Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Vai trò của hệ thống tài chính đối với sự phát triển kinh tế tại việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.84 KB, 27 trang )

GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Mục lục
Nội dung
Mở đầu

Trang
2
4
4
4
5
5

Phần 1: Cơ sở lý thuyết
1.
2.
3.
4.

Khái niệm hệ thống tài chính
Chức năng của hệ thống tài chính
Cấu trúc hệ thống tài chính
Vai trò của hệ thống Tài chính

Phần 2: Vai trò của hệ thống tài chính đối với sự phát triển kinh tế tại 6
Việt Nam. Liên hệ trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Cơ hội – thách
thức – giải pháp
6
I. Vai trò của hệ thống tài chính đối với phát triển kinh tế tại Việt 6
Nam
17


1. Tạo ra nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế
19
2. Phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả
19
II. Liên hệ trong giai đoạn hội nhập hiện nay của Việt Nam. Cơ hội 24
– thách thức - giải pháp.
1. Cơ hội – thách thức
2. Giải pháp
Phần 3: Kết Luận
Tài liệu tham khảo
Thành viên nhóm

25
27
28
Mở đầu

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay,với xu thế
hội nhập,vai trò của tài chính và hệ thống tài chính là vô cùng quan trọng.Bất kì
một tổ chức nào cũng không thế hoạt động sản xuất kinh doanh khi không đủ
nguồn lực về vốn,nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan trọng và được ưu tiên
hàng đầu khi bước vào một kì kinh doanh mới.Tuy nhiên trong nền kinh tế luôn
xuất hiện những chủ thể có vốn nhàn rỗi và những chủ thể có nhu cầu sử dụng
vốn cho hoạt động kinh doanh và tiêu dùng nhưng lại không đủ hoặc không có
vốn.Nhưng giữa hai loại chủ thể này rất khó gặp nhau để có thể trao đổi nhu
cầu về vốn của mình do những cản trở về thời gian,sự quen biết,thông tin,trình
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

1



GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
độ và uy tín…Để giải quyết mâu thuẫn đó các định chế tài chính trung gian ra
đời,đã tạo nên sự thuận lợi và phân tán rủi ro cho các bên.
Xã hội ngày càng phát triển,nhu cầu sử dụng về nguồn vốn ngày càng đa
dạng và phức tạp hơn.Trình độ khoa học công nghệ ngày càng cao,trình độ
chuyên môn cũng tăng lên không ngừng đã giúp cho việc trao đổi tài chính
ngày càng trở nên dễ dàng và nhanh hơn với nhiều hình thức tiếp cận nguồn
vốn khác nhau.Người ta có thể thỏa mãn nhu cầu về vốn thông qua thị trường
tài chính trực tiếp hoặc qua các trung gian tài chính.Tuy nhiên việc thông qua
thị trường tài chính trực tiếp mang lại nhiều nguy cơ tiềm ẩn với rủi ro cao
hơn.Để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững đòi hỏi dòng vốn phải
được luôn chuyển một cách trôi chảy,nhạy bén nhưng phải đặt trong một khuôn
khổ, trật tự nhất định.Điều đó đã tạo động lực hình thành và ra đời một hệ
thống tài chính nhằm đảm bảo dòng vốn luân chuyển an toàn, hiệu quả hơn.
Hiểu được tầm quan trọng của hệ thống tài chính đối với nền kinh tế, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập không ngừng mà Việt Nam đang hướng tới.Cho
nên việc tìm hiểu hệ thống tài chính và vai trò của hệ thống tài chính đối với
nền kinh tế Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết. Nhằm làm rõ vấn đề
này, tiểu luận tập trung tìm hiểu và phân tích “ Vai trò của hệ thống tài chính
đối với sự phát triển kinh tế tại Việt Nam”.
Nội dung nghiên cứu của nhóm gồm 3 phần:



Nghiên cứu cơ sở lý thuyết
Vai trò của hệ thống tài chính đối với sự phát triển kinh tế tại Việt Nam trong

xu hướng hội nhập mới
• Cơ hội – thách thức – giải pháp

Với thời lượng cho phép,nhóm 1 đã tìm hiểu thông tin trong giáo trình,
một số sách báo, và trang mạng cổng thông tin bộ tài chính nhưng không thể

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

2


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
tránh khỏi thiếu sót và hạn chế về kiến thức. Nhóm 1 rất mong nhận được góp ý
bổ sung của Cô giáo, bạn bè để hoàn chỉnh bài tiểu luận được tốt hơn.
Nhóm 1 chân thành cảm ơn!

PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.

Khái niệm hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính (HTTC) là tổng thể bao gồm các bộ phận cấu thành: thị
trường tài chính, định chế tài chính trung gian, cơ sở hạ tầng pháp lý – kỹ thuật
và các tổ chức quản lý giám sát và điều hành HTTC; gắn liền với việc huy
động, sử dụng các công cụ Tài chính để tổ chức phân bổ nguồn lực tài chính
nhằm đạt được mục tiêu đề ra của các chủ thể trong nền kinh tế; được tạo lập

trong một môi trường kinh tế xã hội cụ thể.
2. Chức năng của hệ thống tài chính
a. Huy động nguồn tài chính

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

3



GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Chức năng huy động vốn thể hiện khả năng tổ chức khai thác các nguồn
tài chính nhằm tạo lập nguồn lực đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh
tế.Chức năng huy động vốn được thực hiện trên cơ sở tương tác giữa các yếu
tố:
b.

Chủ thể cần vốn
Các nhà đầu tư
Hệ thống tài chính gồm thị trường tài chính và định chế tài chính.
Môi trường tài chính và kinh tế
Phân bổ nguồn tài chính:
Chức năng phân bổ nguồn tài chính hay còn gọi là chức năng phân phối
nguồn tài chính biểu hiện thông qua thiết lập kế hoạch sử dụng nguồn lực có
sẵn để đạt được mục tiêu phát triển trong ngắn hạn và dài hạn của các chủ thể
kinh tế - xã hội.Qua chức na năng phân bổ nguồn lực,các quỹ tiền tệ chuyên
dùng được hình thành với những quy mô nhất định tương ứng với nhu cầu chi
tiêu của các chủ thể.

c.

Sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro:
Chức năng sàng lọc, chuyển gia và phân tán rủi ro thể hiện qua việc tổ
chức thực hiện các công cụ của hệ thống tài chính,quản lý giám sát điều
hành,cung cấp thông tin giúp cho những nhà đầu tư lựa chọn kênh đầu tư an
toàn hạn chế bớt các hình thức đầu tư có tính rủi ro cao.

d.


Kiểm tra giám sát quá trình phân bổ nguồn tài chính
Kiểm tra tài chính phản ánh hoạt động thu thập và đánh giá những bằng
chứng về thông tin liên quan đến quá trình huy động vốn và phân bổ các nguồn
tài chính với mục đích giảm bớt thông tin bất cân xứng, đảm bảo tính đúng đắn,
tính hiệu quả và hiệu lực của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.

e.

Vận hành hệ thống thanh toán

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

4


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Chức năng vận hành hệ thống thanh toán nhằm làm tăng tính thanh khoản
của các tài sản tài chính,giảm chi phi giao dịch,.. được thể hiện thông qua việc
phát triển và hoàn thiện các hệ thống thanh toán,đặc biệt thanh toán không bằng
tiền mặt
3.
a.
b.
c.
d.
4.

Cấu trúc hệ thống tài chính
Thị trường tài chính

Trung gian tài chính
Cơ sở hạ tầng pháp lý – kỹ thuật về tài chính
Các tổ chức điều hành, giám sát hệ thống tài chính
Vai trò của hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính có vai trò được thể hiện thông qua các mối liên hệ giữa
các dòng vốn với sự tăng trưởng kinh tế và sự điều hành của các định chế tài
chính ( chủ yếu là các trung gian tài chính) trong vai trò phân bổ nguồn lực vào
các khu vực kinh tế,các hoạt động kinh tế diễn ra một cách hiệu quả.

-

Hệ thống tài chính tạo ra các dòng vốn phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.Bằng
nghiệp vụ của mình,hệ thống tài chính huy động và tạo lập các nguồn vốn, 1
phần chảy trực tiếp vào các lĩnh vực đầu tư phát triển theo hình thức tự đầu
tư,và một phần lớn đước tăng cường vào dòng tài chính với mục tiêu thu được
các khoản lợi tức thống qua các khoản đầu tư nợ và đầu tư vốn chủ sở hữu.sự
xuất hiện những dòng vốn này cùng với sự bổ sung thường xuyên từ lợi tức tài
chính làm vững mạnh thị trường tài chính, tăng cường các nguồn lực tài chính

-

cho tăng trưởng kinh tế.
Hệ thống tài chính ( chủ yếu là các trung gian tài chính) có vai trò phân bổ
nguồn lực tài chính một cách hiệu quả.

 Trung gian tài chính với chức năng huy động vốn để cho vay từ đó đã nảy sinh

ra các dịch vụ giám sát và đánh giá các giao dịch tài chính,quản lý rủi ro và tạo
thuận lợi cho các giao dịch ( tăng thông tin và giảm chi phí ).
 Ngoài ra với sự ra đời của các trung gian tài chính cũng cũng có ý nghĩa trong

việc tích lũy vốn cho nền kinh tế và hỗ trợ đổi mới công nghệ cho vấn đề tăng
trưởng kinh tế trên nhiều khía cạnh khác nhau.
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

5


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
 Quản lý điều hành hiệu quả các dòng vốn (không để vượt giới hạn cho phép) và

sự hình thành phát triển của các thể chế tài chính.
PHẦN 2: VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM.LIÊN HỆ TRONG GIAI ĐOẠN HÔI
NHẬP HIỆN NAY.CƠ HỘI – THÁCH THỨC – GIẢI PHÁP.
Vai trò của hệ thống tài chính đối với phát triển kinh tế ở Việt Nam
Tạo ra nguồn lực phục vụ tăng trưởng kinh tế.

I.
1.

Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia.
Riêng đối với các nước đang phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và
ổn định, cần phải có một khối lượng vốn rất lớn. Điều này càng được khẳng
định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng và phát
triển của mọi đất nước.
a.Vốn nội sinh.


Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (NSNN)
Đầu tư từ NSNN là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ khối lượng đầu

tư.Nó có vị trí rất quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi
nhằm đẩy mạnh đầu tư của mội thành phần kinh tế theo định hướng chung của
kế hoạch, chính sách và pháp luật đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất
của một số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo theo đúng định
hướng của chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội .
Với vai trò là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định điều điều tiết vĩ mô,
vốn từ NSNN đã được nhận thức và vận dụng khác nhau tuỳ thuộc quan niệm
của mỗi quốc gia. Trong thực tế điều hành chính sách tài khoá, Nhà nước có thể
quyết định tăng, giảm thuế, quy mô thu chi ngân sách nhắm tác động vào nền
kinh tế. Tất cả những điều đó thể hiện vai trò quan trọng của NSNN với tư cách
là công cụ tài chính vĩ mô sắc bén nhất hữu hiệu nhất, là công cụ bù đắp những
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

6


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
khiếm khuyết của thị trường, đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ môi trường
sinh thái …


Vốn đầu tư từ các doanh nghiệp
Đây là nguồn vốn có sự phát triển và đổi thay khá mạnh khi nền kinh tế có
sự chuyển biến.Các doanh nghiệp luôn là lực lượng đi đầu trong việc ứng dụng
tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh
tế xã hội và chấp hành pháp luật. Nên nguồn vốn xuất phát từ nó có vai trò hữu
hiệu hỗ trợ cho sự định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.




Vốn đầu tư của nhân dân
Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư phụ thuộc rất lớn vào thu nhập và chi tiêu
của các hộ gia đình. Đây là một lượng vốn lớn. Nhờ có lượng vốn này mà đã
góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn trong các doanh nghiệp, nó cũng giải
quyết được một phần lớn công ăn việc làm cho lao dộng nhàn rỗi trong khu vực
nông thôn từ đó thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân
dân.
Như vậy vốn đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng
trưởng kinh tế một cách liên tục, đưa đất nước đến sự phồn vinh một cách chắc
chắn và lâu bền. Tuy nhiên trong bối cảnh nền kinh tế còn kém phát triển, khả
năng tích luỹ thấp thì việc tăng cường huy động các nguồn vốn nước ngoài để
bổ sung có ý nghĩa rất quan trọng.
Kết quả - bằng chứng.
Theo kinh nghiệm phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết
định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong nước . Trong lịch sử phát
triển các nước và trênphương diện lý luận chung, bất kỳ nước nào cũng phải sử
dụng lực lượng nội bộ là chính . Sự chi viện bổ sung từ bên ngoài chỉ là tạm
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

7


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
thời, chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước có hiệu quả mới nâng
cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng đề ra của
quốc gia.
Trong năm năm 1991- 1995 vốn đầu tư xã hội khoảng 18 tỷ USD, trong
đó đó đầu tư nhà nước chiếm khoảng 43%. Đầu tư của khu vực tư nhân chiếm
khoang 1/3 tổng số vốn đầu tư.Tổng mức tiết kiệm mà các tổ chức huy động
dược tăng từ 5300 tỷ đồng năm 1990 lên trên 24000 tỷ đồng, chiếm 35,5% tổng

đầu tư xã hội . Sang kế hoạch 1996- 2000 lượng vốn dự báo cần cho đầu tư
phát triển khoảng 41- 43 tỷ USD trong đó thì 50% từ nguồn vốn trong nước.
Phần vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước dự kiến chỉ chiếm 12,6%, do đó phải
đẩy mạnh việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích các
doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác tự bỏ vốn ra hoạt động sản
xuất kinh doanh. Trước yêu cầu mới, vấn đề huy động và sử dụng vốn vẫn đang
gặp nhiều khó khăn phức tạp cần phải khắc phục.Ngân sách nhà nước luôn ở
trong tình trạng căng thẳng, không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư phát
triển. Đầu tư của nhà nước bị phân tán do phải đáp ứng nhiều nhiệm vụ, các
nguồn thu từ thuế, các khoản lệ phí, dịch vụ công cộng còn nhiều thất thoát và
lãng phí. Số vốn huy động được thông qua tín dụng chủ yếu là vốn vay ngắn
hạn không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển và chuyển đổi cơ cấu sản
xuất.Vốn đầu tư trực tiếp từ khu vực tư nhân hãy còn chiếm tỷ lệ nhỏ tập trung
chủ yếu (80%) vào các lĩnh vực thương mại dịch vụ, phục vụ tiêu dùng.Một bộ
phận không nhỏ nguồn vốn huy động ở trong nước còn đang nằm ở ngân hàng
thương mại đang bị ứ đọng không trở thành nguồn vốn đầu tư được.
Hạn chế :
Hạn chế lớn nhất của dòng vốn nội sinh là tạo ra sự bất ổn trong đầu tư khi
nền kinh tế có những biến động xấu, đặc biệt là khi có lạm phát cao và có dấu
hiệu khủng hoảng kinh tế.Sự rút lui của các dòng vốn theo trào lưu tâm lí có thể
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

8


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
gây ra những cú sốc. Do vậy, càng phải tôn trọng các yêu cầu đặt ra đối với các
dòng vốn này
b. Vốn ngoại sinh.



Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Thuận lợi:
Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới mọi dạng sẽ an toàn và tốt hơn
việc trực tiếp vay nợ thương mại. Hơn nữa, điều này còn tránh cho nước tiếp
nhận đầu tư những khó khăn, lúng túng ban đầu về thị trường, kinh nghiệm
quản lý-kinh doanh quốc tế. Cùng với những bảo đảm pháp lý có tính quốc tế,
bằng cách điều chỉnh những chiếc “van” như: Ưu đãi thuế, tài chính, tiền tệ,
phát triển hạ tầng cứng-mềm, các thủ tục hải quan, hành chính, các nước chủ
nhà có thể hướng dẫn luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đúng chỗ,
đúng lúc, đủ khối lượng cần thiết theo kế hoạch định hướng sự phát triển kinh
tế-xã hội của mình.
Kết quả_Bằng chứng:
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính
đến hết tháng 11/2012, cả nước có 14.198 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng
vốn đăng ký là hơn 208,1 tỷ USD.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam giai đoạn 2006-2011
Vốn đăng ký

Vốn thực hiện

Năm

Giá trị (triệu Tỉ lệ tăng so Giá trị
USD)
với 2006 (%)
USD)

2006


12.044

2007
2008

21.348
71.726

77,8
497,5

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

9

(triệu Tỉ lệ tăng so với
2006 (%)

4.100

-

8.030
11.500

95,9
180,5


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền

2009
2010
2011

23.107
19.764
14.696

92,5
64,6
22,4

10.000
11.000
11.000

143,9
168,3
168,3

(Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Hạn chế
Song, trong lĩnh vực tưởng chừng toàn những điều tốt lành này, những tác
động mặt trái của FDI vẫn ẩn khuất đâu đó:
Thứ nhất, thực tiễn thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư này chỉ thực sự tích
cực và góp phần làm dịu lạm phát khi chúng làm tăng cung những hàng khan
hiếm, tăng nhập khẩu phụ tùng thiết bị sản xuất và công nghệ tiên tiến, từ đó
làm tăng tiềm lực xuất khẩu, khả năng cạnh tranh, cải thiện cán cân thanh toán,
tăng thu ngân sách cho nước chủ nhà và giúp hạn chế sức ép tăng tỷ giá tiền tệ
thực tế. Ngược lại, nếu thiên về khuynh hướng kích thích nền kinh tế bong

bóng, kích thích và thoả mãn những tiêu dùng cao cấp vượt quá khả năng kinh
tế và sự tích luỹ cần thiết của nước tiếp nhận đầu tư, thì về lâu dài, chúng sẽ có
hại cho các nguồn lực tăng trưởng kinh tế, tăng nhập siêu và làm mất cân đối
tài khoản vãng lai, do đó làm tăng các xung lực lạm phát tương lai của đất
nước.
Thứ hai, nếu việc chuyển giao công nghệ (cả phần “cứng” lẫn phần
“mềm”) không được thực hiện đầy đủ, hoặc chỉ chuyển giao những công nghệ
lạc hậu, thì mặc nhiên “những lợi thế tương đối của nước bắt đầu muộn” sẽ bị
tước bỏ – đó là một mặt. Mặt khác, khi đó nước tiếp nhận không chỉ không cải
thiện được tình trạng công nghệ, khả năng xuất khẩu, mà còn phải chịu thêm
gánh nặng nuôi dưỡng và dỡ bỏ những công nghệ “bất cập” này theo kiểu “bỏ
thì vương, thương thì tội”. Ngoài ra, còn phải kể thêm tình trạng phụ thuộc một
chiều vào đối tác nước ngoài về kinh tế – kỹ thuật của nước tiếp nhận dòng đầu
tư kiểu ấy gây ra. Do đó, hiệu quả tiếp nhận vốn đầu tư sẽ không như mong
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

10


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
đợi, hoặc không tương xứng với chi phí của nước chủ nhà bỏ ra, cả về chi phí
tài chính, nhân lực và môi trường, tức “một tiền gà, ba tiền thóc”.
Thứ ba, để hấp thụ được 1 USD đầu tư nước ngoài, theo tính toán của các
chuyên gia thế giới, nước tiếp nhận cũng phải có sự bỏ vốn đầu tư đối ứng từ
0,5 – 3 USD, thậm chí nhiều hơn. Thêm nữa, lượng ngoại tệ đổ vào trong nước
sẽ làm tăng lượng cung tiền tệ lẫn lượng cầu hàng hoá và dịch vụ tương ứng.
“Hợp lực” của những yếu tố đó sẽ tạo nên những xung lực lạm phát mới do tính
chất “quá nóng” của tăng trưởng kinh tế gây ra.
Thứ tư, cần tính đến tác động kinh tế-xã hội và môi trường tổng hợp của
các dự án FDI, nhất là các dự án dùng nhiều đất nông nghiệp, tạo áp lực thất

nghiệp và là nguồn phát thải, gây ô nhiễm môi trường lớn trong tương lai. Đặc
biệt, các dự án xây dựng sân golf ở đồng bằng, vùng đất màu mỡ và những dự
án “bán bờ biển” cho các nhà kinh doanh du lịch nước ngoài rất dễ làm tổn
thương đến lợi ích lâu dài của các thế hệ tương lai.


Vốn đầu tư gián tiếp.
Tích cực:
Một mặt, sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhất là trên thị
trường chứng khoán, tạo những tác động tích cực:
- Trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng tổng
vốn đầu tư trực tiếp của xã hội. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài khi đổ
vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường
vốn trong nước như một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng vốn này.
Hơn nữa, khi vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả
tích cực gia tăng dây chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói
cách khác, các nhà đầu tư trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

11


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
nước ngoài và tăng động lực bỏ vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu
tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên.
- Góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn
thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ
phận thị trường vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ làm cho thị trường tài chính
(đặc biệt là thị trường chứng khoán) Việt Nam trở nên đồng bộ, cân đối và sôi

động hơn, khắc phục được sự thiếu hụt, trống vắng và trầm lắng, thậm chí đơn
điệu, kém hấp dẫn kéo dài của thị trường này trong thời gian qua. Hơn nữa,
điều kiện và như là kết quả đi kèm với sự gia tăng dòng vốn này là sự phát triển
nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính – chứng khoán, trước hết là các loại quỹ
đầu tư, công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác, cũng như các
dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín nhiệm,
bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường; Đồng thời còn kéo theo sự
gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường,
trước hết trên thị trường chứng khoán…
- Tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải thiện chất
lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Đông đảo các nhà
đầu tư nước ngoài và cả trong nước, từ người dân, các doanh nhân đến các tổ
chức và pháp nhân đầu tư chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp sẽ có thêm
điều kiện lựa chọn sử dụng vốn của mình để đầu tư dưới các hình thức trực tiếp
tự mình hay thông qua các định chế tài chính trung gian để mua – bán các cổ
phiếu, trái phiếu và chứng khoán có giá khác của Việt Nam trên thị trường tài
chính Việt Nam và nước ngoài. Thông qua quá trình tham gia đầu tư gián tiếp
này, các nhà đầu tư trong nước và người dân sẽ được dịp “cọ xát”, rèn luyện và
bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, bản lĩnh đầu tư, nâng cao trình độ
bản thân nói riêng, chất lượng nguồn nhân lực nói chung, phù hợp yêu cầu và
điều kiện kinh doanh thị trường, hiện đại.
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

12


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các nguyên tắc và
yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Hệ thống luật pháp, cũng như các
cơ quan, bộ phận và cá nhân trong hệ thống quản lý nhà nước liên quan đến thị

trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải được hoàn
thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc điểm của
thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời, thông
qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và
thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp.
Trên cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói
chung, thị trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn.
Hạn chế:
Mặt khác, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cũng có thể gây ra một số
tác động tiêu cực sau:
- Tăng mức độ nhạy cảm và khả năng bất ổn về kinh tế liên quan đến các
nhân tố nước ngoài. Khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực
hiện dưới dạng đầu tư tài chính thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển
đổi và mang tính thanh khoản cao trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư
gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí
đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước, hay chuyển sang đầu tư dưới dạng
khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và mục tiêu kinh doanh của mình.
Đặc trưng nổi bật đó cũng chính là nguyên nhân hàng đầu gây nên nguy cơ tạo
và khuyếch đại độ nhạy cảm và chấn động kinh tế ngoại nhập của dòng vốn này
đối với nền kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư, đặc biệt khi việc chuyển đổi và
rút vốn đầu tư gián tiếp nói trên diễn ra theo kiểu “tháo chạy” đồng loạt trên
phạm vi rộng và số lượng lớn… Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một
cuộc khủng hoảng đầu tư – tài chính – tiền tệ, lạm phát cao, thậm chí là khủng
hoảng kinh tế hết sức tệ hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

13


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền

nước tiếp nhận đầu tư, nếu không có và triển khai tốt các phương án phòng
ngừa hiệu quả.
- Gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn tài chính
đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán.
Sự gia tăng tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng
lập, được biểu quyết của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức
“vượt ngưỡng” nhất định nào đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối
và quyết định các hoạt động sản xuất – kinh doanh và các chủ quyền khác của
doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng khoán, thậm chí lũng đoạn doanh
nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu riêng của mình, kể cả các hoạt
động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là, tính chất gián tiếp
của vốn đầu tư nước ngoài đã chuyển hoá thành tính trực tiếp.Nhà đầu tư gián
tiếp sẽ chuyển hoá thành nhà đầu tư trực tiếp. Thậm chí, về lô-gích, quá trình
“diễn biến hoà bình” này đạt tới quy mô và mức độ nào đó còn có thể làm
chuyển đổi về chất quyền sở hữu và tính chất kinh tế ban đầu của doanh nghiệp
và quốc gia.
- Tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội phạm
kinh tế quốc tế như:
Hoạt động lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh
doanh phi pháp và hoạt động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an
ninh phi truyền thống khác. Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác
động mặt trái của các dòng vốn kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có
tổ chức” của giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều,
trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế
lành mạnh và làm tăng tính dễ tổn thương và có thể gây ra lạm phát cao của nền
kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay; Thậm chí

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

14



GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà nước và gây sụp đổ một
nội các chính phủ…

c.Vốn ODA
Thực trạng:
ODA đã bổ sung quan trọng cho sự phát triển KT_XH ở VN. Trong giai
đoạn 2001-2007, ODA đã bổ sung 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng
17% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Nhờ vốn ODA, sự phát triển đã
đạt được trên nhiều mặt của nền kinh tế, bao gồm xóa đói giảm nghèo, phát
triển nguồn lực, chuyển giao tiến bộ công nghệ, kinh nghiệm quản lí tiên tiến
và năng lực thể chế.
-

Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng GDP ở

VN, bổ sung những thiếu hụt về vốn trong nước. Cụ thể vốn ODA chiếm
khoảng 10% trong các vốn đầu tư toàn xã hội.
- Góp phần cải thiện các dich vụ xã hội cơ bản và hỗ trợ xóa đói giảm
nghèo.
- Góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn
nước ta.
- Tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cải cách kinh tế vĩ mô
Thuận lợi:
Môi trường quốc tế lien quan đến thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA có
những thuận lợi sau:
-


Cộng đồng các nhà tài trợ càng ngày càng tin tưởng vào công cuộc đổi

mới kinh tế của Đảng và nhà nước ta.
- Liên minh châu Âu à Mỹ đã cam kết tang ODA cho các nước đang và
chậm phát triển.
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

15


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
-

Ngày càng có xu hướng các quốc gia, các nền kinh tế thắt chặt, hợp tác

với nhau để giải quyết các vấn đề môi sinh, môi trường.

Khó khăn:
-

Nguồn vốn ODA đang có xu hướng giảm sút trên phạm vi toàn cầu.
Nhu cầu về ODA của các nước đang và chậm phát triển vẫn tiếp tục gia

tăng tạo ra một cuộc cạnh tranh quốc tế rất quyết liệt nhằm huy động ODA
phục vụ mục tiêu phát triển.
- TÍnh hiệu quả và sức cạnh tranh của nề kinh tế còn non kém. Chỉ số
ICOR còn ở mức cao.
- Tỷ lệ giải ngân và tính hiệu quả của một số dự án, chương trình ODA
còn quá thấp, trung bình khoảng trên 45% so với mức cam kết và khoảng 80%
so với kế hoạch.

- VN đang mất dần lợi thế là nước ưu tiên trọng yếu được nhận vốn ODA
do trong các năm gần đây mức sống của người dân VN đã được cải thiện và
nâng cao đáng kể.
2:Phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả
Thuận lợi:
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính. Hệ thống tài chính giúp cho
nguồn vốn được luân chuyển một cách hợp lý, từ nơi dư thừa vốn sang những
nơi đang thiếu hụt vốn, từ những nơi kinh doanh kém hiệu quả sang những nơi
kinh doanh hiệu quả hơn. Khi các doanh nghiệp vận dụng tốt sẽ vừa mang lại
lợi ích cho chính doanh nghiệp mình, vừa góp phần mang lại lợi ích cho quốc
gia, cho cả nền kinh tế.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện ngày càng thuận lợi và công
bằng cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia giao dịch trên thị trường vốn cổ
phần trong nước, cũng như cho phép các nhà đầu tư trong nước dễ dàng đầu tư
ra nước ngoài. Khi đó, rủi ro được chia sẻ tốt hơn, chi phí vốn của doanh
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

16


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
nghiệp giảm đi và lưu lượng đầu tư tăng lên. Kết quả là, sản lượng của nền kinh
tế gia tăng.
Giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tức là khi có
các nhà đầu tư nước ngoài vào, nguồn vốn và cả nguồn nhân lực bên ngoài
cũng bắt đầu vào trong nước. Điều này làm cho các doanh nghiệp ở Việt Nam
muốn cạnh tranh được thì phải đổi mới công nghệ, phương thức sản xuất, cải
thiện tình hình của mình để có thể tồn tại và phát triển trước xu thế của thời đại.
+ Tiết kiệm chi phí thông tin, trung gian, …
Vì các thông tin trong hệ thống tài chính luôn luôn phải cập nhật và kiểm

tra nên thông tin ở thị trường này là chính xác nhất. Điều này giúp cho các đơn
vị muốn đầu tư vào TTTC biết để quyết định xem có nên đầu tư hay không.
Các thông tin này luôn luôn được cung cấp một cách phổ biến, chính xác, ai
cũng có quyền biết nên nó sẽ cho nhà đầu tư những quyết định sáng suốt nhất,
đảm bảo cho nguồn tài chính vận động hiệu quả nhất.
+ Có các tổ chức về tài chính giúp phân tán rủi ro: như các công ty Bảo
hiểm, trung gian tài chính, …Các tổ chức này là nơi kết nối những người dư
thừa vốn và thiếu hụt vốn lại với nhau. Nếu muốn có nguồn tài chính để đầu tư
bổ sung cho doanh nghiệp thì các Doanh nghiệp đó đến gặp trực tiếp các trung
gian TC để được hướng dẫn, như vậy sẽ tiết kiệm được khá nhiều ở khâu trung
gian.
+ Sự phát triển của hệ thống tài chính – thông qua quá trình cạnh tranh vai
trò quyết định khả năng phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế giữa các ngân
hàng và các thị trường tài chính – đóng góp tích cực vào quá trình cải tiến công
nghệ và phương thức sản xuất, đầu vào có khả năng tạo ra đột phá trong tăng
trưởng kinh tế.
Khó khăn:
+ Nếu phân bổ không đúng thì có thể dẫn đến cạnh tranh kém hiệu quả.
Vì lượng vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào nhằm mục đích sinh lời, đôi khi
và quá chạy theo lợi nhuận mà doanh nghiệp bỏ qua hoặc không xem xét kĩ
những tiềm năng có thể đạt được, không cần biết xu thế như thế nào, đã bão
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

17


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
hòa hay chưa. Đôi khi cạnh tranh lẫn nhau lại không thu được kết quả gì mà lại
còn có những sự cạnh tranh không lành mạnh, chạy theo lợi nhuận mà loại trừ
nhau, …

+ Ơ VN hiện nay thì vấn đè tín dụng và TTCK vẫn còn là một vấn đề rất
nan giải, khó có thể giải quyết ngay tức thời. Có nhiều vấn đề đang âm ỉ xảy ra.
+ Do hình thức này khá đơn giản và dễ thực hiện, chi phí rẻ nên nhiều
doanh nghiệp đã đi quá giới hạn của mình, họ chuyển sang đầu tư dàn trải quá
nhiều chỗ có thể đến mất vốn. Khi đầu tư dàn trải, các doanh nghiệp không có
thời gian nghiên cứu cụ thể và chính xác nhất về nơi họ đầu tư.
- Cần cải cách chính sách tài chính, tái cấu trúc hệ thống tài chính theo
hướng có lợi nhất cho các doanh nghiệp và nền kinh tế:
- Ngoài ra chúng ta hãy luôn tìm hiểu và xem xét những thông tin như
phần nêu trên và xác định nó là đúng hay sai để ra cho mình một quyết định là
II.

có đầu tư vào hay không.
Liên hệ trong giai đoạn hội nhập hiện nay tại Việt Nam.Cơ hội – thách
thức – giải pháp.
1. Cơ hội – thách thức.
Cách đây 6 năm, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại Thế giới (WTO), nhiều người kỳ vọng rằng hệ thống tài chính sẽ
có cơ hội đột phá để bước lên một tầm cao mới.
Sự sôi động của thị trường chứng khoán, sự mở rộng của các ngân hàng,
các công ty chứng khoán… cho thấy dường như điều dự đoán đang xảy ra. Tuy
nhiên, nếu nhìn chi tiết hơn những thay đổi liên quan đến bốn thành tố cơ bản
của hệ thống tài chính gồm: các thị trường tài chính, các tổ chức tài chính,các
công cụ tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính, nhất là hạ tầng mềm, có thể thấy
được nhiều góc khuất của bức tranh.

Thị trường tài chính tăng trưởng đột biến về lượng

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05


18


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Đối với thị trường cổ phiếu, nếu không có gì thay đổi, kết thúc năm 2007,
giá trị thị trường của gần 250 doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn giao dịch sẽ
vào khoảng 470.000 tỉ đồng, gấp hơn hai lần năm 2006 và bằng 41% GDP.
Nếu tính thêm Vietcombank với giá cổ phiếu bằng mức giá khởi điểm khi
IPO, cộng với Bảo Việt và Công ty Tài chính Dầu khí, những doanh nghiệp sẽ
niêm yết cổ phiếu trong một tương lai gần, sẽ được con số gấp ba lần năm 2006
và bằng 60% GDP, cao hơn mục tiêu phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam đến năm 2010.
Ở khu vực ngân hàng, tín dụng cũng có sự đột biến với tốc độ tăng trưởng
có thể lên đến 40%. Một lượng tiền gần 300.000 tỉ đồng được đưa vào nền kinh
tế, cao hơn rất nhiều nguồn vốn được cung ứng qua kênh chứng khoán và trở
thành năm các tổ chức tín dụng cho vay nhiều nhất từ trước đến nay để đưa
tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế xấp xỉ 1 triệu tỉ đồng, bằng 90% GDP.
Trên thị trường trái phiếu, sự khởi sắc của những phiên giao dịch đầu năm
2007 không giúp thị trường ấm lên khi mà tình trạng ế hàng đã liên tục xảy ra ở
giai đoạn cuối năm 2007 và nhiều tổ chức phát hành phải trì hoãn kế hoạch của
mình. Thêm vào đó, 2007 có lẽ lại là một năm không thành công đối với ngành
bảo hiểm.
Như vậy, tính toán sơ bộ, đến cuối năm 2007, dư nợ cho vay của các ngân
hàng và giá trị thị trường của các doanh nghiệp niêm yết đã bằng 1,5 GDP, một
mức tiệm cận khá gần so với Thái Lan và Hàn Quốc. Tuy nhiên, sự nở ra của
thị trường tài chính đang bị lệch về phía tín dụng ngân hàng và cổ phiếu, trong
khi trái phiếu và bảo hiểm vẫn chưa thể cất cánh.
Các tổ chức tài chính mở rộng quá mức và xuất hiện yếu tố không lành
mạnh


Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

19


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Trừ thời của các hợp tác xã tín dụng, chưa bao giờ Việt Nam lại có nhiều
các tổ chức tài chính như hiện nay với hơn 80 ngân hàng (trong nước và nước
ngoài),trên 100 công ty chứng khoán (kể cả những hồ sơ đã nộp, đang chờ cấp
phép).
Bên cạnh đó, việc các tổ chức tài chính đua nhau mở rộng mạng lưới
(nhiều người nói rằng ngân hàng đang nhiều hơn khách hàng) và xu hướng
thành lập ngân hàng trực thuộc các tập đoàn cũng là điều đáng báo động.
Sự mở rộng quá nóng nêu trên đã đặt ra thách thức rất lớn về nguồn lực
cũng như quản lý rủi ro. Sự cạnh tranh không lành mạnh đã xuất hiện. Những
diễn biến bất thường của lãi suất là một dấu hiệu.
Trong ba quí đầu năm 2007 , cho dù các ngân hàng thừa tiền đồng và lãi
suất ngoại tệ trên thế giới giảm nhưng lãi suất trong nước (cả tiền đồng và
ngoại tệ) không những không đi xuống mà còn có chiều hướng ngược lại với
nguyên nhân là do các chi nhánh ngân hàng mới được thành lập cần phải có
nguồn vốn, kiểu gì cũng phải giữ, thậm chí tăng lãi suất để thu hút khách hàng.
Những hiện tượng tương tự đã xảy ra ở các nước Đông Á trước khủng
hoảng năm 1997 và điều gì phải đến đã đến. Thái Lan hiện chỉ còn 17 ngân
hàng trong nước, 17 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 39 công ty chứng
khoán và Hàn Quốc còn khiêm tốn hơn, trong khi quy mô thị trường tài chính
cũng như nền kinh tế của họ lớn hơn Việt Nam rất nhiều.
Một điều đáng quan tâm khác là sự nhầm lẫn giữa mục tiêu có những tổ
chức tài chính mạnh làm nền tảng cho một hệ thống tài chính phát triển và việc
bán cổ phần được giá cao. Diễn tiến quá trình IPO của Bảo Việt và
Vietcombank cũng như việc dãn tiến độ cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà

nước cho thấy có vẻ như mục tiêu thứ hai được quan tâm hơn.

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

20


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Công cụ tài chính không có nhiều tiến triển
Trong khi thị trường và các tổ chức tài chính cứ lớn lên từng ngày thì
ngoài tín dụng tiêu dùng được các ngân hàng đẩy mạnh, trong năm 2007 không
có nhiều loại hình sản phẩm tài chính được triển khai.
Tệ hại hơn là việc lợi dụng khách hàng chưa hiểu rõ về cách tính toán lãi
suất và sự không rõ ràng của các quy định mà một số tổ chức tài chính đang
cho vay tiêu dùng với một lãi suất cắt cổ.
Một số chính sách có thể làm tình trạng bong bóng trầm trọng hơn
Việc nóng lên của thị trường chứng khoán, bất động sản trong thời gian
qua chủ yếu là do yếu tố kỳ vọng quá mức, do đầu cơ nhiều hơn là thực lực của
các doanh nghiệp cũng như nhu cầu thực tế. Điều này sẽ tác động không tốt đến
mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế dài hạn.
Về nguyên tắc, Chính phủ là người có đủ thông tin và nguồn lực để đánh
giá được tình trạng thực tế cũng như bản chất vấn đề để đưa ra những chính
sách điều chỉnh. Tuy nhiên, nhìn một số quyết sách trong thời gian qua có vẻ
như điều ngược lại đã xảy ra khi mà tình trạng bong bóng giá cả ngày một trầm
trọng hơn.
Ngoài những lúng túng trong điều hành chính sách tiền tệ, kể cả giải pháp
chống lạm phát, việc trì hoãn cổ phần hóa cũng như bán nhỏ giọt cổ phiếu của
các doanh nghiệp Nhà nước ra bên ngoài với những mức giá quá cao và việc
không cho các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhận tiền ứng trước của
người mua đã làm cho sự mất cân bằng cung cầu gia tăng, kích thích các hoạt

động đầu cơ hơn là đầu tư dài hạn.
Điều này tạo ra rủi ro rất lớn vì những nhà đầu tư thực sự khó có thể tham
gia mà chỉ là những đồng tiền nóng (hot money) của các nhà đầu cơ được đổ
vào tạo ra bong bóng thị trường rồi họ rút đi để lại hậu quả cho nền kinh tế.
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

21


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
Điều đáng quan tâm
Sự kỳ vọng quá mức có thể phải trả một giá rất đắt. Nhìn bối cảnh hiện tại
ở Việt Nam có thể liên tưởng đến những gì đã xảy ra tại các nước láng giềng
vào đầu những năm 1990. Khi tiến trình mở cửa diễn ra mạnh mẽ, Thái Lan
cũng như một số nước Đông Nam Á đã đạt được một tốc độ tăng trưởng nhanh
trong nhiều năm để tạo ra sự “thần kỳ Đông Á”.
Tất cả mọi thứ như: chứng khoán, ngân hàng, bất động sản… đều bùng
phát và đẩy kỳ vọng của công chúng đi quá xa. Sự lạc quan xuất hiện trong ánh
mắt của hầu hết mọi người.
Điểm “ấn” để khủng hoảng xảy ra là việc mở cửa tài khoản vốn. Khi mở
cửa, các nước đều mong muốn có được những kết quả tốt đẹp. Lúc đó người
Thái, người Malaysia cũng như người Indonesia đã mường tượng đến cảnh
Bangkok, Kuala Lumpur hay Jarkata sẽ trở thành một mắt xích trong chuỗi thị
trường tài chính toàn cầu.
Tuy nhiên, điều ngược lại đã xảy ra. Hơn 10 năm trôi qua, những di chứng
của cuộc khủng hoảng không chỉ đẩy nền kinh tế của một số nước rơi vào trì trệ
mà còn là những bất ổn chính trị triền miên.
Những gì đang xảy ra ở Tp.HCM không khác lắm so với Bangkok cách
đây gần 20 năm. Tình trạng kẹt xe ngày một trầm trọng hơn, thị trường chứng
khoán lên cơn sốt, cầu về thuê văn phòng và căn hộ tăng cao chưa từng thấy

làm cho các dự án bất động sản đua nhau mọc lên.
Chỉ số chứng khoán của Thái Lan đã lên đến 1753 điểm vào đầu năm
1994, để rồi tuột dốc sau đó. Liệu Việt Nam có tránh được vết xe đổ này? Điều
gì sẽ xảy ra với thị trường cho thuê văn phòng và căn hộ ở Tp.HCM hay Hà
Nội nếu đột ngột năm ba ngàn văn phòng đóng cửa và năm ba chục ngàn người

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

22


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
không có nhu cầu thuê căn hộ hoặc phải chuyển xuống ở mức thấp hơn khi thu
nhập bị giảm?
Ví dụ giờ đây mỗi năm có mấy trăm chi nhánh ngân hàng, hàng trăm các
tổ chức tài chính mới ra đời sẽ tạo ra một lượng cầu về nhân lực rất lớn, nhưng
nếu số lượng nêu trên đột ngột thu hẹp hoạt động thì hàng ngàn lao động sẽ dôi
dư là điều khó tránh khỏi. Thực ra, tốc độ kẹt xe cũng như sự nóng lạnh của thị
trường không phải là cấp số cộng mà là cấp số nhân. Căng nhanh thì xẹp cũng
nhanh.
Tham gia vào sân chơi toàn cầu là điều kiện tốt để có thể tận dụng được
các lợi thế nhằm bước lên một tầm cao mới, nhưng sự kỳ vọng quá mức cộng
với những chính sách không hợp lý có thể mang đến thảm họa.
Điều quan trọng là cần hiểu rõ bản chất của cuộc chơi để có những quyết
sách phù hợp, chứ không nên vì sự hào nhoáng bên ngoài mà có những quyết
sách ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững.
2. Giải

pháp.
• Đổi mới chế quản lý, củng cố hệ thống luật pháp và tăng cường pháp chế xã hội

chủ nghĩa
Dây là một trong những vấn đề nóng bỏng của giai đoạn hiện nay. Bởi
tài chính bao gồm nhiều mối quan hệ phức tạp với nhiều thành phần. Trong đó
trọng tâm là xây dựng luật thuế, luật ngân hàng,…


Phát triển hệ thống thông tin, dự báo, mở rộng quan hệ tài chính quốc tế, kiện
toàn chính sách mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài
Vai trò của thông tin trong điều kiện khoa học kĩ thuật phát triển hiện
nay là rất cần thiết. Nó giúp các nhà quản lí tài chính có thông tin nhanh hơn,
nhiều hơn, toàn diện hơn không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên toàn thế
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

23


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
giới. Từ đó, có thể đề ra các chính sách hợp lí hơn, phù hợp hơn với tình hình
thực tế.


Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm minh các trường hợp

vi phạm pháp luật về tài chính
• Phát triển hệ thống trung gian tài chính đặc biệt là ngân hàng(tái cấu trúc các
ngân hàng, giải quyết nợ xấu, giảm lãi suất cho vay, nâng cao các dịch vụ chăm
sóc KH….).Đẩy mạnh việc phục vụ an sinh xã hội của các công ty bảo hiểm ,
quỹ hưu trí.
PHẦN 3: KẾT LUẬN.
Đứng trước một xu thế mới,xu thế mở cửa,liên kết thương mại song

phương, Việt Nam vừa có những cơ hội, thách thức. Cơ hội là sự gia tăng liên
kết với nhiều đối tác thương mại quan trọng sẽ góp phần tạo nên động lực để
Việt Nam có thể chuyển đổi phát triển nền kinh tế,đi lên chủ nghĩa xã hội,khai
thác các mặt hàng có định hưỡng và thế mạnh xuất khẩu.Nhưng bên cạnh đó
những khó khăn như việc về vấn đề vốn, điều kiện về khoa hoạc công nghệ,
nguồn nhân lực,…
Qúa trình đối phó với các thách thức của doanh nghiệp cần thiết có sự hỗ
trợ của nhà nước trong việc xây dựng thể chế pháp lý và những chính sách cần
thiết…Đặc biệt, vấn đề quản lý tài chính doanh nghiệp và quản lý vốn của nhà
nước tại các doanh nghiệp là một vấn đề lớn mà ngành Tài chính phải tập trung
giải quyết.Trong giai đoạn mới, sẽ phải chú trọng hơn nữa đến việc thực hiện
thực hiện đồng bộ tự do hóa với xây dựng hạ tầng về thể chế, quản lý và chính
sách liên quan, để đảm bảo sự ổn định cho toàn bộ nền kinh tế, và hệ thống tài
chính được phát huy hết vai trò một cách hiệu quả hơn.
Để hội nhập tài chính,xây dựng hệ thống tài chính hiệu quả hơn có thể
thành công đòi hỏi quá trình này pahir được quan tâm,đây rmanhj theo hướng
Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05

24


GVHD : TS Lê Thị Diệu Huyền
nới lỏng dần,tiến tới tự do hóa các chính sách và thể chế tài chính,tạo ra môi
trường thuận lợi hỗ trợ cho quá trình tiếp cận thương mại và đàu tư cho các nhà
đầu tư trong tiến trình hội nhập kinh tế. Với sự chuẩn bị chu đáo, thống nhất
quan điểm trong chỉ đạo và thực thi chính sách từ Trung ương tới địa phương
chăc chắn sẽ là tiền đề tạo điều kiện cho quá trình hội nhập kinh tế của Việt
Nam đạt kết quả cao.

Nhóm 1 – Lớp K14-FIN01A-05


25


×