Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

“ Thị trường rau qua Việt Nam thuận lợi, khó khăn và triển vọng phát triển”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.19 KB, 6 trang )

Họ- tên: Hoàng Thị Hoa Diễm
Lớp: 39CNSH
Bài tập
Môn trồng trọt chuyên khoa
“ Thị trường rau qua Việt Nam thuận lợi, khó khăn và triển vọng
phát triển”
I- Giới thiệu:
Rau, quả là những thực phẩm rất tốt cho sức khỏe. Ăn nhiều rau, quả
giúp cơ thể tránh được các bệnh về tim, đột quỵ, ổn định huyết áp và ngăn
ngừa một số bệnh ung thư, hạn chế hiệu quả các bệnh liên quan đến đường
ruột đặc biệt là viêm ruột thừa, bảo vệ mắt khỏi bị 2 loại bệnh thoái hóa rất
phổ biến, đó là đục nhân mắt và chấm đen trong mắt… đời sống càng văn
minh hiện đại thì nhu cầu sử dụng rau qua trong thực đơn hàng ngày càng
cao. Trong những năm gần đây, diện tích trồng rau, quả của nước ta đã tăng
lên nhanh chóng. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên, khu vực Đồng
bằng Sông Hồng trở thành vùng sản xuất rau lớn nhất nước, còn khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng sản xuất quả chủ yếu của cả nước. Tuy
nhiên, ngành sản xuất và tiêu thụ rau quả cũng gặp không ít khó khăn.
II- Tình hình sản xuất và xuất khẩu rau quả ở Việt Nam:
1- Tình hình sản xuất:
Với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng thuận lợi, 70% dân số làm nghề
nông và diện tích canh tác rau quả khoảng 1.500.000 ha, Việt Nam có tiềm
năng phát triển ổn định lâu dài trong sản xuất và xuất khẩu sản phẩm rau quả
khi có một chiến lược phát triển ngành tầm quốc gia.
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa trải dài trên 15 vĩ độ
từ vĩ tuyến 8
o
đến vĩ tuyến 23
o
với mùa đông lạnh ở phía Bắc và nhất là các
tỉnh miền núi. Do các đặc điểm đó, Việt Nam có các vùng sinh thái nông


nghiệp tương đối đa dạng từ nhiệt đới-ôn đới/cận nhiệt đới ở miền Bắc sang
khí hậu nhiệt đới ở miền Nam. Việt Nam có điều kiện tự nhiên và khí hậu phù
hợp để phát triển nhiều loại cây rau quả thuộc các dạng, từ quả ôn đới như
mận, đào, đến quả cận nhiệt đới như vải thiều, hay quả nhiệt đới như măng
cụt, sầu riêng, và các loại rau vụ đông như dưa chuột, cà chua, khoai tây.
Hầu hết các loại cây ăn quả được trồng hoặc xung quanh nhà với một vài
cây hoặc tại các vườn cây ăn quả tập trung với qui mô nhỏ từ 0,5 ha đến 2 ha.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây cùng với chính sách khuyến khích phát
triển kinh tế trang trại của nhà nước đã hình thành và phát triển nhiều vườn
cây ăn quả có diện tích rất lớn đến vài chục ha, nhất là ở trung du - miền núi
phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đông Nam
Bộ. So với các cây ăn quả, thì rau chủ yếu được trồng tại vườn nhà hoặc các
vườn tập trung có qui mô nhỏ hơn nhiều chỉ từ vài trăm m
2
đến dưới 1 ha.
Trong những năm qua, diện tích rau đậu tăng khá nhanh. Tính đến năm
2004, tổng diện tích trồng rau, đậu trên cả nước đạt xấp xỉ 606 ngàn ha (chưa
kể diện tích trồng một số loại củ như sắn, khoai lang). Đối với rau, ĐBSH là
vùng sản xuất lớn nhất, chiếm khoảng 29% sản lượng rau toàn quốc. Điều này
là do đất đai ở vùng ĐBSH tốt hơn, khí hậu mát hơn và gần thị trường Hà
Nội. Thời tiết mát trong giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 2 là điều kiện tốt để
trồng các loại rau ôn đới như cải bắp, hành, cà chua, củ cải và xúp lơ. ĐBSCL
là vùng trồng rau lớn thứ 2 của cả nước, chiếm 23% sản lượng rau của cả
nước. Đà Lạt, thuộc Tây Nguyên, cũng là vùng chuyên canh sản xuất rau cho
xuất khẩu và cho nhu cầu tiêu thụ thành thị, nhất là thị trường thành phố Hồ
Chí Minh. Cũng trong giai đoạn 2001 - 2004, tổng sản lượng rau đậu các loại
đã tăng tương đối ổn định từ 6,8 triệu tấn lên đạt 8,9 triệu tấn, bình quân mỗi
năm tăng 0,7 triệu tấn.
Tính đến năm 2004, diện tích cây ăn quả đạt 747,8 ngàn ha. Trong đó,
Đồng Bằng sông Cửu long (ĐBSCL) là vùng cây ăn quả quan trọng nhất của

Việt Nam với diện tích khoảng 253 ngàn ha, chiếm hơn 35% diện tích cây ăn
quả của cả nước.
. Sản lượng rau và một số cây ăn quả chính, 2001-2004 (ngàn tấn)[2]
2001 2002 2003 2004
Quả có múi 451.5 435.4 497.3 538
Dứa 318.9 373.8 383.2 422.3
Chuối 1080.4 1097.7 1281.8 1353.8
Xoài 180.6 230.8 264 314.2
Nhãn 670.4 647.4 569.7 585.9
Rau các loại 6,777 7,485 8,183 8,877
Trong các loại cây ăn quả của Việt Nam thì có 5 nhóm cây ăn quả chính,
chiếm hơn 73% tổng diện tích trồng cây ăn quả của các nước, cụ thể là
vải/chôm chôm, nhãn, chuối, xoài, quả có múi và dứa. Vải chủ yếu được
trồng ở miền Bắc, chôm chôm trồng ở miền Nam, nhãn thì trồng cả miền
Nam và miền Bắc. ĐBSCL chiếm khoảng 2/3 sản lượng cây có múi, dứa và
xoài. Sản xuất chuối phân tán hơn, tập trung chủ yếu ở ĐBSCL, Đông nam
Bộ và ĐBSH. - Xoài được trồng chủ yếu ở ĐBSCL Số liệu thống kê cho
thấy Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm trồng cây ăn quả lớn nhất
của Việt Nam. Duy nhất, chỉ có vải là tập trung trồng ở đồng bằng Sông Hồng
và Đông Bắc.
2- Xuất khẩu:
Diễn biến xuất khẩu rau quả tươi và chế biến của Việt Nam trong 7 năm qua
(1998-2004) là tương đối phức tạp và có nhiều dấu hiệu bất ổn định. Cụ thể
trong giai đoạn 1998-2001, xuất khẩu rau quả đã tăng với tốc độ rất nhanh,
nhưng sau đó lại có chiều hướng giảm liên tục trong hai năm 2002-2003 và
chỉ có dấu hiệu phục hồi đôi chút trong năm 2004.
Kim ngạch xuất khẩu rau quả tươi và chế biến tăng từ 52.6 triệu USD
năm 1998 đến trên 344.3 triệu USD năm 2001 với tốc độ tăng trưởng bình
quân lên tới 87%/năm. Sự tăng trưởng nhanh về kim ngạch xuất khẩu rau quả
của Việt Nam do nhiều nguyên nhân, trong đó chịu tác động mạnh của (i)

chính sách mở rộng phát triển thương mại, (ii) sự tham gia của các thành
phần, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân và các tư thương, trong hoạt động xuất
khẩu, (iii) các nhà nhà xuất khẩu (tư nhân hoặc nhà nước) tăng cường khả
năng xác định thị trường mới và đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng và
an toàn thực phẩm của các thị trường này, (iv) do tác động của các chính sách
vĩ mô như chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi và (v ) cuối cùng là do sự tăng
lên trong nhu cầu nhập khẩu tiêu thụ của các nước khác, đặc biệt là Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…
Trong năm 2001, giá trị ngoại tệ thu được từ xuất khẩu rau quả chỉ đứng
thứ tư trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu chính sau gạo, cà phê, và lâm
sản. Kim ngạch xuất khẩu rau quả chiếm trên 12% tổng kim ngạch xuất khẩu
nông sản trong năm vừa qua. Tuy nhiên, đây vẫn là mức thấp so với các nước
khác trong khu vực như Thái Lan 20,9%, Trung Quốc 22,8%, Philipin
39,6%.Tuy nhiên, xuất khẩu rau quả năm 2002 lại có chiều hướng giảm
xuống. Tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 2002 chỉ đạt khoảng 221.2
triệu USD, tiếp tục giảm trong năm 2003 xuống 151 triệu USD và chỉ phục
hồi đôi chút trong năm 2004 với mức kim ngạch đạt 178,8 triệu USD. Nguyên
nhân chủ yếu do giá xuất khẩu giảm xút và lượng xuất khẩu vào thị trường
Trung Quốc, một thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất, gặp khó khăn, đặc biệt là
đối với các loại quả tươi. Vấn đề này sẽ được phân tích kỹ hơn trong mục 2
của Phần III về thương mại rau quả giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Các mặt hàng rau quả của nước ta hiện nay đã có mặt ở gần 50 nước,
trong đó chủ yếu là thị trường châu Á, Tây Bắc Âu và Mỹ. Tuy nhiên, số thị
trường ta có kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 triệu USD trở lên còn ít chỉ có 4
thị trường gồm Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc, Đài Loan.
Số liệu thống kê gần đây chỉ ra rằng Trung Quốc chiếm hơn một nửa
(52%) xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Tiếp theo là Đài Loan, Hàn Quốc và
Nhật, mỗi thị trường chiếm từ 5-8% xuất khẩu của Việt Nam. Các nước khác
chiếm dưới một phần tư (1/4) xuất khẩu của Việt Nam (xem hinh 4).
Một đặc điểm tương đối rõ ràng về sự phân đoạn thị trường xuất khẩu

rau quả của Việt Nam theo mức độ chế biến, giữa rau quả tươi/khô và rau quả
chế biến. Thông thường, rau quả tươi/khô/bảo quản chiếm khoảng 70-75%
tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả hàng năm của Việt Nam, phần còn lại là
rau quả đã qua chế biến (thuộc Chương 20 của Biểu thuế HS). Trung Quốc
thông thường chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu rau quả chưa chế biến của
Việt Nam, phần còn lại được xuất khẩu sang các nước châu Á khác như Hàn
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hồng Kông và ASEAN. Trong khi đó, đa số rau
quả chế biến của Việt Nam (đặc biệt là dứa hộp) lại được xuất khẩu sang các
nước châu Âu và Mỹ.
Xuất khẩu rau quả còn nhiều thách thức:
Sản phẩm rau quả trưng diễn trong các cuộc triển lãm ở nước ngoài với
nhiều hình, sắc mới như một sự minh chứng của công cuộc đổi mới. Song có
lẽ thuyết phục nhất đối với du khách bốn phương là vừa được đắm mình
trong cảnh trí thiên nhiên hoang dã, vừa thả sức thưởng ngoạn cái ngọt ngào,
thơm thảo của trái cây miền quê.
Song, chúng ta càng tự hào về tiềm năng rau quả Việt Nam bao nhiêu, lại
càng phân vân vì việc xuất khẩu chưa tương xứng với thế mạnh đó. 5 năm
2001-2005, tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả chỉ là 1.096 triệu USD, chiếm
0,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tăng trưởng bình
quân1,9%/năm trong khi xuất khẩu cả giai đoạn đó tăng bình quân
17,5%/năm. Năm 2008 - năm xuất khẩu chung tăng ngoạn mục nhất của giai
đoạn 2006-2010, kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 406 triệu USD, tăng 33%
so với năm 2007, nhưng về tỷ trọng chỉ chiếm 0,6% tổng kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Năm 2009, trong đà suy giảm chung, xuất khẩu rau quả
đạt 431 triệu USD, vượt năm ngoái chút đỉnh, nhưng không hoàn thành kế
hoạch năm (kế hoạch năm 2009: 440 triệu USD). Điều đáng phân vân hơn là
trong khi xuất khẩu còn “khiêm nhường” thì rau quả nước ngoài xâm nhập
khá ồ ạt. Năm 2009, nhập khẩu rau quả tới 280 triệu USD, tăng 36,2% so
với năm 2008. Tiếp đến, quý I/2010 đã nhập khẩu 61 triệu USD trong khi
chỉ xuất khẩu được 109 triệu USD. Nếu kể cả nguồn rau quả nhập lậu có lẽ

“cân bằng nhập - xuất”. Lướt qua các sạp hàng từ đô thị lớn đến các thị trấn
huyện lỵ, rau quả có xuất xứ Trung Quốc “tụ họp” thật “đông vui”.
Nguyên nhân của tình hình này bắt nguồn từ sản xuất còn phân tán, những
địa phương giàu tiềm năng chưa hình thành vùng sản xuất tầm cỡ. Nhiều cơ
sở sản xuất, chế biến nhỏ lẻ nên lúng túng trong việc áp dụng công nghệ sinh
học, kỹ thuật bảo quản, chế biến, quy trình kiểm tra vệ sinh an toàn thực
phẩm. Thường là vào vụ thu hoạch rộ không tiêu thụ kịp, giá rẻ phải bán
tháo hoặc phải đổ bỏ, nhưng lại có nơi xây nhà máy không đủ nguyên liệu
chế biến, thiết bị chỏng chơ.
Việc xây dựng và phát triển thương hiệu tuy được quan tâm nhưng do nhiều
lý do vẫn còn chậm. Trong số 53 thành viên của Hiệp hội Trái cây Việt Nam
(Vinafruit), hiện chỉ có 15 thành viên đăng ký thương hiệu cho sản phẩm.
Hậu quả là 90% lượng hàng xuất khẩu phải xuất qua trung gian, mang nhãn
hiệu nước ngoài. Những thương hiệu hiện có chưa gây ấn tượng với các
kênh phân phối, người tiêu dùng.
Thị trường xuất khẩu tiếng là nhiều nhưng dung lượng đa phần còn “nông”,
chủ yếu vẫn là giao hàng tươi nguyên qua biên giới phía Bắc mà đối tác này
biết thế kẹt của ta là hàng khó bảo quản nên thường gây khó dễ để ép cấp, ép
giá. Nhìn dãy dài xe chở quả tươi chầu trực ở cửa khẩu mà xót xa. Bạn hàng
xuất khẩu đa phần là khách nhỏ, hợp đồng theo từng chuyến, tay trao tay.
Việc đi các thị trường xa, hợp đồng lớn chưa nhiều.
Bước vào gia đình WTO nghĩa là đặt chân vào thị trường toàn cầu đã được
tổ chức chặt chẽ, phần lớn do hệ thống phân phối đa quốc gia khống chế, rau
quả Việt Nam không dễ dàng thâm nhập vào thị trường rau quả cao cấp, đòi
hỏi chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm cao, cung cấp ổn định với khối
lượng lớn. Ngược lại, theo cam kết mở cửa thị trường, rau quả từ nhiều nền
kinh tế sẽ đổ vào Việt Nam càng làm nản lòng dân miệt vườn cũng như các
chủ vựa. Chẳng lẽ khi đó ta lại nhập siêu… rau quả. Dù sao đi nữa, việc xuất
khẩu rau quả nói riêng và xuất khẩu nói chung đang đứng trước vận hội mới.
Kinh tế thế giới đã có dấu hiệu hồi phục sau khủng hoảng tài chính và suy

thoái kinh tế toàn cầu. Kinh tế Việt Nam trụ vững trong khủng hoảng đang
hứa hẹn khởi sắc. Các cam kết khu vực mậu dịch tự do trong ASEAN và
giữa ASEAN với các đối tác lớn bắt đầu có hiệu lực… Vì vậy, việc tìm ra
giải pháp cho vấn đề rau quả Việt Nam vừa là cấp bách vừa là lâu dài.
Những biện pháp đó phải đồng bộ, quán triệt những giải pháp chung về phát
triển xuất khẩu, phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương, đồng thời
phải có nét đặc thù cho mặt hàng này.
Phải quy hoạch thành vùng sản xuất tầm cỡ, có điều kiện áp dụng tiến bộ
của công nghệ sinh học, giống phải có chứng chỉ nguồn gốc, không thuộc
loại biến đổi gien, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo đúng chu trình nông

×