và tiếp thu các tiến bộ xã hội mới đáp ứng các yêu cầu
của thời đại đặt ra.
Do đó, chúng tôi chọn vấn đề:“Giáo dục các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc cho đoàn viên thanh niên Thành phố Vinh - Tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ.


9
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ tham gia hội nhập quốc tế trên
tất cả các phương diện với phương châm “hoà nhập chứ không hoà tan”. Nên
vấn đề giáo dục các giá trị văn hoá truyền thống đậm đà tính dân tộc đang là
vấn đề được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Các nhà khoa học đã có
không ít các công trình nghiên cứu về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc
được công bố như:
Nguyễn Lương Bằng (1999), “Kết hợp truyền thống và hiện đại trong
quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam”- Sách văn hóa Việt Nam truyền thống
và hiện đại, Nxb Văn hóa, đây là công trình nghiên cứu lớn được nhiều nhà
nghiên cứu đánh giá cao, tác phẩm là cơ sở về phương pháp dạy học trong
phạm vi nhà trường, cung cấp kiến thức chuyên ngành cho các giáo viên
giảng dạy trong lĩnh vực văn hóa…
Nguyễn Khoa Điềm (2003), “Đề cương văn hóa Việt Nam với sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”,
Tạp chí Cộng sản, Số 45/2003, bản đề cương là sự tập hợp chủ trương đường
lối về chính sách của Đảng trong lĩnh vực văn hóa dân tộc, trong đó đề cập
đến định hướng nhà nước XHCN trong lĩnh vực quản lý văn hóa. Đây là đề
cương về văn hóa có tính bao trùm nhất trên lĩnh vực văn hóa…
Nguyễn Khoa Điềm (2004),“Bài phát biểu kết luận Hội nghị triển kha

công tác Tư tưởng - Văn hóa Toàn quốc”, Đà Nẵng, Ngày 19 -21/2/2004, đây
là bài phát biểu đúc kết toàn bộ giá trị tư tưởng văn hóa của toàn quốc sẽ được
triển khai trong giai đoạn tiếp theo, là cơ sở để các hoạt động tư tưởng - văn
hóa mà nhà nước nghiên cứu triển khai là cơ sở lý luận chuyên môn cho các
hoạt động nghiên cứu và cơ sở để đưa vào hoạt động thực tiễn.
Ngô Đình Xuân, “Thành tựu nổi bật trong đổi mới tư duy của Đảng về
văn hóa”, Tạp chí Cộng sản số 26, tháng 2, năm 2007, đây là công trình


10
nghiên cứu đã phân tích các giá trị nội bật trong tư duy đổi mới của Đảng
trong lĩnh vực văn hóa, các lý luận chuyên môn mà Đảng ta đạt được trong
quá trình đổi mới các hoạt động về văn hóa với nhiều thành tựu nỗi bật, tìm ra
các nguyên nhân, hạn chế, cách khắc phục và phương hướng giải pháp, là cơ
sở lý luận và thực tiễn quan trọng trong tài liệu góp phần làm định hướng
chiến lược cho Đảng và các hoạt động nghiên cứu trong lĩnh vực văn hóa…
Nguyễn Mạnh Hưởng (2007), “Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc khi trở
thành thành viên tổ chức thương mại thế giới”, Tạp chí Cộng sản Số 4/2007,
công trình nghiên cứu văn hóa trong bối cảnh hội nhập thế giới đa chiều, bối
cảnh toàn cầu hóa diễn ra sâu rộng trên tất các các bình diện. Trong xu hướng
hội nhập đó tác phẩm đã đặt ra các vẫn đề về hội nhập văn hóa cái nhìn đa
chiều, trong đó tập trung nghiên cứu các vấn đề về giữ gìn các bản sách văn
hóa, tập trung vào các bước phân tích sự hội nhập quốc tế và sự ảnh hưởng tới
các giá trị văn hóa truyền thống, con đường và giải pháp…
Mai Thành Chung (2009), “Thấm nhuần tư tưởng của Người về xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”, Báo Giáo dục thời đại,
công trình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, được xem là cơ sở
lý luận, là tài liệu cơ bản định hướng các hoạt động chính sách giáo dục văn
hóa mà Đảng và nhà nước ta lấy làm kim chỉ nam cho mình. Hồ Chí Minh là
sự hội tụ đầy đủ các giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, Tác phẩm đã

làm nổi bật ở người có không chỉ là sự hội tụ của nhiều nền văn hóa mà ở đó
còn có một văn hóa mới đó là văn hóa của tương lai…
Kim Hạnh, “Đừng quá sợ đánh mất bản sắc dân tộc”, Từ điển văn hóa
Việt Nam - Nxb Thế giới, công trình đã đánh giá thực trạng tâm lý chung
trước sức ép của toàn cầu hóa và sức ép về sự du nhập văn hóa ngoại lai,
trong bối cảnh đó tác phẩm đã nêu ra những giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc bị đánh mất như vẫn tồn tại nhiều giá trị cơ bản chung nhất và đậm nét
nhất thì vẫn còn giữ được…


11
Vũ Khiêu, “Đạo đức mới”, Nxb Khoa học Xã hội, HN (1974). Đây là
công trình nghiên cứu đạo đức học định hướng chủ nghĩa Cộng sản mang bản
sắc văn hóa Việt Nam, trở thành cơ sở nghiên cứu đạo đức học sau này và đưa
vào định hướng xây dựng đạo đức XHCN mà Đảng ta lựa chọn cho tương lai
đất nước... Trong đó, tác giả đề cao vai trò của nhà nước trong hoạt động giáo
dục giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trước thời đại vừa là cơ hội vừa là
thách thức mang tính sống còn…
Nguyên An, Đinh Xuân Dũng (Tuyển chọn), “Hồ Chí Minh với văn
hóa - Văn nghệ”, Nxb Từ điển Bách khóa, Hà Nội, công trình văn hóa nghiên
cứu tư tưởng văn hóa, văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là sự đúc kết kinh
nghiệm của người trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, tác phẩm đã dẫn trích
nhiều dẫn chứng, cứ liệu lịch sử quan trọng về tư tưởng của Bác Hồ về lĩnh
vực đời sống văn hóa - văn nghệ mà người là tấm gương sáng nhất mà thế hệ
sau nghiên cứu, học tập và làm theo trong đó trọng tâm vẫn là thế hệ thanh
niên, lực lượng quan trọng của tương lai đất nước…
GS. Cao Huy Thuần với công trình nghiên cứu, “Bản sắc toàn cầu
hóa”, Công trình nghiên cứu về văn hóa rất công phu, đáp ứng được nhu cầu
nghiên cứu văn hóa của nhiều tri thức bây giờ. GS. Cao Huy Thuần được biết
đến đến như một chuyên gia đầu ngành lỗi lạc về nghiên cứu các giá trị văn

hóa truyền thống dân tộc, trong đó tác giả luôn đặt các giá trị đó trong bối
cảnh hội nhập của thời đại đa văn hóa cái đã mất đi, cái còn sót lại, cái giữ gìn
và có cái cần phải thay đổi. Tác giả đề cập đến nhiều nền văn hóa thế giới bị
mất đi bản sắc truyền thống, cam chịu sự tha hóa… và cũng có nhiều dân tộc
trong quá trình hội nhập đã biết vận dụng cái truyền thống với cái mới và biến
đổi phù hợp với yêu cầu trong nước mình mà không tụt hậu trước thời đại. Từ
đó, tác giả đã đi sâu phân tích đặc trưng văn hóa dân tộc Việt trong quá trình
hội nhập…, Nxb Văn hoá, HN.


12
Trần Quốc Vượng, “Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm”, Nxb Văn
học, Hà Nội, tác phẩm đã phân tích các giá trị văn hóa Việt trong bối cảnh xã
hội mới nhiều biến đổi mà thời đại đặt ra. Là chuyên gia đầu ngành nghiên
cứu về văn hóa được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao, tác phẩm này đã đưa
ra được nhiều nội dung cơ bản nêu rõ những GTVHTTDT mà hiện nay vẫn
được cho là khá đầy đủ nhất về mặt nội hàm. Triết lý của sự kết nối cái truyền
thống được tìm tòi và suy ngẫm đã làm cho tác phẩm chứa đựng hàm lượng
giá trị nghiên cứu cao…
Nguyên Ngọc, “Một Văn hóa mới cho hội nhập hôm nay”, Nxb Văn
hoá, Hà Nội, tác giả đau đáu trong lòng với nội dung cái mới và cái hội nhập
trong bối cảnh hiện nay…; Nguyễn Đức Tồn, “Đặc trưng văn hóa dân tộc
của ngôn ngữ và tư duy” (2008), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, Đây là công
trình nghiên cứu văn hóa dân tộc rất đồ sộ và giá trị, công trình đi sâu tìm
hiểu các đặc trưng văn hóa dân tộc thông qua tìm hiểu các giá trị truyền
thống.., Nguyễn Văn Huyên, “Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam”,
(1999), Nxb Khoa học Xã hội, HN, Tập 1,2. Công trình nghiên cứu về văn
hóa rất uy tín và công phu, tác phẩm đã góp phần nghiên cứu văn hóa dân tộc,
là tài liệu nghiên cứu cho nhiều đối tượng trí thức…; Vũ Ngọc Khánh “Văn
hóa Việt Nam những điều học hỏi”, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tác giả

đã chưng cất những giá trị lý luận chuyên ngành để đưa vào tác phẩm, cách
tiếp thu cái mới, sàn lọc các giá trị văn hóa truyền thống trên tinh thần tiến bộ.
Các công trình nghiên cứu được đánh giá cao, là tài liệu tham khảo, tài
liệu nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục các GTVHTTDT được nhiều luận văn
thạc sĩ đưa vào trong công trình nghiên cứu của họ như: Trần Văn Giàu (Chủ
biên), "Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam", (1998), Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội, Hà Văn Tấn, "Biện chứng của truyền thống", Tạp chí Cộng sản,
Số 3/1981. Trần Quốc Vượng, "Về truyền thống dân tộc", Tạp chí Cộng sản,


13
Số 3/1981. Đỗ Huy, "Cái truyền thống và cái hiện đại trong sự nghiệp xây
dựng con người mới ở nước ta", Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội, số
5/1986. Lương Quỳnh Khuê, "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại", Tạp chí Triết học, số 4-1992.
Nguyễn Quang Uẩn (Chủ biên) "Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo
dục giá trị", tháng 4/1995; Mạc Văn Trang (Chủ biên) "Đặc điểm lối sống sinh
viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh
viên", (1995), đề tài nghiên cứu khoa học, mã số B94-38-32 (Viện Nghiên cứu
phát triển giáo dục - Bộ Giáo dục và Đào tạo); Thái Duy Tuyên, "Sự biến đổi
định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường",
Tạp chí Triết học, Số 5/1995; Nguyễn Thế Kiệt, "Quan hệ kinh tế và đạo đức
trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Tạp chí Triết học, tháng
6/1996; Nguyễn Tĩnh Gia, "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với
đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, tháng 2/1997; Đỗ
Huy, "Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức trong cơ chế thị
trường ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, Số 5/1998; Hoàng Trung "Tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền
kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, Số 5/1998. Trần Sĩ Phán "Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay", (1999), Luận án tiến sĩ Triết học; Hoàng Trung, "Vì sao
Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến vấn đề đạo đức?", Tạp chí Triết học,
Số 4/2000; Nguyễn Văn Phúc "Tình cảm đạo đức và giáo dục tình cảm đạo
đức trong điều kiện hiện nay", Tạp chí Triết học, Số 6/2000; Nguyễn Văn Lý
"Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay", (2000), Luận án tiến sĩ Triết
học; "Giá trị đạo đức và sự biểu hiện của nó trong đời sống xã hội" của Mai
Xuân Lợi, Tạp chí Triết học, Số 3/2001. "Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý
tưởng đạo đức cho thanh niên trong điều kiện hiện nay" của Đoàn Văn Khiêm,


14
Tạp chí Triết học, Số 2/2001; Nguyễn Ngọc Long, "Kết hợp chặt chẽ giáo dục
lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo quản lý", Tạp chí
Lý luận Chính trị, Số 4/2001; Trần Nguyên Việt "Giá trị đạo đức truyền thống
Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo đức trong nền kinh tế thị
trường", Tạp chí Triết học, Số 5/2002; Lê Sĩ Thắng, "Kế thừa tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết
học, Số 5/2002; Nguyễn Đình Tường "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục", Tạp chí Triết học, Số 6/2002; "Khoa học công nghệ và đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, Số
6/2002; Nguyễn Hùng Hậu "Từ "cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong
cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học, Số 8/2002; Lê Thị
Hoài Thanh "Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục
đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay", (2002). Luận án tiến sĩ Triết học,
của Trần Văn Phòng "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị
hiện nay", Tạp chí Lý luận Chính trị, Số 5/2003 v.v..
Bàn về công tác Đoàn và công tác giáo dục các GTVHTTDT cho
ĐVTN hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu như: Thùy Linh - Việt

Trinh, “Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh những mốc son vàng”, Nxb
Lao động, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu lịch sử Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh từ giai đoạn tiền thành lập cho tới quá trình tồn tại
và phát triển, trong đó nêu bật những mốc son vàng trong truyền thống Đoàn
thanh niên Việt Nam, cuốn sách là tài liệu gối đầu cho công tác đoàn và mọi
đoàn viên thanh niên bây giờ...
Tỉnh Đoàn Nghệ An, Báo cáo hoạt động công tác đoàn nhiệm kỳ
2012 - 2017 thông qua Đại hội Đại biểu Đoàn Toàn quốc nhiệm kỳ 2012 2017, đây là tài liệu tập hợp toàn bộ quá trình tổng kết công tác Đoàn và
định hướng các hoạt động Đoàn giai đoạn mới, là cơ sở cho mọi định


15
hướng công tác đoàn trong nhiệm kỳ đó, là tài liệu tham khảo cho mọi đoàn
viên thanh niên...
Thành Đoàn Vinh, Tài liệu học tập: Báo cáo hoạt động công tác đoàn
nhiệm kỳ 2012 - 2017 thông qua Đại hội Đại biểu Đoàn toàn quốc nhiệm kỳ
2012 - 2017, đây là tài liệu tập hợp toàn bộ quá trình tổng kết công tác đoàn
và định hướng các hoạt động đoàn giai đoạn mới, là cơ sở cho mọi định
hướng công tác đoàn trong nhiệm kỳ đó, là tài liệu tham khảo cho mọi đoàn
viên thanh niên Thành phố Vinh trong bối cảnh hiện nay...
Trung ương Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VII, Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Thanh Niên, (2003). Tỉnh đoàn Hà Tĩnh Ban CNTT Tập đoàn Cao su Việt Nam, Tài liệu học tập, quán triệt Nghị
quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X, nhiệm kỳ 2012 - 2017, Hà Tĩnh, Tài liệu
lưu hành nội bộ, đây là tài liệu tập hợp nội dung của Đại hội Đoàn toàn
quốc...
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập một cách toàn
diện đến vấn đề giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN Thành phố Vinh nên
cần phải xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về giá trị giáo dục văn hóa truyền
thống dân tộc là yêu cầu lý luận và thực tiễn cấp bách nhất hiện nay về công
tác giáo dục.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và cơ sở thực tiễn của việc giáo dục các
GTVHTTDT cho ĐVTN, mục đích của luận văn là nhằm nâng cao việc giáo
dục các GTVHTTDT cho ĐVTN Thành phố Vinh trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: Các khái niệm
và các quan điểm về xây dựng, phát huy các GTVHTTDT.


16
+ Khảo sát, nghiên cứu thực tế, đánh giá tình hình giáo dục giá trị văn
hóa truyền thống dân tộc cho đoàn viên thanh niên Thành phố Vinh trong giai
đoạn hiện nay.
+ Đề xuất xây dựng một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN Thành phố Vinh trong giai
đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về vấn đề giáo dục các GTVHTTDT Việt
Nam cho đội ngũ ĐVTN Thành phố Vinh trong giai đoạn từ năm 2006 tới nay
và là cơ sở để tham khảo nhân rộng trong mô hình toàn tỉnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện bản luận văn này tác giả dựa trên cơ sở của Chủ nghĩa duy
vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN.
Ngoài ra, tác giả luận văn có tham khảo, kế thừa các thành tựu của các công
trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp của Chủ nghĩa duy vật biện

chứng, Chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân
tích và tổng hợp quy nạp và diễn dịch, điều tra xã hội học... nhằm thực hiện
mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Giả thuyết khoa học
Việc giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN hiện nay còn nhiều vấn đề
khó khăn, hạn chế nhất định, những phương hướng và giải pháp mà luận văn
đưa ra, nếu được vận dụng một cách khoa học và hợp lý sẽ mang lại kết quả
cao trong công tác giáo dục hiện nay.


17
7. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN.
- Đề tài đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục các
GTVHTTDT cho ĐVTN và là tư liệu tham khảo để vận dụng vào quá trình
giáo dục các GTVHTTDT cho ĐVTN Thành phố Vinh trong giai đoạn hiện
nay và làm cơ sở nghiên cứu cho ĐVTN.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn được công bố trên một bài báo: Giáo
dục các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc cho đoàn viên thanh niên Thành
phố Vinh trong giai đoạn hiên nay, Nguyễn Văn Tiến - Phường Bến Thủy Thành Phố Vinh, Tạp chí Giáo chức Việt Nam, Số 77, (T9/2013).
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc cho đoàn viên thanh niên
- Chương 2. Thực trạng của việc giáo dục các giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc đoàn viên thanh niên Thành phố Vinh - Tỉnh Nghệ An trong
giai đoạn hiện nay
- Chương 3. Một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo
dục các giá trị văn hoá truyền thống dân tộc cho đoàn viên thanh niên Thành

phố Vinh - Tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay


18
B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC CHO ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN
1.1. Tổ chức Đoàn trong công tác giáo dục các giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc cho Đoàn viên thanh niên
1.1.1. Khái niệm giá trị văn hóa truyền thông
1.1.1.1. Khái niệm giá trị
Trong cuốn: Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục tiêu phát
triển có viết như sau: "Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực,
mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái
đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người
hành động và vươn tới" [5;16].
Trong cuốn: Từ điển Bách khoa toàn thư Xô Viết định nghĩa: “Giá trị là
sự khẳng định hoặc phủ định ý nghĩa của các đối tượng thế giới xung quanh đối
với con người, giai cấp, nhóm của toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác
định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự nhiên, mà là bởi tính chất cuốn
hút (lôi cuốn) của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của con người,
phạm vi các hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã hội, các chuẩn mực và
phương thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và
chuẩn mực đạo đức, trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [29; 1462].
Qua khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây tác giả đi đến khái
quát lại như sau:
Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với
cái đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu
hoặc có một vị trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu

góp phần vào sự phát triển của xã hội.


19
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó luôn
vận động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp trong từng
thời điểm nhất định. Chính vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì đã có
giá trị trong quá khứ đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho thấy
giá trị mang tính lịch sử khách quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một giá
trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người mà do yêu cầu của từng
thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội, giá trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá
trị giúp con người định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình,
là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người.
Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí mục
đích phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá trị:
Giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời
sống kinh tế, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá
trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được
thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, phong tục
tập quán... Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh thần
và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng,
cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con
người với con người, con người với xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm truyền thống
Trong cuốn: “Những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục truyền
thống cho thanh niên Tỉnh Nghệ An”, Đồng tác giả TS. Đoàn Minh Duệ, TS.
Nguyễn Thái Sơn, TS. Nguyễn Lương Bằng, TS. Đinh Thế Định đã đưa ra
định nghĩa mang tinh phổ thông và được nhiều người chấp nhận nhất đó là:

“Truyền thống: thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ,
được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác” [15;20].


20
Trong lịch sử đã từng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề
"truyền thống". Theo Từ điển Bách khoa Triết học của Liên Xô, "truyền
thống" có nguồn gốc từ tiếng Latinh là traditio - sự chuyển giao, lưu truyền lại
- đó là các giá trị tinh hoa văn hóa được lưu truyền từ những thế hệ trước và
nó được gìn giữ ở các xã hội, giai cấp hay nhóm xã hội nhất định. Trong cuốn
“Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” có đoạn viết:
"Từ đây, cái được gọi là truyền thống chỉ khi nào nó trở thành một bộ phận
thiết yếu của cuộc sống chúng ta và chỉ khi nào nó bảo tồn cuộc sống chúng ta
và chỉ khi nào nó có khả năng phát triển cuộc sống của chúng ta" [6; 23].
Truyền thống của một cộng đồng dân tộc bao gồm những đức tính,
thói quen, những phong tục tập quán xã hội của các thế hệ nối tiếp nhau, nó
mang các đặc trưng cộng đồng, bình ổn, lưu truyền. “Nói đến truyền thống
là nói đến phức hợp những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen, những
phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí... của một cộng đồng người đã hình
thành trong lịch sử, đã trở nên ổn định và được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác” [6; 16-19].
Dưới góc độ khoa học, truyền thống được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa
thứ nhất, truyền thống đó là những giá trị tốt đẹp, được lưu truyền từ đời này
qua đời khác, nó đứng vững được trong thời gian và có thể đương đầu với
những biến động của lịch sử. Hơn nữa, những giá trị ấy có khả năng tạo ra sức
mạnh, sản sinh ra các giá trị mới, đem lại lợi ích cho con người.
Tuy nhiên, trong đó cũng có những cái mà chúng ta vẫn gọi là "truyền
thống" nhưng không đem lại lợi ích cho con người, nhiều khi nó kìm hãm sự
phát triển đây là nghĩa thứ hai, nghĩa tiêu cực của phạm trù này. Hiểu theo
nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của đời sống con

người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của chúng ta. Tóm
lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.


21
1.1.1.3. Khái niệm văn hóa truyền thống
Bất cứ một dân tộc nào trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển
đều mang cho mình một nền văn hóa bản sắc dân tộc riêng và trong quá trình
lịch sử đó nó trở thành văn hóa truyền thống. Việt Nam chúng ta cũng kinh
qua ngay từ khi dựng nước đầu tiên cho đến tận ngày nay, lịch sử lâu đời đó
đã hình thành nên một nền văn hóa truyền thống đa dạng và phong phú.
Theo GS. Trần Văn Giàu: “Giá trị truyền thống được hiểu là những cái
tốt, bởi vì những cái tốt mới được gọi là giá trị. Thậm chí không phải bất cứ
cái gì tốt đều được gọi là giá trị, mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều
tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự hướng dẫn nhận định, đánh giá và dẫn
dắt hành động cuả một dân tộc thì mới mang đầy đủ ý nghĩa của khái niệm
“giá trị truyền thống” [25;132].
Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đều có những văn hoá
đặc trưng riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh tất cả những
gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên bản sắc
riêng của một dân tộc. GTVHTTDT đó được truyền lại cho thế hệ sau trở
thành một động lực nội sinh để phát triển đất nước và quá trình đó tạo nên giá
trị lịch sử mang tính bản sắc riêng của từ dân tộc.
GS. TS Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hóa là những
giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những
khuôn mẫu xã hội được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người qua không
gian và được cố định hoá dưới dạng những phong tục tập quán, nghi lễ, luật
pháp, dư luận...” [58; 133].
Văn hoá, theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người
(bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế...) để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng

xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội,
là cái vai trò của con người trong vũ trụ đó, với một hệ thống những chuẩn


22
mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm... tạo nên phong cách
diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người.
Một khái niệm khác: “Nền văn hóa được truyền lại được gọi là truyền
thống văn hóa. Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu con người, tích
tập được trong quá trình tìm hiểu, thực hiện. Và truyền bá ý nghĩa sâu lắng
nhất của cuộc sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hòa của nó như
là một hiện thân của trí tuệ” [74; 35].
Văn hoá là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người, loài người sáng tạo, tích luỹ trong suốt quá trình hoạt động thực
tiễn trong suốt quá trình lịch sử của mình. Con người là sản phẩm cao nhất
của tự nhiên và văn hoá là sản phẩm đặc sắc nhất của con người. Có thể nói
văn hóa là sự hoá thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩch vực của hoạt động
con người, nó xuyên suốt cơ thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ
xã hội, văn minh quốc gia, văn minh nhân loại.
Trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc giữ gìn,
phát triển nền văn hoá truyền thống Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết. Thực
tế cũng cho thấy rằng, truyền thống văn hoá loài người, cũng như truyền
thống văn hoá Việt Nam có cả truyền thống tốt, tiến bộ, có cả truyền thống
xấu, lạc hậu. Nói đến kế thừa truyền thống, chúng ta thường nghĩ ngay đến kế
thừa những nét tinh hoa của truyền thống. Trong ứng xử và quan hệ xã hội,
chúng ta thấy ở bất cứ dân tộc nào, miền nào trên đất nước ta cũng có những
tinh hoa đáng giữ gìn như: Truyền thống yêu nước, đánh giặc ngoại xâm,
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, truyền thống hiếu khách, yêu quê hương
đất nước...
Như vậy, các tác giả đã khái quát những đặc điểm cơ bản của văn hoá

truyền thống. Theo chúng tôi, văn hóa truyền thống là những yếu tố tương đối ổn
định và được truyền từ đời này qua đời khác, là hiện thân của trí tuệ được biểu
hiện ra trong lối sống hằng ngày như phong tục tập quán, luật pháp, dư luận...


23
1.1.1.4. Tính chất của văn hoá truyền thống
Có thể khái quát văn hoá truyền thống có những tính chất cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Tính giá trị. Cũng như văn hoá nói chung, văn hóa truyền
thống mang tính giá trị. Văn hoá truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu
của cuộc sống và góp phần phát triển cuộc sống. Văn hoá truyền thống mang
tính giá trị bởi vì nó là chuẩn mực, là thước đo cho hành vi đạo đức, cho
những quan hệ ứng xử giữa người với người trong một cộng đồng, một giai
cấp, một quốc gia, một dân tộc nhất định. Giá trị văn hoá truyền thống của
một dân tộc là những nguyên lý đạo đức mà con người trong một nước thuộc
các thời đại, các giai đoạn lịch sử đều dựa vào để phân biệt phải, trái, đúng,
sai để định hướng cho các hoạt động vì mục đích xây dựng cuộc sống tự do
và tiến bộ của dân tộc đó.
Thứ hai: Tính lưu truyền. Văn hoá ra đời, lưu truyền trong suốt chiều
dài lịch sử của dân tộc. Những giá trị của nó được chuyển giao nối tiếp, qua
nhiều thế hệ và văn hoá truyền thống đó được giữ gìn, phát huy lên một tầm
cao mới. Qua hàng nghìn năm lịch sử, các giá trị văn hoá truyền thống Việt
Nam như chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, ý thức cộng đồng được
lưu truyền phát triển tạo thành một hệ giá trị mới của dân tộc Việt Nam.
Thứ ba: Tính ổn định. Những giá trị của văn hoá truyền thống được gạn
đục, khẳng định qua nhiều thế hệ, nó trở thành cái chân, cái thiện, cái mỹ
được lịch sử thừa nhận. Nó là một trong những hệ giá trị của văn hoá dân tộc,
một thành tố ổn định của ý thức xã hội. Văn hóa truyền thống trở thành khuôn
mẫu được cố định hoá dưới dạng nghệ thuật, phong tục tập quán, nghi lễ, dư
luận xã hội, pháp luật...

Như vậy, tính ổn định, tính giá trị, tính lưu truyền đã tạo nên dáng vẻ
riêng của văn hoá Việt Nam. Trong những cuộc đụng đầu lịch sử với kẻ thù,
dân tộc ta đã tìm thấy sức mạnh vĩ đại trong những giá trị văn hoá truyền


×